Giữa Mỹ và Trung Cộng : ĐU GIÂY LỢI HAY HẠI?

GS Nguyễn Thanh Liêm

Biển Đông Nam Á là danh xưng hợp lý nhất mà một số nhà trí thức, học giả Việt Nam ở hải ngoại đề nghị và tranh đấu đòi thay thế cho tên Biển Nam Trung Hoa (South China Sea) mà Trung Quốc cố tình nhấn mạnh và bám giữ để tựa trên đó đòi dành trọn chủ quyền trên vùng biển quan trọng này. Trong bài này danh xưng Biển Đông Nam Á sẽ được dùng thay cho Biển Đông hay Biển Nam Trung Hoa. Thật ra cái tên South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) chỉ là sự lầm lẫn của người Phương Tây khi họ mới bắt đầu bành trướng thế lực sang Đông Nam Á và Trung Quốc hồi mấy thế kỷ trước. Danh xưng được nói đến nhiều nhất gần đây là Biển Đông. Cứ lấy bản đồ Á Đông và Đông Nam Á ra xem ta thấy ngay đây là vùng biển rộng nằm giữa Việt Nam và Phi Luật Tân. Nếu lấy chổ phình ra của bản đồ VN ở Miền Trung làm cửa ngỏ thì Biển Đông là sân nhà của VN ngay trước ngỏ hướng Đông của nhà mình. Từ Phi Luật Tân nhìn về hướng Tây thì Biển Đông là sân nhà của nước này. Bản đồ cho thấy hai quốc gia Việt – Phi như hai nhà đâu mặt nhau, cùng chia một sân chung thật rộng, trong đó có cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc và Đài Loan ở tận đầu phía Bắc của sân này, và các quốc gia Brunei, Malaysia, thì ở tận phía Nam của sân.

Nhưng vùng biển này, Biển Đông Nam Á, có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng đối với các quốc gia Triều Tiên, Nam Hàn, Nhật Bổn, Đài Loan, các nước Đông Nam Á, và nhất là Trung Quốc, cũng như đối với các quốc gia khác trên thế giới, nhất là Hoa Kỳ. Về quân sự, hoả tiển, tàu ngầm, chiến đấu cơ tân tiến nhất thế giới, hàng không mẫu hạm tối tân, của Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn độ, Bắc Hàn, Nam Hàn, Đài Loan, v v . . . có mặt thường xuyên quanh vùng. Về kinh tế, Biển Đông nối liền eo biển Malacca ở phía Nam với Biển Trung Hoa và Hoàng Hải là con đường hàng hải của bao nhiêu thương thuyền giữa Đông và Tây, giữa Á Châu và Âu Châu, Phi Châu. Ngoài ra những khám phá gần đây cho thấy Biển Đông còn có tiềm năng cung cấp nguồn năng lượng lớn lao cho thế giới trong tương lai.      

Vì quan trọng như vậy nên trong những năm gần đây, Biển Đông Nam Á đã trỡ nên sôi sụt, nóng bổng hơn bao giờ hết, khi bị biến thành nơi tranh chấp giữa các thế lực chính trị địa phương và thế giới. Thật ra nguyên nhân chính châm nên ngòi lửa xung đột ở đây là sự hung hăng của bá quyền Hán Tộc (Trung Cộng) muốn dùng sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế của mình, dưới dạng dối trá của một “Trung Hoa trổi dậy trong hoà bình”, để độc quyền chiếm trọn hơn 80 phần trăm vùng Biển Đông Nam Á, bất kể sự va chạm quyền lợi và sự chống đối của nhiều quốc gia cùng có chủ quyền trên vùng biển này. Ý đồ bành trướng bá quyền của Trung Quốc không che dấu được ai. Trái lại ý đồ bá quyền này đã thức tỉnh cả thế giới về mối nguy Trung Quốc trỡ thành cường quốc số một, thay thế Hoa Kỳ trong tương lai gần. Cái nguy trước mắt là việc Trung Quốc ngang nhiên, hung hăng tự cho mình là chủ nhân ông của Biển Đông Nam Á, tung sức mạnh quân sự chiếm cứ, tuần tra, áp bức các quốc gia khác trên vùng biển này mà Trung Quốc coi là cái ao nhà riêng của mình. Thiệt thòi nhất trước sự xâm lấn ngang ngược này là Việt Nam.  Từ xa xưa cả Biển Đông với Hoàng Sa, Trường Sa trong đó, là sân nhà của Việt Nam. Giờ bổng nhiên có kẻ cướp từ mãi trên phía Bắc nhảy vào sân nhà mình “cấm dùi”, công bố chủ quyền không chối cải của nó, ngay cửa cái của nhà mình.

