Trang của giáo sư Lê-tấn-Lộc

 

ltlThầy Tiến Sĩ Lê-tấn-Lộc là GS Triết, nguyên Hiệu Trưởng trường trung học Trịnh-hoài-Đức, Bình-Dương  và cũng là Trưởng Khu Học Chánh Khu 3 .

Thầy được động viên vào khóa 14 SVSQTB / Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức.

Sau khi phục vụ tại Tiểu Đoàn 5 Nhẩy Dù, Sư Đoàn 5 Bộ Binh (1963) và tái phục vụ (tái ngũ) năm 1968 (Tết Mậu Thân), tác chiến với Tiểu Đoàn 35 Biệt Động Quân, với cấp bậc Đại úy BĐQ, thầy được biệt phái ngoại ngạch về tiếp tục dạy học…

Sau khi VC cướp miền Nam, thày bị đi tù “cải tạo” 5 năm, được về và đã vượt biên năm 1980.
Thầy hiện định cư tại Canada theo diện Tị Nạn Cộng Sản.
Mời các bạn vào thăm trang nhà của giáo sư Tiến Sĩ

Lê-tấn-Lộc  :  http://www.letanloc.blogspot.com/

Hoặc  trang trong web THĐ2  :  Thầy Lê-tấn-Lộc


==========
ღ҉ღ✽¸.•✽•.¸✽ღ҉ღ ==========

Alfa, cơn lốc xoáy hải ngoại. / Hiện Tượng Thiếu Cân Nhắc Cần Nghiêm Chỉnh Suy Ngẫm .

Thơ Tháng Tư – Cao Vị Khanh

LOẠN HẦU

Nhìn những mùa xuân đi…

KHI EM HẬU PHƯƠNG LÊN TUYẾN ĐẦU…

MÙA XUÂN NĂM ẤY…

Sổ tay hành trình (II) – Dọc đường góp nhặt

HỌA PHÚC KHÓ LƯỜNG…

Vài suy nghĩ vụn vặt – Từ hành hương tới tĩnh tâm

Vài mẫu chuyện đưa tới nhận định về VIỆN ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT VÀ CÁC CỰU SINH VIÊN … “ THỤ NHÂN ”

Thơ / Nhạc của GS Lê Tấn Lộc

Webs của quí thầy cô

Web links

Bài Của Thầy Trò Trịnh Hoài Đức

Trở về …  đầu trang

HOME

 

========== ღ҉ღ✽¸.•✽•.¸✽ღ҉ღ ==========

Nhìn những mùa xuân đi…

Xuân đến khắp trời hoa rượu nở

Riêng ta với ngươi buồn vậy thay!

Tân mở quyển nhật ký may mắn thoát khỏi cơn truy lùng tìm diệt “tàn tích đồi trụy của Mỹ Ngụy” do đám công an văn hóa kách mệnh Bắc Bộ Phủ chủ xướng, dưới sự tiếp tay điềm chỉ của bọn trí thức thiên tả dỏm, theo đóm ăn tàn, tục gọi lũ kách miệng ba mươi tháng tư…Tất cả hành trang vượt trùng dương tìm tự do của Tân đã gửi lại trong lòng biển cả, quyển nhật ký là “tàn tích” duy nhất Tân còn giữ được trong tay, sau cơn hồng thủy trên quê hương tan tác và sau những đợt sóng thần đã cuốn phăng hàng muôn vạn sinh linh khốn cùng khỏi những con tàu định mệnh -những con tàu tưởng đã giúp họ thoát được kiếp lưu đày trên chính đất nước của họ- để dìm sâu họ xuống đáy biển ngàn đời u tối, giá băng …

