Categories
6 - Trang lượm lặt

Cô gái gốc Việt ngủ nhờ ở sân bay để học thành phi công


337054834_754511159574403_4445094049308879527_n

Nhiều lần đến trung tâm bay ở Atlanta để dạy, Anh Thư bị nhân viên an ninh chặn lại, vì không tin cô gái gốc Á này là phi công.

“Hoàng hôn giữa không trung này là một trong những lý do trở thành phi công”, Nguyễn Anh Thư đăng một bức ảnh ráng chiều vàng ruộm bên cửa kính buồng lái lên trang cá nhân hôm 22/10. Là giảng viên dạy bay 2 năm và có kinh nghiệm hàng nghìn giờ bay, Thư vẫn thấy mình như một đứa trẻ, mắt sáng ngời khi nhìn thấy máy bay.

Thư đang dạy bay tại Atlanta, Georgia, Mỹ, đồng thời làm nghiên cứu sinh tiến sĩ chuyên ngành Kỹ thuật hàng không – Vũ trụ tại Học viện công nghệ Georgia. Cô cũng đang thực hiện ước mơ lớn hơn: một mình bay vòng quanh thế giới.
Anh Thư sinh ra trong một ngôi làng không có điện ở Xuân Hòa, Tuy Hòa, Phú Yên. Thời thơ ấu, niềm vui nhất trong ngày của cô bé là cùng các bạn ngước lên bầu trời nhìn những chiếc máy bay ngang qua, lắng nghe tiếng động cơ ù ù, đôi lúc cô còn chạy trên những cánh đồng chỉ để nhìn máy bay lâu hơn.
Năm Thư 12 tuổi, gia đình tới Mỹ, định cư ở bang Indiana. Như đa phần người nhập cư, cha mẹ cô phải vật lộn về tài chính và văn hóa ở đất nước mới, song họ luôn đặt giáo dục cho con cái lên đầu.
Anh Thư vốn học giỏi từ ngày ở Việt Nam. Những năm trung học phổ thông tại Mỹ, tiếng Anh kém nên Thư bị cô lập, không bạn bè. Bù lại, cô học rất giỏi Toán. “Tôi học đam mê suốt ngày đêm. Là người nhập cư, tôi thấy mình phải có trách nhiệm với cuộc sống của mình và luôn muốn làm cho cha mẹ tự hào”, Thư nói.
Cô đã tốt nghiệp cấp 3 với điểm số đứng đầu trong tổng số 1.500 học sinh của trường và sau đó giành học bổng toàn phần ngành Toán, tại Đại học Purdue, Indiana.
Kịch bản này không hiếm với những người nhập cư Mỹ, rằng học rất giỏi, đứng đầu, giành học bổng. Nhưng với Anh Thư, ước vọng không dừng lại đó.
“Tôi nói với ba ước mơ làm phi công năm 16 tuổi. Ba phản đối”, cô kể. Đây là điều dễ hiểu, bởi ông vẫn nghĩ con là cô gái da vàng nhỏ bé, trường y là đích đến chứ không phải học viện không quân.
“Năm 18 tuổi, tôi nghĩ mình đang ở Mỹ, có thể làm gì mình muốn mà không cần phải răm rắp nghe theo cha mẹ”, cô nhớ lại.
Anh Thư tham gia các bài học bay bất cứ khi nào có đủ khả năng tài chính. Song song, cô vẫn tốt nghiệp đại học, lọt top 10 cử nhân xuất sắc của lớp và sau này học tiếp thạc sĩ về ngành kỹ thuật hàng không vũ trụ.
“Khi còn là sinh viên, cứ một giờ học bay tôi phải làm gia sư toán trong 20 giờ mới đủ tiền trả”, Thư kể. Trong khi, để học bay một bằng cơ bản nhất thì phải bay khoảng 60 giờ. Mỗi điều kiện thời tiết, mỗi một loại máy bay cần bằng khác nhau. Anh Thư đã có hơn 10 loại bằng như thế.
Lần đầu tiên bay solo (một mình không có thầy giáo), cô gái nhỏ bé lo âu nhưng “lồng ngực căng đầy hạnh phúc, cảm giác như mình đã chinh phục được bầu trời rồi. Mình sẽ thành phi công”. Dấu mốc quan trọng này cho Anh Thư chứng chỉ lái máy bay tư nhân, sau nhiều thời gian cố gắng, ngắt quãng.
Từ đây, con đường đi trong cô càng sáng tỏ. Cô đi làm đúng chuyên ngành hàng không vũ trụ để có tiền chi trả cho các khóa học phi công. Có thời điểm, không còn tiền, cô phải ngủ trong xe. Thầy giáo thấy cô tội nghiệp đã cho phép vào sân bay ngủ.
“Tôi không dám nói với ba mẹ vì sợ họ đau lòng. Tôi cũng sợ họ không cho phép theo hàng không. Cuộc sống đã quá khó khăn, họ không có điều kiện để giúp tôi”, cô chia sẻ. Tổng cộng, cô mất 12 năm từ ngày học chứng chỉ đầu tiên, cho đến khi trở thành một giảng viên bay.
Năm 2017, Anh Thư trở thành huấn luyện viên xuất sắc của Aircraft Owners and Pilots Association (Hiệp hội các chủ sở hữu và phi công máy bay), sau khi đào tạo cho hàng trăm phi công. Cô đồng thời cũng hoàn thành bằng lái máy bay thương mại cỡ lớn.
Nhưng, cô gái gốc Việt vẫn chưa dừng lại. Anh Thư đang chuẩn bị cho hành trình một mình bay vòng quanh thế giới.
Lý do chính của việc này xuất phát từ những trở ngại hàng ngày Anh Thư phải nhận. Cô là giảng viên nữ, người da vàng và nhập cư duy nhất bên cạnh hơn 10 giảng viên nam da trắng tại một trung tâm huấn luyện bay ở Atlanta. Sự hiện diện của cô vào sân bay năm 2019 “vẫn bị cho là nhầm lẫn và là cú sốc với nhiều người, kể cả nhân viên an ninh”.
“Nhiều lần, dù trên người đang mặc đồng phục phi công nhưng nhân viên an ninh từ chối cho tôi qua cổng. Tôi phải đưa các giấy tờ chứng minh thân phận”, Thư kể.
336795239_717630536813181_3989735980879094955_n
Với các học sinh cũng tương tự. Lần đầu nhìn thấy cô, họ không vui. “Zach M, một sinh viên ban đầu không ưng khi thấy tôi, nhưng sau buổi bay cậu ấy nói ‘Bạn là một trong số ít người hướng dẫn tốt nhất tôi từng có'”, Thư chia sẻ thêm.
Chỉ hơn 5% phi công trên toàn thế giới là nữ, theo Forbes năm 2018. Tính đến nay mới có 8 phụ nữ hoàn thành chuyến bay toàn cầu. Nguyễn Anh Thư hy vọng mình trở thành người thứ 9 và là người gốc Việt đầu tiên.
Chuyến bay sẽ cần khoảng một triệu đôla, đi qua 4 lục địa, đến 25 quốc gia và vùng lãnh thổ chỉ bằng chiếc máy bay nhỏ bé một động cơ. Thư cũng sẽ đến Việt Nam và trở về quê hương Tuy Hòa trong hành trình này. Cô đang vận động kinh phí, chuẩn bị hậu cần, thị thực và giấy phép trên các lãnh thổ bay qua.
Anh Thư gọi đây là chuyến bay cho mọi cô gái, bởi sâu thẳm trong cô là cô gái nông thôn giản dị ở Phú Yên, nuôi giấc mơ lớn.

Phan Dương

Categories
Chuyện ngắn

O Lựu


337840889_205626768739964_1935024350917529955_n

Hương Thủy

Năm tôi lên chín tuổi, mẹ mất. Chị Cả đi lấy chồng xa, chị Hai còn dại lại đang cắp sách đến trường, Ba tôi nhờ người bác tìm hộ một người giúp việc. Và o Lựu xuất hiện trong gia đình. O Lựu người làng Bồ Bản, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Nhà nghèo lại đông con, mẹ o quyết định cho o lên tỉnh “đi ở ” kiếm chút vốn và cũng để bớt một miệng ăn. Năm ấy o vừa mười sáu tuổi.