Cả thế giới tự do, nhất là Hoa Kỳ, đều phản đối sự đôc chiếm Biển Đông Á của Trung Quốc. Các quốc gia trong khối ASEAN cũng chống đối việc này. Chống đối mạnh nhất là Philippines. Đáng lẽ CSVN còn phải chống đối mạnh mẽ hơn cả Philippines nữa, nhưng vì CSVN lệ thuộc quá nhiều vào CSTQ nên lúc nào cũng hoà hoãn, nhịn nhục đàn anh TQ, luôn nhắc đến 16 chữ vàng, 4 tốt, tránh né mọi va chạm quân sự, chính trị với TQ, cố gắng đu giây giữa TQ và các quốc gia tự do không theo TQ nhất là Hoa Kỳ. Nam Hàn – Nhật Bản – Đài Loan – Philippines – Úc – Ấn Độ –  và một số quốc gia khác trong khối ASEAN như ThaiLan, Singapore, v v . . . nằm trong vòng đai bao vây TQ về quân sự và chính trị. Về kinh tế TPP (TransPacific Partnership) đã kết nạp hơn 8 quốc gia, với một số các quốc gia khác đang ngâm nghía nhảy vào. Năm tới khi TPP chánh thức ra đời thì có thể có đến 10 hội viên hay nhiều hơn. Cùng với vòng bao vây TQ về quân sự, chính trị, TPP sẽ là vòng bao vây kinh tế đối với CSTQ. [Vòng đai bao vây TQ đã thành hình rõ ràng từ quân sự đến chính trị và cả kinh tế với sự ra đời của TPP (TransPacific Partnership)]. Với vòng bao vây này TQ sẽ không còn có thể phát triển suông sẻ theo đường thẳng như trong những thập niên qua. TQ bắt đầu đi vào khúc quanh nguy hiểm. Khúc quanh này sẽ hoặc đưa đến những thay đổi cần thiết trong cơ chế chính trị TQ để quốc gia này có thể tồn tại, hoặc đưa đến sự sụp đổ của chế độ hiện hữu nếu tiếp tục chính sách xâm lăng dưới lớp vỏ trổi dậy hoà bình.