Quyển nhật ký đã theo Tân suốt thời gian nhục nhằn bức bách trong lao tù CS, tiếp tục bầu bạn với Tân ngày Tân rời trại giam nhỏ bước vào nhà tù lớn Xã Hội Chủ Nghĩa, cùng Tân hành trình lướt sóng biển Đông trôi dạt vào đảo Galang “cửa ngõ của Tự Do và Tình Người” trước khi Tân được Xứ Tuyết, vì lòng nhân đạo dang tay đón nhận, cưu mang đùm bọc cùng với hàng hàng lớp lớp thuyền nhân Việt Nam liều chết vượt thoát gông cùm của chính đông bào họ đi tìm đất sống…

-o-o-o-

Thân đất khách một mình xui nhớ

               Hương đêm dần dần nở khúc thương…

     *Xuân “Cách Mạng” (Ất Dậu 1945)   

     Những tầm vông vạt nhọn

     những bầy chân đi trần

     những lỗ mắt ngời ngời

những rừng đèn chai đứng dậy trong đêm khuya

đòi giải phóng

tự do

độc lập                                               

Ngày ấy, tôi và Kiệt -đứa em út kế tôi- chuẩn bị cắp sách đến trường, bỗng dưng nghe tiếng giày đinh nện đều trên mặt lộ Lamothe de Carrier, trước tiệm mộc của gia đình, như ai đang lắc một xô nước đá nghiền nhỏ: rộp! rộp! rộp! rộp!

Từng đoàn người mặc quân phục, mũ lưỡi trai ba mảnh vải buông thõng che tai và ót, đội ngũ chỉnh tề, súng trường cầm tay -lưỡi lê tuốt trần cắm trên đầu súng- chiếm trọn mặt đường, nối đuôi nhau chạy lúp xúp về hướng Toà Bố (Toà Hành Chánh với Dinh Tỉnh Trưởng) và khu Cư Xá của Tây “thực dân”…

Khi đoàn quân “con mặt trời” xâm chiếm Bạc Liêu (là xứ quê mùa, Dưới sông cá chốt trên bờ Tiều Châu)  khuất dạng trên bến xe đò, cuối đường La-mốt-đờ-ca-ri-dê, một số dân bản xứ túa ra mặt lộ, tranh nhau thu lượm quân trang quân dụng -kể cả súng ngắn- rơi rớt trên đường tiến quân của quân đội Nhật hoàng; những thứ sau nầy được trang bị cho kháng chiến quân chống Pháp. Biến cố “Nhựt Bổn đảo chánh”, ngày 9 tháng 3 năm 1945 khơi mào cho khói lửa nhen nhúm, để rồi không bao lâu lan rộng khắp quê hương tôi…Vài mươi thi thể ông Tây bà Đầm bị cứa cổ nằm rải rác quanh hồ tắm công cộng, máu động vũng  tuôn chảy nhuộm đỏ mặt hồ. Người bảo Nhựt giết, kẻ bảo đồng bào ta trả thù đám Tây tà lâu nay hà hiếp dân lành.

Khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt với sự đầu hàng của Nhựt, Pháp trở lại Đông Dương. Họ không quên đồng bào họ bị sát hại, thẳng tay trừng phạt đồng bào ta để báo thù. Có thể đó là một trong những nguyên nhân chính đưa đến “Cách Mạng Mùa Thu, toàn quốc kháng chiến”. Với chủ trương ”vườn không nhà trống”, nhà cầm quyền lúc bấy giờ kêu gọi dân chúng tản cư:

Lệnh truyền kháng chiến vô bưng,

Ruộng vườn triệt phá giặc đừng thu quơ

 

*Xuân Khói lửa (Bính Tuất 1946)

Kẻ già cõng người bồng con dại

                                                                       Dân tản cư ùn chạy bỏ thành

 

