Truyện dài Pulau Bidong Miền Đất Lạ

 

LỜI TỰA PULAU BIDONG, MIỀN ĐẤT LẠ

Năm 1979 vì không chấp nhận sự cai trị ngu xuẩn độc tài hà khắc

của nhà cầm quyền Cộng Sản một phần đông dân Việt tìm cách bỏ

xứ ra đi.  Hồi đó cuộc xung đột Hoa Việt ngày càng gay gắt, nhà

nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức đưa người vượt biên bán

chánh thức, dành riêng cho người Hoa mục đích vừa cướp được của

cải tài sản khổng lồ, vừa loại trừ được một thế lực tài phiệt phản

động nguy hiểm cho chế độ.   Nhân cơ hội này, tôi mua giấy tờ giả

để trốn theo, đến Mã Lai trú ngụ hết đảo này đến đảo kia tổng

cộng là bốn tháng rưỡi, sau đó được định cư ở Montréal Canada

sống những ngày xa xứ.

Đến năm sau tôi đọc trên báo thấy các ký giả Tây Phương phỏng

vấn các giới chức Việt Nam về vấn đề thuyền nhân và được trả

lời trắng trợn như sau -họ là những người có liên hệ với đế quốc

Mỹ hoặc lười biếng không chịu lao động hoặc trộm cắp, đĩ điếm,

họ tỵ nạn kinh tế chớ không tỵ nạn chính tri.

Nghe qua tôi giựt mình thử kiểm điểm lại cá nhơn tôi và bạn bè

vượt biên ở vào trường hợp nào?  Trộm cắp? Đĩ điếm? Liên hệ đế

quốc Mỹ, Pháp? Tỵ nạn kinh  tế?  Câu trả lời hàm hồ nguy hiểm quá,

bây giờ thì không cần đính chánh vì mỗi người chúng ta, ai ai cũng

đều biết rõ miệng lưỡi của người Cộng Sản. Nhưng vài chục năm sau

thời gian ngày càng phôi pha, người ta dễ dàng quên đi, nếu khơng

có người ghi chép những điều mắt thấy tai nghe thì e rằng sự thật sẽ

bị xuyên tạc.

Xét riêng về hoàn cảnh của tôi, bỏ hết  sự nghiệp, cha già mẹ yếu,

liều chết ra đi, không lẽ để mong kiếm chút canh  thừa cơm cặn của

Tây của  Mỹ hay sao?  Tôi cũng có thằng con trai năm 1980 vừa

được hai tuổi. Tôi nhìn con lắc đầu, nếu mình không ghi lại chuyến

vượt biên khổ sở vất vả nầy, thằng con lớn lên sẽ không biết gì hết,

biết đâu lại trách ngược lại cha mẹ hồi xưa chắc là cường hào ác bá,

tham nhũng hối lộ, ôm chưn thực dân đế quốc, thèm bơ thèm sữa mới

phản bội quê hương. Có nhiều sinh viên du học nghĩ như vậy và họ

dễ dàng bị Cộng Sản thuyết phục dụ dỗ.

Vì lẽ đó mà tôi phải rán viết, vừa để  kỷ niệm chuyến đi của

một đời, vừa để dành riêng cho con lớn lên đọc, để hiểu tại sao

cả nhà phải liều chết ra đi, ăn đậu ở nhờ  xứ người. Vì từ  nhỏ

tới giờ tôi chưa từng viết văn, nên chỉ có ý ghi lại trung  thực

chuyến đi mà không mảy may thêm thắt vẽ vời. Tôi hì hục viết

một mạch không ngừng nghỉ tập hồi ký riêng tư của gia đình.

Viết xong vào tháng 4 năm 1981, đặt cho nó cái tên Miền  Đất Lạ

do ý bài thơ của Đăng Trình (trong số Tân Niên 1979 của báo

Văn Nghệ Tiền Phong):

Ta đã tới dung thân miền đất lạ.

Kết luận là câu ‘Thương một đời  hai chữ Việt Nam thôi’

Lúc còn ở Mã Lai gặp được tờ báo nầy, ai nấy giành nhau đọc

ngấu nghiến,  tờ báo rách nát sần sùi. Tôi đọc bài thơ  lên cho đám

bạn  bè xung quanh nghe, tất cả đều ngậm ngùi muốn khóc.

Trong tập nầy các tên tuổi đều thiệt, sự việc chính xác. Tôi không

dám cho đăng báo vì nhiều chi tiết liên quan đến một số người.

Nhưng điều quan trọng nhứt khiến tôi đắn đo là chuyến đi khá

yên lành, tới bờ tới bến yên vui, không lạc đường, không bão tố,

không đói khát, không hải  tặc. Tôi đâu thể nào đem cái may

mắn riêng tư của gia đình để phô trương bên nỗi bất hạnh của

biết bao nhiêu thuyền nhân kém may mắn khác.

Vì những lẽ đó mà tập bản thảo bị bỏ quên, nằm ỳ trong hộc tủ

trên mười năm nay. Một vài bạn thân biết được khuyên tôi không

nên dè dặt quá đáng vì cuộc vượt biên sau năm 1975 là một biến

cố lớn lao trong lịch sử đất nước. Nó có đủ mọi hình thức với hằng

trăm, hằng ngàn dáng vẻ khác nhau. Có đau khổ, có tan  nát chết

chóc, có chiến đấu hào hùng mà cũng có bình yên, trọn vẹn.

Đâu thể nào một chuyến đi lại bắt buộc phải giống hệt trăm ngàn

chuyến đi khác. Hơn nữa mỗi người chúng ta đều có bổn phận ghi

chép lại, trong tầm mức của mình, thời buổi  đã sống qua để dành

cho người đến sau biết rõ một giai đoạn lầm than của dân tộc, để

khỏi phải mò mẫm tìm kiếm trong đống sử liệu rối mù.

Nghe lời bạn khuyên tôi tiếp tục lại công trình của mười năm qua,

bớt đi nhiều chi tiết riêng tư, thêm nhiều suy tưởng mới.  Chuyến

vượt biển ngày nào tưởng đã lãng quên nhè đâu như hiện lên trước

mắt, cái cảm giác bồi hồi xao xuyến như mới hôm qua.

Vì có quyển Đất Lạ của Tưởng Năng Tiến và Võ Hoàng, quyển

Mưa Đất Lạ của Trần Diệu Hằng đã xuất bản mấy năm trước nên

tôi e rằng độc giả dễ lầm lẫn nên  thêm vào tựa của quyển Miền Đất

Lạ nầy hai chữ  Pulau Bidong.

Viết xong tại Laval-des-Rapides. Quebec. Canada, ngày 30-4-1991

 

Võ Kỳ Điền

 

Phần 1

Phần 2

Leave a comment