Hãy trỡ lại chánh sách trỗi dậy hoà bình (peaceful rise) của Cộng Sản Trung Hoa để xem thực chất của sự trổi dậy đó như thế nào. Thật ra chánh sách này chỉ mang tính hoà bình ở mặt nổi, ở mặt ngoại giao, nhưng chứa đựng nhiều mưu đồ bá quyền, nhiều cạnh tranh bất chính, nhiều gây hấn xâm lăng, nhiều thủ đoạn hại người ở bên trong, không xứng đáng là một nước văn minh, tân tiến, với sứ mạng mang lại hoà bình, thịnh vượng, hạnh phúc cho nhân loại.  Không ai chối cải sự phát triển quá nhanh về kinh tế của Trung Quốc trong mấy mươi năm qua. Đã có hơn 400 trăm triệu dân qua khỏi mức nghèo đói, hơn 120 triệu người từ bỏ cuộc sống nông thôn đi về thành thị với công ăn việc làm trong nhiều hảng xưởng mới. Hơn 40 thành phố với dân số nhiều triệu dân đã trỡ thành những thành phố tân tiến không thua gì các thành phố hiện đại của các quốc gia tiến bộ trên thế giới. Ngày nay TQ là nước giàu nhất thế giới theo nghĩa làm ra nhiều tiền nhưng xài ít, tích luỷ tiền của thật nhiều, cho vay khắp nơi, trỡ thành chủ nợ của nhiều nước trong đó có cả Hoa Kỳ (nợ hơn ngàn tỷ mỹ kim). Hàng hoá TQ, rẻ như bèo, tràn ngập thị trường quốc tế. Nền thương mãi TQ mở rộng khắp cả thế giới đến tận Phi Châu và Nam Mỹ. TQ viện trợ cho nhiều quốc gia trong thành phần thế giới thứ ba, trỡ thành đồng minh của nhiều quốc gia đối lập với Hoa Kỳ và các nước trong khối tự do do Hoa Kỳ lãnh đạo. Sức bành trướng ảnh hưởng của TQ trên thế giới rất mạnh, làm suy giảm sức bành trướng của Mỹ trong những thập niên gần đây. Chiến lược của TQ là đánh bại Mỹ bằng đường lối ngoại giao trái ngược với Mỹ. Trong khi Hoa Kỳ đòi hỏi các nước theo Mỹ phải có thể chế dân chủ, phải tôn trọng nhân quyền, phải tôn trọng tự do, nhân phẩm, (dù không được như ý nhưng Mỹ vẫn khuyến khích, theo dõi, nhắc nhở, và khi cần có thể ít nhiều chen vào nội bộ của đối tác) thì TQ ngược lại, chủ trương không chen vào nội bộ, không đòi hỏi dân chủ, tự do, gì cả, chỉ cần người lãnh đạo của quốc gia đối tác chịu theo TQ là đủ, dù cho kẻ đó là một kẻ độc tài, tàn bạo, áp bức đến mức độ nào. Mục đích của TQ là đem các nước khác về với mình để mua các nguyên liệu từ các nước đó, bán hàng hoá rẻ cho các nước đó, tạo ảnh hưởng TQ trên các nước đó về chính trị, kinh tế, văn hoá, v v . . . Với tư cách một thành viên trong hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, cùng với Nga Sô, TQ thường dùng quyền phủ quyết để yểm trợ cho các quốc gia (khủng bố) bị Hoa Kỳ và các nước tự do lên án như Iran, Libya, Syria. Nhờ chính sách không cần lẻ phải, không cần tự do dân chủ, bất kể nhân phẩm nhân quyền, chỉ cần lôi kéo người về phía mình, mà TQ đã tạo được nhiều ảnh hưởng ở các nước độc tài, phản dân chủ, áp bức chính trị, như Bắt Triều Tiên, Miến Điện, một số các quốc gia Phi Châu, một số các nước Nam Mỹ. Trường hợp của Venezuela chẳng hạn, cho thấy chính sách của TQ đi ngược quyền lợi của Mỹ như thế nào. Venezuela là quốc gia lớn thứ năm trong việc sản xuật dầu hoả, là nước theo cộng sản như Cuba, do Hugo Chavez lãnh đạo. Chavez là đồng minh của Fidel Castro, chống Mỹ dữ dội. TQ đã ký thoả ước mua dầu hoả của Venezuela với số lượng lớn lao, khiến cho nguồn cung cấp dầu hoả cho Mỹ ở đây phải bị giảm sút. Ở Sudan cũng vậy. Khi Mỹ cấm vận nước này vì lý do kỳ thị, áp bức tôn giáo, thì TQ nhảy vào bắt tay với Sudan, mua dầu của Sudan, và cung cấp các thứ vũ khí cho nước này gây cảnh chiến tranh khóc liệt ở đây, giết chết nhiều thường dân vô tội. Nhà độc tài Robert Mugabe của Zambawe được Hồ Cẩm Đào đón tiếp bằng 21 phát sung thần công nói lên sự mời gọi của TQ đối với sự lãnh đạo độc tài, phi nhân bản này. Iran cũng được TQ ký thoả ước mua 150,000 thùng dầu mỗi ngày trong 20 năm, trỡ thành bạn than của Iran, bảo vệ Iran trong hội đồng Bảo An LHQ.

Dùng nhân công rẻ mạt, ăn cắp bản quyền của người ta, sản xuất đồ dởm, kể cả đồ độc, đồ giả mạo, giá thành thật rẻ, kềm chế giá đồng nhân dân tệ, cạnh tranh lương lẹo, bất chính, nhà nước nắm hệ thống quốc doanh, TQ đã phát triển kinh tế của mình trên sự thua lỗ, suy thoái của nhiều nền kinh tế của các quốc gia khác trên thế giới. Dù vậy trước đây, thế giới vẫn để yên cho TQ phát triển, vì thế giới muốn thấy một Trung Quốc giàu có, thịnh vượng, và có bổn phận đóng góp vào nền hoà bình thịnh vượng chung của thế giới cho tương xứng với sự phát triển lớn lao của mình, như ngoại trưởng Condoleezza Rice từng nói:” Hoa Kỳ hoan nghênh sự trổi dậy của một Trung Quốc tự tin, hoà bình, thịnh vượng, nhưng cũng hy vọng là TQ có khả năng và có ý chí làm bổn phận quốc tế tương xứng với khả năng phát triển của mình.” Nhưng trái với sự mong mỏi của Hoa Kỳ và các nước tự do trên thế giới, TQ đã không đóng góp vào nền hoà bình, thịnh vượng chung của thế giới mà ngược lại chỉ biết làm giàu riêng cho mình, xây dựng sức mạnh để thống trị thế giới, trong chiều hướng bành trướng bá quyền từ các lân bang sang cả khu vực Đông Nam Á và lan dần ra cả thế giới.