Không giống những người làm ruộng vất vả khác, o Lựu có nước da trắng xanh, đuôi mắt dài, tóc chấm vai được cặp lại bằng một cái kẹp ba lá. Vào nhà được mươi lăm phút, o đã tất tả tìm cái chổi que quét dọn bếp núc. Có o Lựu, tôi khỏi phải ăn những bát cơm nửa sống nửa chín do chị Hai nấu, anh tôi không còn nhăn mặt trước dĩa chả trứng khét lẹt và ba tôi đã có ấm nước sôi pha trà buổi sáng. O dạy chị tôi “xuốc cươi thì phải khom người xuống”, dặn tôi “đừng leo cây ổi mà bổ lọi tay.” Mất mẹ lúc còn quá nhỏ, ba luôn nghiêm nghị, ít khi biểu hiện tình cảm ra bên ngoài, tôi chỉ còn o Lựu để nhỏng nhẽo. “ O Lựu rửa chân cho em…O Lựu cõng em đi chợ…O Lựu con mèo cào em”…Tai quái hơn, tôi còn bắt o làm bò cho mình cởi và khi muốn “bò ” ngừng lại, tôi đấm thình thịch vào lưng. O lẵng lặng chiều theo ý tôi, không một lời phàn nàn. Đêm đêm khi gãi lưng cho tôi ngủ, o hay kể chuyện làng mình. Chuyện đền thờ Thần Hoàng có cây đa cao vút với con tinh áo trắng chuyên dọa người đi qua; chuyện bà lão hiền lành nhặt được cục vàng khi mò cua ngoài ruộng…Thỉnh thoảng, o lại đọc những câu ca dao mang âm điệu buồn bã “Gió đưa cây cải về trời. Rau răm ở lại chịu lời đắng cay” hoặc “Chèo đò bẻ bắp bên sông. Bắp chưa có trái bẻ bông chèo về”…Tất cả ru tôi vào giấc ngủ êm đềm không mộng mị.

An phận thủ thường như những người giúp việc khác nhưng o Lựu lại có một sở thích kỳ lạ: thích chụp ảnh. Hè năm đó, cậu tôi ở Huế ra chơi đem theo cái máy ảnh Canon và chụp cho hầu hết các thành viên trong gia đình nhằm mục đích trau dồi tay nghề tài tử.Thấy sự hiền lành của o Lựu, cậu có nhã ý chụp cho o một tấm hình dưới gốc cây ổi. Ảnh sang ra, o trang trọng đón nhận bằng cả hai tay.

O mua cho tôi một đồng kẹo Gia Địa và năn nỉ tôi viết cho hai chữ “Kỷ niệm” ngòng ngoèo đằng sau ảnh. Những ngày tiếp , o thể hiện sự biết ơn của mình một cách thầm lặng: giặt sạch bộ đồ nhà binh dày cộp , cắm cúi đánh bóng đôi giày “ trấn thủ lưu đồn” của cậu. O xin tờ giấy bóng kính, bao tấm ảnh và cẩn thận xếp nó vào đáy rương. Những buổi trưa rổi rãnh, ngồi sau hiên nhà bếp, o lôi ra ngắm nghía say sưa . Dưới đôi mắt một đứa con nít như tôi, tấm ảnh chẳng có chi xuất sắc nếu không nói là xấu bởi vì o Lựu trong hình bị xén mất một chân. O nói dưới làng chỉ có nhà giàu mới dám lên tỉnh chụp bóng để sau này có ảnh mà thờ. O ao ước phải chi có nhiều tiền sẽ ra chụp một cái hình màu ở tiệm LIDO ngoài chợ tỉnh.

Mỗi năm o Lựu được về thăm nhà một lần vào ngày hai bảy tháng Chạp. Khi đó o mặc chiếc áo dài xanh của chị Cả tôi cho, đi đôi guốc mộc, đầu đội nón lá. Tiền công xá ba tôi đưa, o gói trong chiếc khăn mùi xoa và lận vào lưng quần. O xin anh tôi mấy cuốn tạp chí Thế giới tự do về cho em dán trên vách nhà. Vắng o, tôi bần thần cả mấy ngày Tết. Năm nào o lên muộn, ngồi trong lớp tôi sốt ruột sốt gan. Và thật sung sướng khi đi học về đã thấy o Lựu trong nhà bếp. O đem lên làm quà những củ khoai từ đầy bột, mớ khoai lang tươm mật và những trái khế vàng ươm.Trước vẻ mặt phụng phịu của tôi, o hứa lần sau sẽ lên nhanh, sẽ xin cho tôi về Bồ Bản, một làng quê nghèo có lũy tre xanh, có động cát trắng với bao nhiêu là sim, móc và những bông hoa chạc chìu thơm ngát.

Một hôm, tôi nằm ở nhà trên, say sưa dán mắt vào cuốn “Lửa cháy thành Phiên Ngung” thì o Lựu đi chợ về. Đã hơi trưa, o gọi vọng lên nhờ tôi lấy giúp cái kéo cắt râu tôm kịp nấu canh cho ba tôi về ăn. Mê mải với chàng trai Hoàng Anh Kiệt hào hùng, o giục giã vài ba lượt tôi mới nhỏm dậy làu bàu rồi vơ cây kéo chạy vội xuống nhà bếp ném đại về phía o đang lúi húi. Cây kéo không rơi xuống đất mà lại phi thẳng một đường vào trán, dòng máu đỏ tuôn ra. O cúi xuống, gục mặt vào đầu gối để cầm máu.Tôi hoảng hồn đứng lặng. Anh tôi vội vã lấy bông và thuốc đỏ rịt vết thương.Trưa hôm ấy khi thấy trán o bị băng, ba tôi hỏi nguyên do, o nói trớ là bị va đầu vào cột nhà. O đã giúp tôi thoát khỏi trận đòn chắc chắn sẽ xảy ra. Sau đó trên trán o có một vết sẹo khoảng khoảng ba phân vắt ngang.

O Lựu ở với chúng tôi được 4 năm. Khi tôi vừa lên lớp đệ lục thì mạ o lên xin cho o về làng để “lấy dôông”. Ở nhà quê, hai mươi mà chưa có “dôông”là coi như ế. Tôi nằng nặc không cho o về. Mặc kệ cây roi mây và lời dậm dọa của ba, mặc kệ lời dụ dỗ và những trái khế ngọt của mạ o, tôi ôm o chặt cứng. Đêm ấy, trước khi đi ngủ tôi lấy cái khăn buộc chặt tay tôi vào tay o nhưng sáng mai thức dậy o đã đi từ lúc nào. O để lại cho tôi năm đồng bạc mới trên gối. Tôi khóc tỉ tê suốt cả buổi và nhất định sẽ nhờ ai đó chở về làng tìm o. Chị Hai cứ chế diễu tôi vô duyên, không để o Lựu đi lấy chồng.

Nhưng đứa bé 12 tuổi không dễ dàng thực hiện được dự tính. Làng Bồ Bản quá xa so với đôi chân bé nhỏ của tôi. Chiều chiều tôi ngẩn ngơ ra sân ngóng đợi. Có lần, chị tôi đi sinh hoạt Hội Hồng Thập Tự Thị xã đem về tập san Đan Tay, trong đó có một bài thơ của thầy Lê Văn Mãn dạy Sử Địa nói về Bồ Bản. Bài thơ có lẽ không có chi xuất sắc nhưng tôi thuộc nằm lòng vì nó nhắc đến làng o Lựu.