Gia đình tôi hưởng ứng lời kêu gọi, tạm lánh nạn về Trà Kha, Trà Khứa, rồi rút xa hơn nữa về Béc-Heng, một vùng đất hoang vu, nơi làng Việt tiếp cận sóc Miên, rất xa Châu thành Bạc Liêu. Hai anh tôi, người cầm súng giết giặc, kẻ xung vào đội Võ Trang Tuyên Truyền, động viên tinh thần đồng bào ủng hộ kháng chiến; chị tôi gia nhập đoàn Nữ Cứu Thương. Tôi và cậu em út xung vào đội văn nghệ lưu động “giúp vui chiến sĩ và đồng bào”, nhân tiện cổ võ họ đóng góp tiền bạc, quần áo, thực phẩm “nuôi quân”. Hai anh em tôi vừa ca vừa múa, quyên tiền như sơn đông mại võ: Mừng xuân ánh sáng bốn phương (ánh sáng bốn phương) tràn lan đất nước (tràn lan đất nước) ánh sáng ngày xuân (ánh sáng ngày xuân) chiếu ngàn năm…Xuân đầu tiên của chúng tôi trong bưng biền tràn ngập khói súng, bom đạn thường xuyên gieo rắc tang tóc, điêu linh…

Thuở ấy đám con nít chúng tôi còn quá non trẻ để thắc mắc vì sao lá cờ vàng ngôi sao đỏ của Thanh Niên Tiền Phong bỗng nhiên một sớm một chiều biến mất và cờ đỏ ngôi sao vàng của Việt Minh rộ nở khắp bưng biền, nơi dân chúng lánh nạn ẩn náu sau khi rời bỏ kinh thành do bộ máy cai trị của thực dân Pháp kiểm soát.

Theo đà truy lùng, càn quét của lính Tây, gia đình tôi chất nhau lên ghe chạy giặc, cùng với đoàn ghe tản cư chèo miết tới Chắc Băng, Cạnh Đền, gần miệt U Minh. Tại đây, một cán bộ Việt Minh đề nghị tôi ca diễn bài hát “Mắng Lê Tắc”. Tôi thích chí “lột hết khả năng diễn xuất” bắt thằng em út tôi quì gối thủ vai Lê Tắc nghe tôi hùng hỗ miệt thị: Mi nghe chăng hỡi ai tham mồi phú quí quên non sông/ Hãy nghe đây lời ta mắng muôn năm/ Sao nỡ đành đem người ngoại quốc ác tâm /xâm chiếm quê hương nhà sát tàn nòi giống?/ Loài bán nước/ loài buôn dân/ loài phản quê hương/ Nguyền rủa tên bọn mi khắp nơi muôn đời…Dân tản cư hoan hô nồng nhiệt, hăng hái ủng hộ quỹ “nuôi quân”.

Sau buổi văn nghệ “lạc quyên”, cán bộ cao cấp kể trên nhiệt liệt khen tặng và thuyết phục (đúng hơn, khuyến dụ) tôi nối chí “thiếu niên anh hùng kháng chiến” Lê Văn Tám tẩm xăng châm lửa, nhào vô kho đạn Thị Nghè cho nổ tung! Tôi đã xiêu lòng muốn nghe theo, chờ “ngài” cán bộ giao công tác “hy sinh cho kách mệnh”. May thay, trước vô số vụ cuồng sát đồng bào tản cư bị tố khổ Việt gian (cho đi mò tôm, mổ bụng dồn trấu, chôn sống, thiêu sống, xử trảm rồi bêu đầu thị uy, đập đầu thả trôi sông v.v…)  gia đình tôi kinh hoàng tìm đường hồi cư, chèo ghe về hướng Rạch Giá để tránh bị nghi “trốn về thành”, bỏ lại sau lưng hàng vạn đồng nghiệp, láng giềng cùng đi tản cư trước đây, lớp bị độc đoán hành huyết vô căn cứ, lớp bỏ mình trong các cuộc giao tranh với lính Tây vì cái mà họ tin tưởng là… “lý tưởng cách mạng”. Cũng như tôi đã vội tin vào sự hy sinh cao quí của anh hùng Lê Văn Tám cho “sự nghiệp kách mệnh” mà mãi sau nầy ai ai cũng rõ là một bịa đặt hoàn toàn của đảng Lao Động VN thời đó!