Hơn thập niên qua, nhờ có nguồn lợi to về kinh tế, TQ đã đỗ nhiều vốn vào công cuộc tân tiến/hiện đại hoá quân đội nhân dân TQ và nền quốc phòng của nước này. Tuy trong các bạch thư TQ cho thấy sự gia tăng vừa phải của ngân sách quốc phòng, so với ngân sách quốc phòng Mỹ thì còn nhiều thua kém, nhưng trong thực tế các con số nêu ra trên giấy tờ chi bằng phân nữa hay một phần ba con số thật mà TQ đã dùng để canh tân bộ máy chiến tranh. Không thể nói là có ý chí hoà bình được khi sản xuất hàng nghìn hoả tiển với đầu đạn nguyên tử có tầm xa, hàng lô chiến đấu cơ tân tiến cho không quân, và hàng mấy chục tàu ngầm trang bị vũ khí nguyên tử cho hải quân, và bây giờ sắm cả hàng không mẫu hạm để có thể đưa hải quân lên vai trò không chế cả Biến Đông và các con đường hàng hải quan trọng trên thế giới từ eo biển Malacca đến Ấn Độ Dương.

Thẳng tay đàn áp ở Tân Cương và Tây Tạng, dạy cho Việt Nam một bài học trên đất liền, xâm chiếm Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa, biến hai quần đảo này thành Tây Sa và Nam Sa cho vào bản đồ Trung Quốc, vẽ đường lưỡi bò trên Biển Đông cho rằng 80% biển này thuộc chủ quyền không chối cải của mình, coi Biển Đông như một cái ao riêng, gây hấn với Nhật Bản ở đảo Điếu Ngư, tập trận từ trên Hoàng Hải xuống đến Nam Hải (Biển Đông), Trung Quốc đã cho thế giới thấy sức mạnh bành trướng của mình. Phản đối các quốc gia muốn làm ăn với Việt Nam trên Biển Đông như các công ty dầu hoả Hoa Kỳ và Ấn Độ, tõ vẽ cản trỡ tàu nghiên cứu Impeccable của Mỹ, Trung Quốc coi thường luật biển, phủ nhận đặc quyền kinh tế của các nước khác trên Biển Đông nhất là Việt Nam và Phillippines, xác nhận chủ quyền của mình một cách phi lý, ngang ngược, trên vùng biển này. Sự canh tân và phát triển mạnh mẽ về quân sự của Trung Cộng cùng với những thái độ, hành động hung hăng trong mấy năm gần đây của TQ đã làm cho các quốc gia bắt đầu lo sợ. Mỹ và nhiều nước khác trong khối dân chủ, tự do, trên thế giới thấy cần phải có chiến lược bao vây TQ, ngăn chận sự bành trướng xâm lấn của Hán tộc bá quyền.  