Đường về Bồ Bản không xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Chưa đi những ngóng cùng trông
Khi về chỉ thấy đồng không tre già
*
Đường về Bồ Bản xa không
Muốn về nơi ấy mà lòng phân vân
Quê nhà vắng vẻ. Trong sân
Hàng cây không lá muôn phần nhớ thương.
Phải chi có o Lựu ở đây, nghe tôi đọc chắc o thích lắm. Rồi thời gian qua… Trường lớp, bạn bè và những cuộc vui cuốn hút tôi. Tôi đã lớn, đã biết đi xe đạp rồi Honda nhưng làng o Lựu trở thành vùng xôi đậu, mất an ninh. Đôi lần nhớ về o Lựu tôi ngậm ngùi. Chắc o đã có một gia đình êm ấm.
Năm 1972 mùa hè chinh chiến, gia đình tôi cũng bỏ Quảng Trị mà đi. Và từ đó tôi không còn dịp quay lại tỉnh lỵ nhỏ bé này.
Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm nhưng với cái lý lịch không mấy “sạch sẽ”: Ba “ngụy quyền”; anh trai, anh rể đi “cải tạo”; với cái nhìn không mấy thiện cảm của loại Sinh viên “Cách mạng 30” về một cô gái trước 75 hay mặc váy lên giảng đường; đi “lao động Xã hội chủ nghĩa ”vẫn áo Pull quần Jean “tàn dư Mỹ Ngụy ”, tôi không được bổ nhiệm. Buồn tình tôi bỏ về Đà Lạt.
Thành phố cao nguyên. Những ngày nằm dài ủ ê nghe thông reo. Chị Cả tôi, từ một mệnh phụ đã bước xuống cuộc đời. Đồ đạc trong nhà bán dần hết. Một nách ba con với gánh hàng trên vai, chị tôi vào bán trong Hồ Than Thở. Đây là một thắng cảnh của Đà Lạt. Cạnh đó là Trường Võ Bị Quốc Gia nay đã đổi tên thành Học Viện Lục Quân. Hàng ngày tôi nhìn sang mà lòng ngậm ngùi. Anh rể và anh trai tôi đều xuất thân từ ngôi trường quân sự danh giá này và bây giờ cả hai đều bị lưu đày ở nơi thâm sơn cùng cốc. Cả hai anh đều bị xếp vào loại “ác ôn” khi chọn lựa binh chủng Biệt Động quân với chiếc mũ nâu, cháu tôi khi chơi đánh nhau vẫn quen mồm “Ranger ranger, kill…kill ”…Khách hàng phần đông là những bộ đội “ cách mạng” các miền; thỉnh thoảng có những chuyến xe Saigon của các du khách lãng mạn đi tìm dấu tích của Đồi thông hai mộ một thuở . Sang hơn hết là xe của những cán bộ cao cấp, những đoàn chuyên gia nước ngoài đi ngoạn cảnh mà họ dùng bằng hai từ tối nghĩa “ Tham quan”. Hàng họ ngoài thuốc lá, bánh kẹo thông thường, chị tôi bày thêm tranh khắc bút lửa, những con cù lần bằng gốc cây… Mặt hàng này du khách hay mua làm kỷ niệm.Tôi thường giúp chị trong khâu bán hàng.
Buổi trưa, úp mặt vào cuốn “Người xa lạ” của A.Camus, tôi lơ mơ buồn bã. Đang miên man nhớ câu thơ của Vũ Hoàng Chương “Đời tàn trong ngõ hẹp”, tôi giật mình với tiếng reo hớn hở của người bán hàng bên cạnh: “A, khách Tây, khách Tây”. Hầu như các quán hàng đều tỉnh ngủ. Mối “sộp” đây rồi!
Tính sĩ diện vẫn còn khiến tôi không thể chạy theo chèo kéo khách như những người khác.Thôi thì ngồi yên ngâm nga thơ Nguyễn Công Trứ: “ Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất. Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh Sằn”. Các cháu ơi! Dì chịu thôi. Chiều nay chúng ta ăn khoai tây vừa mót được dưới Trại Hầm hôm qua chấm với muối vậy.
Gạt những người xúm quanh, một ông Tây bước về gian hàng bé nhỏ của tôi, chăm chú nhìn những bức tranh rồi cúi xuống chọn lựa…
Lạy Chúa, lạy Phật phù hộ! Chị tôi đang đi thăm nuôi anh rể ở trại cải tạo Sông Mao. Gạo trong nhà đã hết. Trống ngực tôi đập nhanh. Bất ngờ, ông Tây hướng về phía nhóm du khách và reo vang như vừa phát hiện một điều gì kỳ thú:
-Honey, come here. I saw your village in the picture… Người phụ nữ tóc vàng váy đỏ, dáng dấp Á Đông bước tới. Bà ta có vẻ bồi hồi khi ngắm bức tranh có mái tranh với đụn rơm, cánh đồng, con trâu đang gặm cỏ. Bà ngước lên nhìn tôi chăm chú rồi thảng thốt kêu lên…bằng tiếng Việt:
-Bé Ti, bé Ti phải không? O Lựu nì!
Tôi há hốc miệng. O Lựu, người giúp việc năm xưa? Như sợ tôi không tin, người phụ nữ vén tóc trán:
-Vết sẹo nì. O đây, o đây…
Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Sự nhớ thương pha chút tủi hổ làm tôi nghẹn ngào.Tôi gục đầu vào mái tóc o như muốn tìm lại mùi hương thời thơ ấu…
Phút xúc động lắng xuống, o giới thiệu: “Đây là Tim John, chồng o.”
Để mặc ông chồng đứng cười hiền ngơ ngác, o kéo tôi ngồi xuống kể chuyện tháng ngày qua…
Từ giã nhà tôi, o Lựu về làng lấy chồng theo sự sắp xếp của cha mẹ. Chồng o là một anh nông dân hiền lành và chăm chỉ làm ăn. Được hai năm, chưa kịp có con, anh đã chết do một phát đạn ngu ngơ không biết của phe nào khi đang cày bừa trên mảnh ruộng nhà. Rồi làng Bồ Bản chìm ngập trong lửa đạn. Ban ngày lính cộng hòa hành quân bố ráp, ban đêm du kích bò ra hoạt động, dân chúng toàn phải chui hầm.
Trong một trận pháo kích của Cộng quân, nhà o bị sập. Gia đình chết hết, o bị thương nặng được máy bay trực thăng của tổ chức Hồng thập tự đưa ra Hạm đội cứu chữa. Không còn gia đình, làng mạc tan hoang sau trận chiến mùa hè 1972, o Lựu không còn nơi để trở về. Số phận đưa đẩy, Tim John là người phụ tá bác sỹ điều trị cho o đưa o qua Mỹ và họ trở thành vợ chồng…Năm nay,Tim đại diện cho một tổ chức nhân đạo sang giúp đỡ trẻ em khuyết tật Việt Nam do chiến tranh, o theo chồng về thăm quê hương và tình cờ gặp tôi.
Vẫn là sự thương yêu chân tình đối với “ cô chủ nhỏ” của mười năm trước, o Lựu vuốt ve mái tóc tôi, xuýt xoa khi nắn bóp cơ thể gầy guộc thiếu ăn của “bé Ti ” , chảy nước mắt khi nghe anh tôi đi “cải tạo” tận miền núi Hoàng Liên Sơn rừng sâu nước độc và thở dài khi biết chị tôi đang lặn lội đi thăm chồng tù tội. Ôi! Vẫn là một o Lựu chơn chất, hiền lành của ngôi làng Bồ Bản xa xưa.
Lúc chia tay, o tế nhị dúi vào túi áo tôi một cuộn tiền rồi tất tả lên xe. Vẫy tay chào theo tôi không biết là mình đang mơ hay tỉnh. Lần đầu tiên, tôi nhìn thấy những tờ 100 đô la Mỹ.
Nhờ số tiền của o Lựu , chị tôi từ giã nghề buôn gánh bán bưng. Chị sang một sạp hàng tạp hóa ở chợ Đa lạt, nuôi 3 đứa con ăn học chờ chồng trở về từ trại giam.
Sáu năm sau anh chị cũng ra nước ngoài theo diện HO. Trên đất khách quê người những ngày đầu tiên, anh chị được vợ chồng o Lựu tận tình giúp đỡ.Tiếc rằng do vết thương chiến tranh, o Lựu không thể có con. Vợ chồng o nhận đứa con trai của anh chị tôi làm con đỡ đầu.
Năm ngoái tôi lặng người khi nghe chị tôi gọi điện thoại báo tin o Lựu đã qua đời sau một cơn đột quỵ. Ôi ! O Lựu, bóng mát trên thiên đường ký ức của tôi, ân nhân của gia đình tôi trong cơn khốn cùng…Tôi khóc o như khóc một người thân yêu nhất.
O Lựu
Truyện ngắn: Hương Thủy

Chú thích:

• xuốc cươi: quét sân

• bổ : té

• lọi tay: gãy tay

Categories
7 - Trang văn học

Minh Đức Hoài Trinh


unnamed - 2023-03-23T121131.961

Có ai ngờ, thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh, người phụ nữ rất sợ hãi cô đơn trong thơ của bà, đã ra đi và phải lên đường một mình.

Như một lời tiên tri, người con gái nhỏ bé, ăn mặc lịch lãm vững chãi, từng bước tự tin trên đại lộ thênh thang của thành phố Paris ngày nào, đã nức nở trong những lời thơ “Đừng bỏ em một mình”, cuối cùng chịu thua, nằm xuống, thôi chống chọi với cuộc sống và mặc cho côn trùng rúc rỉa.

Đừng bỏ em một mình
Cho côn trùng rúc rỉa
Cỏ dại phủ mộ trinh
Cho bão tố bấp bênh
Đừng bỏ em một mình
Môi vệ thần không linh
Tiếng thời gian rền rỉ
Đường nghĩa trang gập ghềnh

unnamed - 2023-03-23T121831.347

Tôi thường gặp bà và phu quân, nhà văn Nguyễn Quang trong các buổi họp mặt văn nghệ. Bà gầy, nhỏ, mong manh và chịu đựng sự tàn phá của thời gian, mất đi trí nhớ, ngồi bên chồng, níu lấy ông, một cây tùng chở che vững chãi. Bà lặng lẽ, nét thanh lịch vẫn còn đó, nhưng chỉ còn như một cái bóng. Tôi không thể hình dung bao nhiêu năm trước sức sống và sự tranh đấu của người phụ nữ này kiên cường đến mức nào. Lịch sử cuộc đời bà là những trang hoạt động tích cực và có ý nghĩa biết là bao.

unnamed - 2023-03-23T122206.543

Minh Đức Hoài Trinh tên thật là Võ Thị Hoài Trinh, bà thường lấy các bút hiệu là Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh, Bằng Cử. Bà sinh ngày 15 tháng 10 năm 1930 tại Huế, sống ở Pháp từ năm 1953 đến 1964. Sau đó bà đến định cư tại quận Cam, Hoa Kỳ từ năm 1982. Mất ngày 9 tháng 6, 2017.