Một mùa xuân đi qua, cuốn theo hàng muôn vạn sinh linh đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi tầng lớp…Xém chút đã lôi theo cậu bé chưa hưởng trọn vẹn 11 mùa xuân, được nhồi nhét chí cốt lý tưởng anh hùng cách mạng…dỏm!

*Xuân kinh hoàng (Mậu Tý 1948)                                 

                                 Tiếng hét thảm thiết chạy dài từ đầu kinh đến cuối kinh trong

                                    đêm bất tận

                           “aaaaaa!!!Trời ơi đừng giết tôi! aaaaaa!!!…”

Chiếc ghe tam bảng, căn nhà lưu động của gia đình tản cư chúng tôi tròng trành theo lượn sóng nhấp nhô dưới ánh trăng lưỡi liềm nhỏ rít, yếu ớt của đêm mùng ba Tết. Ăn cơm tối xong, cả nhà chuẩn bị lên bờ thăm viếng bà con tản cư thì bỗng nghe tiếng loa kêu gọi đồng bào tập trung trước sân đình làng Hốt Hỏa (địa danh một vùng hẻo lánh thuộc tỉnh Rạch Giá) coi “chặt đầu Việt gian”! Ba tôi vội thổi tắt ngọn đèn dầu leo lét  trong khoang ghe, ra dấu cho cả nhà nằm im, như tất cả đều đã ngủ say. Ông không muốn chúng tôi chứng kiến thêm lần nữa cảnh máu đổ, đầu rơi của đồng bào mình dễ dàng bị ghép tội Việt gian, một hiện tượng quá ư thịnh hành trong thời buổi nhiễu nhương, củi quế gạo châu…

Tiếng chân người thình thịch dẫm trên con đường đất ven sông, dẫn tới nơi hành hình vang dội trong đêm thanh vắng. Ánh đèn chai cho thấy 4 người đàn ông bị trói thúc ké,  đầu bù tóc rối, mặt mũi sưng húp, tím bầm, khập khễnh lê bước. Theo sau là đoàn người hung hãn, áo quần đen, khăn rằn quấn đầu, dao mác, gậy gộc tua tủa. Tôi thoáng thấy chú Tư Hơn, tay lăm lăm con dao phai, chỉa vào lưng các tử tội, thúc họ bước nhanh. Chắc hẳn chú được chỉ định làm đao phủ thủ. Không thể ngờ con người rất hiền hoà, luôn rộng tay đón nhận, giúp đỡ dân tản cư, sẵn sàng cho họ tá túc trong nhà mình, buổi đầu họ chân ướt chân ráo đến nơi tạm cư lánh nạn, đêm nay lại đằng đằng sát khí đến thế dưới ánh đèn chai bập bùng…

Từ pháp trường vang lên từng chập tiếng la thất thanh chen lẫn tiếng nguyền rủa của một tử tội: “Tổ cha tụi bây! Bây chém tao hơn chục nhát rồi mà đầu tao cũng chưa rơi! Trời ơi là trời!”…