Đường vòng cung bao vây TQ về quân sự, chính trị, kinh tế, đã thành hình, càng lúc càng rõ ràng. Các cuộc tập trận chung, Mỹ-Nam Hàn, Mỹ-Nhật, sự hiện diện của các hàng không mẫu hạm, các khu trục hạm Mỹ ở Biển Đông, sự liên kết của các nước trong vòng cung bao vây từ Nam Hàn, sang Nhật Bản, Đài Loan, Phillippines, Úc, Ấn Độ, cùng một số các quốc gia trong khối ASEAN, với Mỹ ở sau lưng, cho thấy cả một mặt trận quân sự bao vây TQ, càng ngày càng chặt chẽ, vững vàng. Về chính trị, các quốc gia trong khối ASEAN đã có xu hướng chính trị đa nguyên, tinh thần dân chủ, nhân bản, trái ngược với chế độ đôc tài, toàn trị, với khuynh hướng xã hội chủ nghĩa của TQ và VN. Ngoài ASEAN các nước tân tiến như Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, Ấn Độ, Úc, Tân Tây Lan, v v . . . đều là những nước dân chủ, tự do, tiến bộ. Rồi gần đây sự xoay chiều của Miến Điện từ một nước lệ thuộc TQ chuyển mình sang một quốc gia đến gần với Ấn Độ và các nước tự do Tây Phương, nhất là Mỹ, đã cho thấy mặt trận chính trị bao vây TQ càng lúc càng được củng cố thêm. Việt Nam và Cambodia rồi cũng sẽ phải dần dần ngả về vòng cung bao vây này thôi. Về kinh tế, thập niên qua TQ đã chi phối nhiều quốc gia Đông Nam Á, và một số quốc gia Phi Châu. Hàng hoá TQ xuất cảng ra cả thế giới (nhờ nhân công quá rẻ, cạnh tranh bất chánh, ăn cắp kết quả sáng tạo của người khác, giữ đồng nhân dân tệ ở giá trị thấp để đễ xuất cảng, v v . . .), làm giàu nhanh chóng. Nhưng ngày nay, cả thế giới đã thức tỉnh, đã bắt đầu có những biện pháp chặn đứng dần những hang hoá TQ. Tin từ China News gần đây cho thấy trong quý thứ ba của năm 2011 sự xuất cảng của TQ đã giảm sút đáng kể, và tình trạng này có thể sẽ kéo dài đến năm sau nếu không có gì thay đổi trong chánh sách của TQ. Công nhân đã nổi lên đòi hỏi tăng lương để có thể sống ở nhiều nơi, rất có thể sẽ dẫn đến sự chấm dứt xử dụng nhân công rẻ mạt trong những tháng năm sắp tới, và như vậy giá thành của các món hàng TQ không chắc đã có thể giữ mãi giá rẻ hiện nay. Quan trọng hơn hết là mặt trận kinh tế do Mỹ chủ xướng với sự tham gia của nhiều nước Á Châu trong tổ chức Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là TPP (Trans Pacific Partnership). Những nước gia nhập khối này sẽ trao đổi thương mãi, hàng hoá, với nhau, không bị đánh thuế, liên hệ chặt chẽ với nhau về kinh tế. Khi thành hình và thật sự hoạt động khối này sẽ cho kinh tế TQ không còn cơ hội để chen vào các quốc gia này. TQ sẽ mất gần một tỷ khách hàng trong tương lai nếu không được gia nhập vào khối này. Nhưng nếu muốn gia nhập thì TQ phải có nhiều thay đổi trong chánh sách kinh tế và chính trị hiện nay sang thị trường kinh tế tự do thật sự của các nước tự do tân tiến, và nhất là chế độ chính trị dân chủ, tự do của các nước như Mỹ, và nhiều quốc gia Âu Châu. Đây là khúc quanh nguy hiểm mà TQ phải đương đầu trong những ngày sắp tới.     

Thành ra chính sự trổi dậy không ngay thẳng, không nhằm đem lại hoà bình cho thế giới và an ninh cho khu vực, không bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác mà còn hung hăng xâm lấn đất đai của các quốc gia láng giềng, nhất là không đem lại dân quyền, tự do, dân chủ cho nhân loại, mà còn đàn áp, bóp chết, mọi mầm móng chống đối (hoà bình), triệt để khai thác người dân lao động, gây thiệt hại lớn lao cho môi trường, cho mạng sống của người dân, sự tham lam ác độc không bờ bến của TQ trong hơn hai thập niên qua đã thức tỉnh nhân loại ở các nơi, nhật là các quốc gia láng giềng Đông Nam Á, các quốc gia dân chủ tân tiến trên thế giới , đưa các quốc gia dân chủ tự do chân chính, văn minh tiến bộ thật sự ngồi lại với nhau, kết thành mặt trận bao vây TQ, chận đứng sự bành trướng bá quyền, sự xâm lấn phi lý, vô nhân đạo của TQ. Mặt trận đã thành hình, và càng lúc càng được củng cố, phát triển vững chắc đưa TQ vào một khúc quanh nguy hiểm. Khúc quanh này bắt buộc TQ phải thay đổi cơ chế hiện có, để sống chung hoà bình với thế giới tự do, dân chủ, nhân bản, nếu không thì Trung Quốc Cộng Sản Xã Hội Chủ Nghĩa sẽ sớm sụp đổ thôi.