Tên tuổi của Minh Đức Hoài Trinh không ai trong giới văn học không biết. Bà sinh tại Huế, con quan Tổng Đốc Võ Chuẩn, Ông Nội bà là Võ Liêm, Thượng Thư Bộ Lễ của triều đình. Năm 1945 Bà tham gia phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp, sau đó Bà biết sự lợi dụng của phong trào nên bà bỏ về Huế tiếp tục học. Năm 1964 bà đi du học tại Pháp về ngành báo chí và Hán văn tại trường ngôn ngữ Đông Phương La Sorbonne, Paris đến năm 1967 bà ra trường và làm phóng viên cho đài truyền hình Pháp ORTF, lúc đó bà đi làm phóng sự nhiều nơi sôi động nhất như: Algerie và chiến trường Việt Nam. . .

unnamed - 2023-03-23T122438.651

Phóng viên chiến trường Minh Đức Hoài Trinh

Năm 1972 bà được cử theo dõi và tường thuật cuộc hòa đàm Paris. 1973 Bà sang Trung Đông theo dõi cuộc chiến Do Thái, một thời gian sau bà trở về Việt Nam giảng dạy khoa báo chí tại Viện Đại Học Vạn Hạnh năm 1974-1975. Sau biến cố 1975 bà trở lại Paris cho xuất bản tạp chí “Hồn Việt Nam” và trở lại cộng tác với đài phát thanh ORTF với chương trình Việt ngữ để tranh đấu cho những nhà cầm bút, những văn nghệ sĩ Việt Nam bị cộng sản cầm tù. Bà đứng ra thành lập Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và vận động để được công nhận hội viên Hội Văn Bút Quốc Tế tại Rio de Janeiro, Ba Tây vào năm 1979.

unnamed - 2023-03-23T122622.823

Bà đã dùng ngòi bút và khả năng của mình thường xuyên tranh đấu cho các văn nghệ sĩ bị cộng sản giam cầm phải được trả tự do, ngoài những bài báo, bà còn sáng tác hơn 25 tác phẩm giá trị, trong đó có truyện ngắn, thơ, văn…

Là một người đàn bà sống 87 năm qua các cuộc chiến, con người, thân phận, tư duy, thăng trầm của cuộc sống, có thể nói, đều thể hiện qua thơ, văn của bà. Năm 1948, ngày đó, người thiếu nữ thanh xuân như nụ hồng vừa hé, làm điên đảo thần hồn nam nhi đến nỗi Phạm Duy đã phải thốt lên, “Tôi bấy giờ đang là quân nhân… bỗng gặp lại Minh Đức Hoài Trinh lúc đó được mười bảy tuổi từ thành phố Huế thơ mộng chạy ra với kháng chiến. Nàng còn đem theo đôi gót chân đỏ như son và đôi mắt sáng như đèn pha ô tô. Từ tướng Tư lệnh Nguyễn Sơn cho tới các văn nghệ sĩ, già hay trẻ, độc thân hay đã có vợ con… ai cũng đều mê mẩn cô bé này.

unnamed - 2023-03-23T122720.736

Phạm Ngọc Thạch từ Trung ương đi bộ xuống vùng trung du để vào Nam bộ, khi ghé qua Thanh Hóa, cũng phải tới Trường Văn hóa để xem mặt Hoài Trinh. Hồi đó, Minh Đức Hoài Trinh đã được Đặng Thái Mai coi như là con nuôi và hết lòng nâng đỡ“…

Tình trường, cô đơn, được mất, tan nát, trắc trở, đã ghi đậm dấu ấn lên nhan sắc thơ mộng sâu sắc của người con gái sông Hương chịu ảnh hưởng của hai nền giáo dục Âu Á thế nào, mà chỉ 6 năm sau, ngày Phạm Duy gặp lại, nàng đã cho ra đời hai bài thơ chạm đến đáy hồn chàng du ca Phạm Duy.

“Năm 1954, tôi gặp Minh Đức Hoài Trinh lần thứ ba khi tôi tới Paris ở khoảng hai năm. Nàng đã rời Việt Nam, đang sống với một người em trai trong một căn phòng nhỏ hẹp. Ba lần gặp nhau là rất hy hữu, tôi bèn giao lưu với nàng và soạn được hai bài ca bất hủ”. Thơ Minh Đức Hoài Trinh và nhạc Phạm Duy đã cùng chắp cánh trong hai bản tình ca “Kiếp nào có yêu nhau” và “Đừng bỏ em một mình” đánh dấu cho một dấu ấn trong tình ca tân nhạc Việt Nam mang đậm nét nức nở, bi lụy, rực rỡ nữ tính. Ngày ấy, khi làn sóng Đài Phát Thanh Sài Gòn vang lên tiếng hát Khánh Ngọc với bài hát Kiếp Nào Có Yêu Nhau, những ai nghe được tiếng nức nở của một bài ca lòng mà tim không chùng xuống? Giọng Khánh Ngọc mạnh mẽ, uất nghẹn, đau đớn, tiếc nuối, mang mang nỗi cô đơn và hãi sợ …

unnamed - 2023-03-23T123208.372

Người đã quên ta rồi
Quên ta rồi hẳn chứ
Trăng mùa thu gãy đôi
Chim nào bay về xứ

Chim ơi có gặp người
Nhắn giùm ta vẫn nhớ
Hoa đời phai sắc tươi
Đêm gối sầu nức nở

Kiếp nào có yêu nhau
Nhớ tìm khi chưa nở
Hoa xanh tận nghìn sau
Tình xanh không lo sợ

Lệ nhòa trên gối trắng
Anh đâu, anh đâu rồi
Rượu yêu nồng cay đắng
Sao cạn mình em thôi

(trích Kiếp Nào Có Yêu Nhau-MĐHT- ca sĩ Thái Thanh)

Nghệ sĩ là người nhạy cảm, thấy được cái đẹp, cái đau trước người khác. Có người làm thơ hay viết nên một ca khúc bằng cảm xúc do câu chuyện thật đời mình. Có người chỉ cần chứng kiến hay nghe kể một câu chuyện thương tâm, cũng có thể xúc động và hư cấu nên một bài thơ, một ca khúc hay. Hai bài thơ của MĐHT được Phạm Duy phổ nhạc, không biết được viết lên bằng những cơn đau bà từng trải nghiệm hay do bà hư cấu mà thành. Tuy bà không nói hay kể nguyên nhân vì đâu hai bài thơ ấy được ra đời, nhưng đã có những huyền thoại vây quanh đóa hoa duyên dáng tài hoa ấy.

unnamed - 2023-03-23T123408.200

Sau khi bà mất, nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân ở Hà Nội, trong một lời chia sẻ trên facebook về bài thơ Kiếp Nào Có Yêu Nhau, ông tiết lộ ” Hồi năm 2000 có dịp ghé qua Đại Học Cornell, Hoa Kỳ, thấy tại thư viện ĐH này khá nhiều sách của Minh Đức Hoài Trinh, xuất bản tại miền Nam trước 75 và tại KH sau 75. Tôi cũng từng trò chuyện với bạn PTH, con gái nhà thơ Phan Khắc Khoan, mới biết bà M.Đ. Hoài Trinh là dì ruột bạn ấy. Ông Vũ Tú Nam từng kể với mình là bà Hoài Trinh cùng học với ông ở lớp văn hóa kháng chiến ở Quần Tín, Thanh Hóa, (cùng khóa có Ng. M. Cầm, sau là bộ trưởng Ngoại giao).