Con dao cùn làm cá chém đến chiếc đầu thứ tư phải cứa

  qua cứa lại nhặp nhằn

tiếng hét thảm thương của con heo bị thọc huyết túa ra trên

       kinh dài hỗn loạn

họ không có thì giờ để rèn dao giết người

Chợt có tiếng la ó kêu cứu ầm ỉ chen lẫn tiếng vật lộn huỳnh huỵch… Dưới ánh đuốc chai ma quái một cảnh tượng ghê rợn từ nay trở đi sẽ ám ảnh tôi suốt đời: Đao phủ thủ Tư Hơn, mắt đỏ ngầu, sùi bọt mép, quơ con dao cùn vấy máu, hét to: “Chém hết tụi Việt gian! Chém hết tụi Việt Gian!”, rượt chém loạn đả đám đông. Bọn người quấn khăn rằn tức tốc vây chặt tên điên loạn, chỉa súng buộc hắn buông dao, hè nhau đè hắn xuống đất trói gô. Chém xong tử tội thứ tư, chú Tư Hơn, một nông dân xưa nay hiền lành, chất phác, hiếu khách đối với cư dân vùng đất hiền hoà Hốt Hoả, bùi tai vì “sự nghiệp kách mệnh của nhân dzân ta”, phút chốc đã say máu, biến dạng thành một phần tử cuồng tín, khát máu, mù quáng trung kiên với “kách mạng”…

Đêm trở lại yên tĩnh. Một mùa xuân vấy máu vừa lố dạng, hứa hẹn nhiều máu lửa càng lúc càng cuồng nhiệt, ghê rợn. Bốn chiếc đầu lâu mắt trừng, miệng há lăn lốc trên mặt đất loang lổ vết máu khô quánh, chờ được mang đi bêu chốn thị tứ để hù dọa những ai không theo cách mạng. Sân đình làng lẽ ra nồng nàn hương khói lại sặc mùi máu tanh!

 

*Cuối Xuân Mậu Tý,

hồi cư bàng hoàng

 

Có con chim nhỏ bé dám ca câu sấm thì:

Cuối xuân năm Mậu Tý tướng quân mang kiếm về…

 

Đêm Giao thừa không tiếng súng. Lác đác vài tiếng pháo nổ đì đẹt, gọi là cho có vẻ giữ lệ tống cựu nghinh tân. Quê hương vẫn còn chìm trong khói lửa ngút ngàn. Bất ngờ… người anh đầu đàn của tôi rón rén xuất hiện giữa lúc gia đình đang quay quần bên mâm cơm đạm bạc chờ đón tân xuân. Mọi người lặng lẽ rơi nước mắt, ôm chầm lấy anh, người anh đầu đàn trở về từ bưng biền, hốc hác, thất thần…Nhắp chung rượu xuân cho cơ thể bớt co thắt, anh tôi cố gắng bình tĩnh kể:

Thưa ba má! Con bất hiếu mang tấm thân tàn ma dại về đây, sau khi lùng kiếm không kết quả đứa em con thất lạc sau vụ Tây oanh kích vào đội Võ Trang tuyên Truyền của nó, là vì con muốn mọi người trong gia đình biết qua những thử thách đau thương mà con đã trải qua, khiến con không còn lòng dạ nào chiến đấu dưới sự chỉ đạo của nhóm cán bộ khát máu đang tự tung tự tác trong bưng biền…

Đêm mùng ba Tết vừa rồi, tại Chắc Băng, bọn nầy phóng hoả thiêu sống cả ngàn người Việt, Miên cùng toàn bộ gia đình họ, bị dồn nhốt chật cứng một lẫm lúa khổng lồ vì tình nghi họ hợp tác với Tây… Tiếng kêu khóc van xin đinh tai điếc óc, mùi da thịt khét lẹt làm mọi người chứng kiến màn nướng thịt người nghẹt thở, té ho sù sụ! Con và anh em trong đội của con bị bọn chúng tước khí giới trước khi chúng thẳng tay tàn sát đồng bào… Họ không có thì giờ để cắt cổ từng người một…

Hôm sau, đêm mùng bốn, tại Cạnh Đền, bọn nầy bắt cả đội tụi con áp tải hơn 500 người bị trói thúc ké, bịt mắt, ra bờ sông cho chúng dùng phảng chém đầu, bồi thêm chày vồ… Suốt đêm, con phải sống với tiếng người ơi ới kêu la, chửi bới vì chưa thiệt chết đã bị tống xuống sông cho dòng nước cuốn phăng!… Họ không có thì giờ đào những lỗ huyệt tập thể…