Về Biển Đông, hầu hết các quốc gia đều muốn đưa vấn đề Biển Đông ra Quốc Tế để giải quyết theo luật biển, chớ không chấp nhận giải pháp song phương của TQ. Trong hai năm qua, đã có nhiều cuộc hội thảo về Biển Đông đã được tổ chức ở Hà Nội, ở Phi Luật Tân và ở Mỹ. Các nhà trí thức, sử gia, học giả, các nhà văn hoá chính trị, cũng như các khoa học gia khác đã có những nổ lực tìm hiểu, đóng góp nhiều dữ kiện, tài liệu, tín liệu, kiến thức về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông, đồng thời đưa ra một số đề nghị giải quyết những tranh chấp trên vùng này. Các cuộc hội nghị trong tổ chức ASEAN cũng như những thăm viếng ngoại giao giữa các lănh tụ các quốc gia có quyền lợi ở Biển Đông đều không ngớt vận động cho việc giải quyết đa phương, hoà bình, và theo luật biển quốc tế, vấn đề tranh chấp ở đây. Khuynh hướng chung của mọi giới, mọi quốc gia, trừ các sử gia/khoa học gia TQ và nhà nước TQ, đều phủ nhận sự độc chiếm Biển Đông của TQ cũng như bác bỏ các luận cứ có tính cách cường điệu của quốc gia này và giải pháp song phương mà TQ luôn ôm ấp.

Đây cũng là cơ hội rất tốt để các nước Đông Nam Á vốn bị TQ chi phối về kinh tế, chính trị, như Miến Điện, Việt Nam tách dần khỏi ảnh hưởng tai hại của nước này, mạnh dạn dứng về phía các quốc gia tự do, dân chủ, gia nhập TPP, tham gia vào vòng bao vây TQ, chống lại sự xâm lấn ngang ngược của TQ. Đây cũng là cơ hội để các quốc gia Đông Nam Á có quyền lợi trên Biển Đông kết hợp chặt chẽ bảo vệ Biển Đông, huỷ bỏ đường lưỡi bò phi lý của Trung Cộng. chận đứng sự bành trướng, xâm lấn của TQ trên vùng Đông Nam Á. Quốc gia bị thiệt thòi nhiều nhất trong tay TQ là Việt Nam. Đáng lẽ VN phải phản ứng quyết liệt, ít ra cũng bằng Philippines. Nhưng đằng này, VN luôn tõ vẽ nhân nhượng, yếu mềm trước những đòi hỏi, sắp đặt của TQ. Tuy gần đây cũng có một vài lời tuyên bố, một số hành động ngoại giao có vẽ như VN muốn tách khỏi ảnh hưởng của TQ để đi về phía các quốc gia tự do, dân chủ, nhưng trên thực tế, người ta vẫn thấy VN không có thái độ dứt khoát, vẫn còn muốn đu giây giữa các quốc gia tự do, dân chủ và TQ. Đu giây có thể là thái độ khôn khéo (nhưng không trong sáng) để tồn tại trong giai đoạn ngắn vì quyền lợi của kẻ cầm quyền chớ không vì quyền lợi của quốc gia dân tộc. Thật ra đu giây không thể là kế sách lâu dài, cũng chỉ là thái độ không khôn ngoan trên đường dài cho quyền lợi của quốc gia dân tộc vì đu giây sẽ làm mất cơ hội tốt để cải tổ cơ chế, đổi mới chế độ, hoà mình với thế giới tự do dân chủ, tân tiến của thế giới.

 

Bài này viết hồi năm 2012. Lúc đó Hugo Chavez, lãnh đạo của Venezuela, còn sống. Và hơn hay năm sau Trung Cộng thiết lập giàn khoan ở Việt Nam. Dù những sống gió trải qua, những ý tưởng ở đây vẫn còn có giá trị.

 

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm

Cựu Thứ Trưởng Bộ Giáo Dục VNCH

Chủ Tịch Lê Văn Duyệt Founfation

Chủ Tịch Phong Trào Đoàn Kết VNCH

 

Trở về đầu trang GS Nguyễn-Thanh-Liêm

Trở về trang Thầy Cô

HOME

Leave a comment