Bạn PTH kể: đứng trong hàng ngũ Kháng Chiến, bà H.Trinh được cử vô thành để tiếp cận thuyết phục một nhân vật là Phan Văn Giáo. Sự tiếp cận do phía Kháng Chiến giao việc lại dẫn đến một tình yêu. Điều đau đớn là khi tình yêu đã nảy cành kết trái thì phía Kháng Chiến cử người ám sát Ph.V.Giáo. Khi ấy bà H.Trinh đã có thai, bị bất ngờ và cực kỳ thất vọng. Có lẽ bài thơ “Kiếp nào có yêu nhau” như là tiếng lòng bà trước nỗi đau kia, dù giọng rất kìm nén. Bạn PTH cũng cho biết, đứa con chung của họ, một cô gái, lớn lên sang Paris và đi tu. Mẹ bạn PTH tức chị bà Hoài Trinh cũng mới mất tại Hà Nội cách nay ít lâu; anh Đặng Tiến có nhắc tên bà. Tôi từng tới nhà ông bà một vài lần, ở gần ngõ Hàng Hành.”

unnamed - 2023-03-23T123533.687

Và trong một chia sẻ khác trên facebook của nhà văn Nguyễn Hữu Nghĩa khi kể lại những kỷ niệm ông đã có với MĐHT, ông cho biết nguyên do bà viết Đừng Bỏ Em Một Mình như sau, “Tôi chợt nhớ, ngày xưa, lâu lắm, chị nhìn thấy một đám tang đi ngang và xúc động viết bài thơ Đừng Bỏ Em Một Mình“.

Khi ca sĩ Hoàng Oanh thực hiện chương trình phát thanh Thi Văn Tao Đàn năm 1995, bà có hỏi MĐHT về bài thơ Đừng Bỏ Em Một Mình, MĐHT đã chia sẻ như sau ” Sự kiện thúc đẩy tôi viết bài thơ này là do một hôm đi viếng viện bảo tàng Musée du Léon ở Pháp, tôi thấy cái xác uớp khô của 1 người đàn bà 8,9 trăm năm về trước. Tôi chợt nghĩ đến con người này thời xuân trẻ có mái tóc dài buông xuống lưng. Mớ tóc còn đó khá nguyên vẹn nhưng còn được bao lâu? Tôi viết bài thơ này không phải là lời của 1 người con gái nói với 1 người con trai, mà là lời của con người bé nhỏ nói với vũ trụ đứng trước mặt đại dương mông mênh. Theo tôi không có âm thanh nào ghê rợn bằng âm thanh của búa nện trên đinh cùng nhịp điệu của tiếng cầu kinh. Phải thức suốt đêm mới hiểu được sự buốt giá của vết chân lũ hồ tinh.”

unnamed - 2023-03-23T123701.817

Tất cả những chia sẻ và chuyện kể tôi ghi nhận được ở trong bài viết này, dù hư hay thực, xin không kiểm chứng, và xin xem như những huyền thoại này góp phấn, thêm hoa, điểm hương cho những thăng trầm trong cuộc sống của Minh Đức Hoài Trinh.

Năm 1945, bà tham gia phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp, sau đó vì tầm nhìn xa và biết sự lợi dụng của phong trào, bà bỏ về Huế tiếp tục đi học. Ngôn ngữ và văn chương vốn đã luân lưu trong dòng máu người nữ lưu con quan Tổng Đốc đất Thần Kinh, lại hiểu rõ tầm quan trọng và lợi hại của truyền thông và văn hoá, bà chọn ngành báo chí và Hán Văn để du học tại Pháp. Ngoài tiếng mẹ đẻ, bà thông thạo nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Trung Hoa. Tốt nghiệp năm 1967, bà được Đài truyền thanh/truyền hình Pháp ORTF tuyển làm phóng viên, một nữ phóng viên đầu tiên gốc Việt. Bà được đặc phái qua các chiến trường sôi động Algérie, Do Thái và Việt Nam. Từ 1969 cho đến 1972, ORTF cử bà theo dõi và tường trình cuộc Hoà đàm Paris. Nhiệt tình và tài hoa của Minh Đức đã gây được sự tín nhiệm nghề nghiệp trong một lãnh vực truyền thông quốc tế mà lúc ấy chưa từng mở rộng cho nữ giới Việt Nam.

Ký giả chiến trường Kiều Mỹ Duyên là người có cơ hội tiếp xúc và có nhiều kỷ niệm với bà, Kiều Mỹ Duyên kể,

unnamed - 2023-03-23T123746.290

“Kỷ niệm về chị Minh Đức Hoài Trinh thì nhiều lắm. Chị rất thông minh, biến ứng nhanh nhẹn, hay nói về chính trị, kể cho tôi nghe nhiều chuyện thú vị. Chị thường đi họp báo Ủy Ban Liên Hợp 4 bên và chị thường chất vấn phái đoàn CS. Câu hỏi nào của chị cũng rất hóc búa. Là người Trung, chị quan tâm đến đồng bào miền Trung, nhất là biến cố Mậu Thân. Tôi còn nhớ phòng họp báo không rộng lắm, người quốc gia thì ở bên tay mặt, người quốc gia khác thì ngồi bên tay trái. Hôm đó tôi đặt câu hỏi, “Trong biến cố Mậu Thân, các ông giết 4 giáo sư người Đức, đến VN dạy học theo diện trao đổi văn hóa quốc tế, họ dạy học đâu có làm chính trị, sao các ông lại giết họ?” Tôi nhận được nhiều tràng pháo tay vang dội vì câu hỏi này, tràng pháo tay của chị Minh Đức Hoài Trinh là giòn tan nhất, lớn nhất.”

unnamed - 2023-03-23T124008.824

Sau 1973, bà trở về Việt Nam giảng dạy khoa báo chí tại Viện Đại Học Vạn Hạnh, đến năm 1975. Song song với việc thuyết trình tại các Hội thảo văn hoá quốc tế ở Indonesia, bà còn viết báo, sáng tác và cho xuất bản trên 25 tác phẩm đủ loại. Minh Đức cộng tác với nhiều tờ báo và tạp chí như Bách Khoa, Phổ Thông, Sáng Tạo, Cao Đẳng Quốc Phòng. v..v.., không kể tham gia Hội Văn bút Quốc Tế và phụ trách viết “Bức thư hậu phương” đăng hằng ngày trên tờ báo Đông Phương để nâng cao tinh thần các chiến sĩ tiền tuyến. Bà còn mở nhiều lớp dạy đàn tranh, học trò rất yêu thương cô giáo, Khi tôi để bài viết về bà lên face book, vài người học trò xưa đọc được và chia sẻ những ký ức và kỷ niệm thân thương khi học đàn tranh với bà.

Sau 1975, bà định cư tại Paris và cho xuất bản tạp chí “Hồn Việt Nam” và trở lại cộng tác với đài ORTF, qua chương trình Việt Ngữ để tranh đấu cho những nhà cầm bút, những văn nghệ sĩ Việt Nam bị cộng sản cầm tù, phải được trả tự do.

unnamed - 2023-03-23T124043.195

Một điểm son rực rỡ mà Minh Đức đã thực hiện được, là đi tiên phong trong việc đứng ra thành lập Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại. Trước 1975, Trung Tâm Văn Bút Việt Nam đã hoạt động và quy tụ nhiều tên tuổi lẫy lừng của nền văn học miền Nam như Thanh Lãng, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Trung, Vương Hồng Sển, Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyên Sa và hàng trăm văn nghệ sĩ tài ba khác.

Ngày 25 tháng 6 năm 1978, tại nhà hàng Ainbiram de Saigon ở thủ đô Paris, Pháp, hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại đã được ra mắt với nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh là chủ tịch, cùng sự có mặt của Nguyên Sa Trần Bích Lan, luật sư Trần Thanh Hiệp và Trần Tam Tiệp giữ nhiệm vụ tổng thư ký.

unnamed - 2023-03-23T124241.651

Từ đó mỗi lần nhắc đến việc thành lập Văn Bút Hải Ngoại, người ta hay nhắc nhở đến tên tuổi của 4 người đi tiên phong trên cùng nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Tuy nhiên trong một bài viết có tựa “Minh Đức Hoài Trinh và Văn Bút VN Hải Ngoại 35 năm sau” Sơn Tùng, một cựu chủ tịch Văn Bút Hải Ngoại đã khẳng định rằng, việc tranh đấu cho sự có mặt của Văn Bút, là một nỗ lực kiên cường của một mình Minh Đức Hoài Trinh trong việc phục hoạt Văn Bút ở hải ngoại, vì bà gặp phải sự chống đối mạnh mẽ của phe thân cộng.

Ông viết như sau “Năm 1977, dù đời sống tị nạn chưa ổn định, Minh Đức Hoài Trinh đã tham dự Đại Hội Văn Bút Quốc Tế kỳ 42 ở Sydney, Úc Châu, và lên diễn đàn đưa ra những tin tức và bằng chứng về số phận đen tối của văn nghệ sĩ tại miền Nam Việt Nam sau 30.4.1975, trong đó có những hội viên Văn Bút Việt Nam (đã giải thể), để yêu cầu Văn Bút Quốc Tế lên tiếng.

Năm sau, 1978, Minh Đức Hoài Trinh lại một mình tham dự Đại Hội Văn Bút Quốc Tế kỳ 43 tổ chức ở Stockholm, Thụy Điển, và vận động thành lập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, một việc mà ai cũng thấy là vô hy vọng vì sự chống đối mạnh mẽ của phe thân cộng. Nhưng khi Đại Hội Đồng bỏ phiếu, kết quả thật đáng ngạc nhiên: 23 phiếu thuận – 23 phiếu chống. Ông Tổng Thư Ký VBQT Alexander Blohk hậu thuẫn cuộc vận động của Minh Đức Hoài Trinh nhưng lại bỏ phiếu trắng vì muốn giữ sự vô tư. Nếu ông bỏ phiếu thuận thì ước vọng của chị đã thành sự thật.

Không nản chí, năm 1979, tại Đại Hội Đồng Văn Bút Quốc Tế kỳ 44 ở Rio de Janeiro, Brazil, Minh Đức Hoài Trinh lại vận động thành lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (VBVNHN) như một Trung tâm của Văn Bút Quốc Tế (VBQT), và đã thành công.

unnamed - 2023-03-23T125327.953

Đây là một biến cố nhiều ý‎ nghĩa trong đời sống của người Việt tị nạn ở hải ngoại: chỉ ba năm sau cái chết của Tự Do tại Việt Nam, người cầm bút Việt Nam ở hải ngoại đã chính thức có tiếng nói tại một diễn đàn quốc tế quan trọng.

Có thể nói “không có Minh Đức Hoài Trinh thì không có Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại”, và không có sự góp mặt, góp tiếng của người Việt lưu vong tại các Đại Hội Văn Bút Quốc Tế hàng năm để bênh vực cho những người cầm bút bị đàn áp tại Việt Nam.

unnamed - 2023-03-23T125340.221

Có vài bài viết không đúng sự thật khi cho rằng Thi sĩ Nguyên Sa và Luật sư Trần Thanh Hiệp đã cùng Minh Đức Hoài Trinh lập ra VBVNHN. Trong những tài liệu liên hệ đến cuộc vận động thành lập VBVNHN qua ba kỳ Đại Hội VBQT năm 1977, 78 và 79 (biên bản, hình ảnh, báo chí) không có ai khác cả, ngoài Minh Đức Hoài Trinh.

Qua một lần nói chuyện với tôi, Minh Đức Hoài Trinh cho biết đã rất vất vả mới kiếm được hai mươi người, số hội viên tối thiểu, để nạp đơn xin thành lập một Trung tâm trong VBQT (có thể trong đó có Trần Thanh Hiệp và Nguyên Sa)”.

Mấy năm trời MĐHT đã vận động và tranh đấu cho sự góp mặt, góp tiếng, của người cầm bút hải ngoại trước cộng đồng giới cầm bút quốc tế hẳn có lúc bà thấy rõ nỗi cô đơn, vô vọng của mình. Nhờ có Văn Bút Hải Ngoại, sau này việc giúp đỡ và bênh vực cho các người cầm bút ở VN được trả tự do dễ dàng và hiệu quả hơn. Mối tình với nước non của bà, vậy là ai cũng hiểu, nhưng tình riêng thì, có phải cái chết của mẹ bà, của những người thân quanh bà, ngay cả bom đạn của quê hương đã ám ảnh, dằng xé trong suốt không gian của những bài thơ buồn?

Đêm mờ hơi sương
Đi đâu anh, đi đâu
Xin đừng đi nữa
Đỗ lại hôm nay, cởi súng buông gươm
Tội nghiệp em
Ba mươi năm khói lửa
Mải hận thù quên nói chuyện yêu đương.

Em sợ lắm
Mùi hôi tanh của màu đen, máu chết
Từ mình anh rịn thấm xuống thân em
Trời ôi, này
Sao xác anh bê bết
Lấy đất bùn thay nệm ấm chăn êm

(trích Lời của đất- MĐHT)

hay

unnamed - 2023-03-23T125355.894

Mẹ ơi ngày ấy đến
Chúng không cho con về
Ôi lũ người chưa yêu mến
Và những tấm lòng chưa biết say mê!

Lòng chúng làm bằng thép
Tim chúng vấy bùn nhơ
Cầu hư danh gượng ép
Chà đạp lên giấc mơ

Thế là hết mẹ ơi
Tầu nhổ neo đi rồi
Con không về với mẹ
Máu rướm mềm lên môi

Gục đầu bên nấm mộ
Mẹ ơi con không về
Chuông nhà thờ ai đổ
Ai nghe buồn lê thê

(trích Gục Đầu bên Mộ Mẹ-MĐHT)

Một trong những bài thơ mang tâm trạng đau buồn của người con Việt lưu lạc nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn rất nổi tiếng là bài “Ai trở về xứ Việt”. Bà sáng tác bài này năm 1962 nhưng được nhạc sĩ Phan Văn Hưng phổ thơ sau khi Sài Gòn thất thủ năm 1975. Ông đã kể chúng tôi nghe một câu chuyện liên quan, trong buổi họp mặt đón chào ông từ Úc ghé thăm Cali. Tháng 10, năm 2008, tôi đã cùng Nhật Báo Viễn Đông và Phong Trào Trần Quốc Toản bảo trợ, cùng tổ chức một buổi văn nghệ “Phan Văn Hưng- Dòng Nhạc và Cây Đàn” cho NS Phan Văn Hưng. Buổi họp mặt Rehearsal đó hiện diện khoảng 10 người, có mặt BS Nhuận-chủ báo Viễn Đông, Ký giả Kiều Mỹ Duyên, nhà văn Đặng Phú Phong..v..v.. Ông đã đàn, hát những bài ông sẽ trình diễn ở buổi văn nghệ, trong đó có “Ai Trở Về Xứ Việt” phổ thơ Minh Đức Hoài Trinh.

Ông không quên kể lại câu chuyện xưa “Khi Saigon thất thủ, ở Paris, chúng tôi một nhóm sinh viên họp nhau trong nghęn ngào tức tưởi, có sự hiện diện của chị Minh Đức Hoài Trinh. Ngay lúc đó, tôi lại vừa phổ xong bản nhạc Ai Trở Về Xứ Việt, thơ của chị Minh Đức Hoài Trinh. Tôi liền ôm đàn và hát, mọi người bật lên tiếng khóc, hụt hẫng như rắn mất đầu, vì tòa đại sứ VN đã bàn giao”. Ông chấm dứt câu chuyện trong giọng nghẹn ngào, đầy xúc động. Sau này, Phan Văn Hưng đã mang bài hát này đi trình diễn ở nhiều nơi và nhiều ca sĩ đã hát bài này. Khi trại cải tạo mọc lên ở khắp đất nước VN, giam cầm các người tù của chế độ, hỏi rằng người Việt xa xứ nào không thương cảm, xót xa khi hát lên bài hát của lòng này?

unnamed - 2023-03-23T125430.983

Cuối cùng tôi xin lấy bài viết nhỏ này làm một nén hương tiễn biệt người nữ sĩ tài hoa mà tôi từng có lần gặp gỡ. Chúc bà an bình và thong dong, rong chơi cuối trời phương ngoại.

unnamed (24)

Trịnh Thanh Thủy

 

Categories
5 – Sưu Tầm

NHỮNG ĐIỀU CẦN NHỚ


335908750_1692155021239222_8654958234445066022_n

Người xưa đã từng răn dạy!

1. Ăn no không gội đầu, đói không tắm. Rửa mặt nước lạnh, vừa đẹp vừa khỏe. Mồ hôi chưa khô, đừng tắm nước lạnh. Đánh răng nước ấm, chống ê chắc răng.
2. Ăn gạo có trấu, thức ăn có chất xơ . Nam không thể thiếu rau hẹ, nữ không thể thiếu ngó sen. Củ cải trắng, sống không tốt nhưng chín thì bổ. Ăn không quá no, no không nên nằm.
3. Dưỡng sinh là động, dưỡng tâm là tĩnh. Tâm không thanh tịnh, ưu tư vọng tưởng dễ nảy sinh. Tâm thần an bình, bệnh sao đến được. Nhắm mắt dưỡng thần, tĩnh tâm ích trí.
4. Dược bổ thực bổ, đừng quên tâm bổ. Coi tiền như cỏ, coi thân như bảo. khói hun cháy lửa, tốt nhất không ăn. Chiên dầu ngâm ướp, ít ăn thì tốt.
5. Cá thối tôm rữa, lấy mạng oan gia. Ăn mặc giữ ấm, nhất thân là xuân. Lạnh chớ chạm răng, nóng chớ chạm môi. Đồ chín mới ăn, nước chín mới uống.
6. Ăn nhiều rau quả, ít ăn đồ thịt. Ăn uống chừng mực, ngủ dậy đúng giờ. Đầu nên để lạnh, chân nên giữ ấm. Vui chơi biết đủ, không cầu an dật.
7. Dưỡng sinh là cần cù, dưỡng tâm là tĩnh tại.
8. Người đến tuổi già, thì phải rèn luyện, đi bộ chạy chậm, luyện công múa kiếm; đừng sợ giá lạnh, quét sạch sân nhà, hội họa thêm vui, tấm lòng rộng mở.
9. Nghe tiếng gà gáy, đừng cố nằm thêm, trồng hoa nuôi chim, đọc sách ngâm thơ; chơi cờ hát kịch, không ham phòng the, việc tư không nhớ, không chiếm lợi riêng.
10. Ẩm thực không tham, bữa tối ăn ít, khi ăn không nói, không nên hút thuốc; ít muối ít đường, không ăn quá mặn, ít ăn chất béo, cơm không quá nhiều.
11. Mỗi ngày ba bữa, thức ăn phù hợp, rau xanh hoa quả, ăn nhiều không sợ; đúng giờ đi ngủ, đến giờ thì dậy, nằm dậy nhẹ nhàng, không gấp không vội.
12. Uống rượu có độ, danh lợi chớ tham, chuyện thường không giận, tấm lòng phải rộng.
13. Tâm không bệnh, nên phòng trước, tâm lý tốt thân thể khỏe mạnh; tâm cân bằng, phải hiểu biết, cảm xúc ổn định bệnh tật ít.
14. Luyện thân thể, động cùng tĩnh, cuộc sống hài hòa tâm khỏe mạnh; phải thực dưỡng, no tám phần, tạng phủ nhẹ nhõm tự khai thông.
15. Người nóng giận, dễ già yếu, thổ lộ thích hợp người người vui; thưởng thức thư họa, bên suối thả câu, lựa chọn sở thích tự do chơi.
16. Dùng đầu óc, không mệt nhọc, bớt lo dưỡng tâm ít náo nhiệt; có quy luật, sức khỏe tốt, cuộc sống thường ngày phải hài hòa.
17. Tay vận động, tốt cho não, phòng ngừa bị lạnh và cảm cúm.
18. Mùa hè không ngủ trên đá, mùa thu không ngủ trên phản. Mùa xuân không hở rốn, mùa đông không che đầu. Ban ngày hoạt động, tối ngủ ít mơ.
19. Tối ngủ rửa chân, hơn uống thuốc bổ. Buổi tối mở cửa, hễ ngủ là say. Tham mát không chăn, không bệnh mới lạ.
20. Ngủ sớm dậy sớm, tinh thần sảng khoái, tham ngủ tham lạc, thêm bệnh giảm thọ. Tranh cãi buổi tối, ruột như sát muối.
21. Một ngày ăn một đầu heo, không bằng nằm ngủ ngáy trên giường.
22. Ba ngày ăn một con dê, không bằng rửa chân rồi mới lên giường.
23. Gối đầu chọn không đúng, càng ngủ người càng mệt. Tâm ngủ trước, người ngủ sau, ngủ vậy sẽ thành mỹ nhân.
24. Đầu hướng gió thổi, ấm áp dễ chịu, chân hướng gió thổi, hãy mời thầy lang.
25. Không ngủ nơi ngõ hẻm, độc nhất khi gió lùa.
26. Đi ngủ không thắp đèn, sáng dậy không chóng mặt.
27. Muốn ngủ để tấm thân nhẹ nhõm, chân không hướng tây đầu không hướng đông.

Sưu tầm.

Categories
Uncategorized

7500 NGÔI MỘ LÍNH VNCH ở Pleiku,Gia Lai. Bốn ngôi mộ của SQ/QLVNCH bị chết trong trại tù “cải tạo” vừa được phát hiện trong núi rừng Yên Bái, Bắc Việt.


Bốn ngôi mộ của SQ/QLVNCH bị chết trong trại tù “cải tạo” vừa được phát hiện trong núi rừng Yên Bái, Bắc Việt.

Các chi tiết được ghi trên mộ bia:

1/- Trần Đại Vĩnh

       sinh năm 1941 – chết năm 1977

       địa chỉ: Thành Nội Huế

2/-Nguyễn Ngô Thanh

       sinh năm 1933 – chết 1977

      địa chỉ: Cư Xá Bắc Hải – Quận 1 Sài gòn.

3/- Trần Liễu (Đại úy)

       sinh năm 1943 – chết năm 1976

4/- Lê Kỳ Sơn

       sinh năm 1932 – chết năm 1977

       địa chỉ: Đường Phan Kế Bính – Quận 1- 

        Sài gòn.

Xin theo dõi youtube phía dưới để thấy vị trí và tình trạng các ngôi mộ:

https://www.youtube.com/watch?v=ga6NGSjMJLU [youtube.com]

Cầu mong thân nhân nhận được tin

Xin chân thành biết ơn,

 PTAN
(cựu tù Yên Bái)

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

Đập Thủy Điện SEKONG A đối với sự SỐNG CÒN của Dân tộc Việt


Đập Thủy Điện SEKONG A đối với sự SỐNG CÒN của Dân tộc Việt

Tháng 2/2023, không ảnh phát hiện một Đập Thủy Điện đang xây cất trên sông SEKONG, Hạ Lào .
unnamed - 2023-03-05T201645.403
Đập Thủy Điện này một khi hoàn thành sẻ vô cùng tai hại cho Dân Việt sống Miền Đồng Bằng Sông Cửu, vì sông SEKONG là dòng nhánh lớn cuối cùng của sông MEKONG, thủy đạo duy nhứt đưa phù sa bồi đắp tạo Miền Nam và nuôi dưỡng CÁ cho cả 2 quốc gia: Việt Nam và Cao Miên.

unnamed - 2023-03-05T201630.215
Sông Sekong trong hệ thống sông Mekong

Sông Sekong có các phụ lưu bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn ở biên giới Bắc Trung Bộ Việt Nam – Nam Lào, chảy về phía tây và tây nam qua các tỉnh Sekong, Attapeu ở Nam Lào, Stung Treng ở Đông Bắc Campuchia rồi đổ vào sông Mekong gần thị xã Stung Treng.

Hiện trên hệ thống sông Sekong có các công trình thủy điện sau đã và đang được xây dựng:

Thủy điện A Lưới công suất lắp máy 170 MW, hoàn thành tháng 6/2012, xây dựng ở thượng nguồn dòng Sê Asap (hay sông A Sáp) huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam .
Thủy điện Xekaman 1 có tổng công suất lắp máy 322 MW, năm 2016 đang thi công, xây dựng trên dòng Sê Kaman, tại huyện Muang Sanxai, tỉnh Attapeu, CHDCND Lào.
Thủy điện Xekaman 3 công suất lắp máy 250 MW, hoàn thành năm 2013, xây dựng trên dòng Nam Pagnou, nhánh chính của Sê Kaman,
Thủy điện Xe Namnoy 1 công suất lắp máy 14.8 MW, xây dựng trên dòng Xe Namnoy tại bản Pengphukham muang Samakhixay tỉnh Attapeu
Thủy điện Xe-Pian Xe-Namnoy
Thủy điện Sekong 3
Thủy điện Houay Ho công suất lắp máy 150 MW, hoàn thành năm 1998, xây dựng trên dòng Houay Ho, tại muang Samakhixay tỉnh Attapeu.
unnamed - 2023-03-05T201608.307Cho nên việc xây thêm một Đập Thủy Điện cũng không có gì đặc biệt, chỉ duy Vị trí xây đập nầy RẤT QUAN TRỌNG.
Đập SEKONG A sẽ cắt hầu hết sự kết nối của Sekong với dòng chính Mekong, và vì vậy sẽ chặn đứng sự di cư của nhiều loài cá lên vùng sinh sản ở thượng nguồn; và ngăn phù sa chảy xuống miền Nam.
Tiến Sĩ Brian Eyler, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á và Chương trình Năng lượng, Nước và Bền vững tại Stimson Center, một think tank ở Washington DC, nhận định những tai hại do Đập Thủy Điện này gây ra, trong một phỏng vấn của Đài RFA hứng thú và đầy đủ, tóm lược những tai hại trực tiếp cho Việt Nam:
– Nguy cơ đối với an ninh lương thực
sông Sekong là con sông dài nhất, rất gần với đồng bằng sông Cửu Long.
Con sông đó, phụ lưu đó, là “đường cao tốc” di chuyển quan trọng cho dòng di cư của cá. Hiện có nhiều cá đang di chuyển qua nhánh sông đó hơn trước đây, bởi vì hai nhánh sông dài khác của sông Mekong, ngay phía nam sông Sekong, đã bị chặn bởi đập hạ lưu sông Sesan 2 ở Campuchia.
Những con đập này không thiết kế bậc thang cho phép cá vượt qua một cách hiệu quả hoặc không có một hệ thống giúp cá di cư để cho phép cá đi qua đập đó. Vì vậy, loài cá trên sông Mekong đang điều chỉnh để thích nghi, và hiện chúng đang chọn sông Sekong để di cư và đẻ trứng.
Việc đóng cửa dòng sông này sẽ xóa bỏ khả năng lựa chọn cho việc di cư của cá. Cá thích di cư đến các nhánh sông hơn là dòng chính vì chúng có thể tiếp cận bãi đẻ trứng nhanh hơn, nên chúng cần đến các khu vực nông hơn để đẻ trứng.
Như vậy con đập này sẽ cắt đứt đường di chuyển ngược dòng của cá từ hồ đến bãi đẻ, cũng cắt đứt đường di chuyển của trứng cá về hạ lưu rồi về đồng bằng, đi đến các hồ nhỏ phía nam nơi chúng lớn lên thành cá hoặc chúng là thức ăn cho những loài khác.

Campuchia xuất khẩu cá sang Việt Nam. Việt Nam cũng xuất khẩu sang Campuchia. Có giao thương về cá và thực phẩm giữa hai nước. Điều đó quan trọng đối với an ninh lương thực của Campuchia hơn là an ninh lương thực của Việt Nam, vì người dân Campuchia dựa vào nghề cá để cung cấp lượng protein.

Cá nước ngọt được đánh bắt tự nhiên ngay từ hệ thống hồ và cung cấp cho người dân Campuchia 70% lượng protein hàng năm của họ.

Việc loại bỏ 10% hoặc 20% trong số 70% lượng protein đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng khả năng an toàn kinh tế của Campuchia.

Vì vậy, bản thân con đập có thể gây ra một cuộc khủng hoảng lương thực, từ đó có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng kinh tế và cuối cùng là dẫn đến vấn đề an ninh của toàn khu vực.

Đây là những hậu quả mà chúng ta đã lo lắng từ lâu.

– Đẩy nhanh tốc độ sụt lún ở ĐBSCL

Đồng bằng sông Cửu Long cần phù sa cho sản xuất nông nghiệp và cũng để giữ cho nó ổn định về mặt địa chất với tư cách là một khối đất.

Đồng bằng châu thổ này hình thành từ trầm tích mới được lắng đọng trên vùng đồng bằng ngập nước trong hai hoặc ba ngàn năm qua.

ĐBSCL thực ra còn rất trẻ. Nó không phải là một địa hình cũ. Nó chỉ khoảng 3.000 năm tuổi. Và nó được tạo ra hoàn toàn bởi sự lắng đọng trầm tích trên khắp vùng đồng bằng ngập nước. Vì vậy, việc cắt đứt dòng sông Sekong sẽ loại bỏ một huyết mạch vận chuyển phù sa quan trọng đến Đồng bằng sông Cửu Long, khiến nó trở thành một vùng đất rộng lớn kém động năng cũng như kém hiệu quả kinh tế hơn.

Không có phù sa, đồng bằng sẽ chìm nhanh hơn.

Mực nước biển dâng lên, đang lấn phần đất liền, đang lấy đất liền đi với tốc độ bằng vài sân bóng đá mỗi ngày.

Nước biển dâng là điều không phải do Việt Nam tạo ra, nhưng là vấn đề Việt Nam cần phải giải quyết. Việt Nam phải nỗ lực hơn nữa để bảo vệ ĐBSCL.

– Những nguy cơ về xã hội và an ninh quốc gia

Hơn 17 triệu người ( khoảng 20% dân số VN ) sống ở đồng bằng sông Cửu Long.

Nếu vùng châu thổ này biến mất sẽ tác động sâu sắc đến Việt Nam và toàn khu vực Châu Á. Mặc dầu mực nước biển vẫn đang dâng lên, nhưng nó diễn ra rất chậm. Vì vậy, vùng đồng bằng sẽ không biến mất trong một sớm một chiều. Có rất nhiều thời gian để chuẩn bị và thích nghi với những gì sẽ xảy ra trong thế kỷ tới.

Nhưng chúng ta không nên làm cho mọi thứ tồi tệ hơn hiện tại, bằng cách để các công ty xây dựng đập ở những vị trí quan trọng và những con đập được thiết kế kém ở phần thượng nguồn.

Trớ trêu thay, tuy trên đất Lào nhưng Công Ty xây cất lại là một công ty Việt Nam.

Chính phủ Việt Nam cam kết bảo vệ Đồng bằng sông Cửu Long và cam kết trở thành một bên tham gia có trách nhiệm trong khu vực sông Mekong.

Vì vậy, hành động của một nhà đầu tư tư nhân VN không nên đi ngược lại cam kết và ưu tiên của chính phủ quốc gia.

Dự án này thực sự tồi tệ, đặc biệt là bây giờ, với bối cảnh hiện tại.

Vì vậy, Chính phủ Việt Nam cần xem xét tiến độ của con đập này, đặc biệt là xem xét tính pháp lý.

Bởi vì nếu các bên liên quan có thể nắm rõ được tình trạng pháp lý của con đập này, hiểu được quy trình và quá trình dẫn đến đến trạng thái hiện nay của con đập (đang được xây dựng vượt ngang qua sông Sekong), thì có thể làm cho con đập được xây dựng tốt hơn, bằng cách cải thiện khả năng hỗ trợ cá di cư, cải thiện thiết kế của đập. Đó là phương hướng nên làm nếu không thể dừng hoặc trì hoãn đập.

Hoặc có thể tìm một nơi khác để xây dựng một con đập có kích thước tương tự trên một nhánh của sông Sekong hoặc tìm một địa điểm có thể sản xuất 85 megawatt điện trên một phần của con sông nơi đã xây dựng các con đập khác. Bằng cách đó, chúng sẽ không ảnh hưởng đến con đường di cư của cá. Con đập ở vị trí khác thì vẫn có tác động đến trầm tích nhưng không tác động đến đường di cư của cá. Một giải pháp thay thế như vậy thực sự quan trọng để bảo vệ nghề cá của Campuchia và Việt Nam.

Tuy vậy, cũng có thể thay thế dự án thủy điện này mà không cần xây đập ở chỗ khác.

Năng lượng mặt trời quy mô rất khả thi ở khu vực Nam Lào và khả thi với hệ thống đường dây truyền tải. Nếu nguồn điện này được gửi đến hai khu công nghiệp ở miền Nam Việt Nam, các đường dây truyền tải có thể được liên kết với các nhà máy năng lượng mặt trời quy mô cũng như có thể dễ dàng liên kết với các đập.

Tiếp theo là một lựa chọn khác, đó là năng lượng mặt trời nổi. Có thể lắp đặt pin năng lượng mặt trời lớn trên mặt hồ chứa nước đã được xây dựng. Nó có thể dễ dàng đạt tới 85 megawatt, nguồn năng lượng mà đập thủy điện Sekong A tạo ra.

Đây là một vấn đề thực sự cấp bách. Hình ảnh vệ tinh cho thấy rằng con sông sẽ sớm bị đóng cửa. Một khi nó bị đóng cửa, nó sẽ không thể mở lại được và có thể mất nhiều tháng nếu muốn mở. Và con đập này có khả năng hoàn tất, chặn dòng lưu thông Cá và Phú sa trong mùa khô này.

Theo RFA , chủ nhân đầu tư xây Đập này là Công Ty Hoàng Anh Gia Lai, VN. Nhưng TS Brian Eyler cho rằng vốn chủ sở hữu của Hoàng Anh Gia Lai đã được thanh lý và hiện tại nó thuộc sở hữu của một công ty khác khi Hoàng Anh Gia Lai được tái cấu trúc vài năm trước.

Theo tin tức trong Nước, thì hiện giờ là do một doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam, Công ty Xây dựng Sông Đà 6.

Chính Phủ cộng sản độc tài đạo tặc cai trị Việt Nam nửa Thế Kỷ qua đã đem VN xuống tận cùng nghèo khổ, Ác với Dân, Hèn với giặc, bán Đất, dưng Đảo cho Tàu, giờ đây vì ham lợi riêng tư, sẽ đưa Đồng Bằng Sông Cửu đến chỗ điêu tàn.

unnamed - 2023-03-05T201520.089

Toàn Dân, nhứt là Dân Đồng Bằng Sông Cửu mạnh dạn vùng lên, đòi Cộng sản phải LẬP TỨC dừng ngay việc xây đập, bằng không thì trong tương lai, nước biển tràn vào, con cháu Quý vị phải đi tị nạn vì hết đất sống.

Lưu-Vĩnh-Lữ