Và mùi máu tanh đã theo con chui vô nóp ngủ, liên tiếp nhiều đêm liền. Con phát điên. Con phải vượt khỏi cõi âm ty do bọn nầy tạo dựng trên làng xóm hiền hoà, nhân ái của chúng ta, nếu con không muốn loạn thần kinh giết hết bọn chúng hoặc bị lây bịnh giết người không gớm tay như chúng!…

Những người mất đầu vì cuốn văn phạm ngoại ngữ

Những người bị mổ bụng vì mặt biên áo trong có in ba màu

Có tiếng kêu mở cửa gấp rút: Hai người mặc đồ đen, một nam, một nữ dìu một bộ xương người còn thoi thóp thở …Đứa em Võ Trang Tuyên Truyền của anh cả tôi cuối cùng còn sống sót tìm về tổ ấm! Cả nhà xúm lại đỡ anh xuống ghế bố. Anh nằm im lìm, không còn hơi sức chào hỏi gia đình.  Bịnh kiết lỵ đã tước khả năng đi đứng của anh.

Người con gái vắn tắt cho biết cô đã tháo cũi sổ lồng cho người yêu và ông anh tôi thoát khỏi trại giam tử tội chờ ngày thọ hình. Anh ấy bị kết tội đã lên tiếng phản tuyên truyền chủ trương “tận diệt Việt gian” của kách mệnh, sau khi chứng kiến hàng trăm vụ xỏ xâu đồng bào, kết thành từng bè cho đi “mò tôm”…

Lũ tôm chực sẵn bên bờ sông

Lũ tôm-ăn-thịt-người

Lũ người-ăn-thịt-tôm-ăn-thịt-người

Lũ người-ăn-thịt-người-ăn-thịt-tôm-ăn-thịt-người

Người yêu của cô gái đột nhiên ú ớ bật khóc! Cả gia đình sững sờ nhận ra… chú chín Xuân của chúng tôi, câm điếc từ thuở lọt lòng mẹ. Chú theo kháng chiến giúp khuân vác lương thực, tãi đạn. Một hôm, giữa đêm chú ra bìa rừng hút thuốc giải khuây, đi lạc qua khu vực đóng quân của một đơn vị khác. Lính gác hô to: “Đứng lại! Dơ tay lên!” Chú tỉnh bơ xâm xâm tiến bước…Hỏi mật hiệu, chú vẫn đường ta ta cứ đi… Bị bắt về trạm kiểm soát thẩm vấn, chú chỉ biết cười cười phát âm “ụ à ụ á dễu dễu ”. Tình nghi chú dọ thám cho Tây, họ tra khảo chú chết đi sống lại đôi ba lần…

Người câm bắt buộc phải trả lời

những tội phạm họ không bao giờ đủ khả năng nghĩ tới

Người điếc bị đánh đơ xương sống

vì không nghe được người ta hỏi gì

Một mùa xuân đẫm máu nữa lại vừa âm thầm đi qua, lôi theo sự ê chề, thất vọng của những người tưởng rằng mình tranh đấu vì độc lập, tự do, hạnh phúc cho giống nòi… Chiêu bài giải phóng đất nước khỏi ách tham tàn của thực dân Pháp do nhóm chỉ đạo đảng Lao Động VN rầm rộ hô hào, thực chất chỉ giản dị là một cuộc đấu tranh giai cấp rập khuôn Mác-Lê, nhằm tiêu diệt mọi giai cấp, chuẩn bị cho giai cấp vô sản độc quyền chuyên chính!

Cuối xuân năm ấy, cả gia đình tôi đau lòng rời bỏ “xứ quê mùa” yêu thương đang chìm đắm trong lửa đạn tơi bời, tái định cư tại Vĩnh Long, một thị trấn bốn bề có sông rạch bao quanh. Cậu bé 11 tuổi, năm xưa suýt trở thành “anh hùng” kiểu Lê Văn Tám…dỏm, ngoan ngoản trở lại băng ghế nhà trường, dốc lòng chăm chỉ học hành. Các hoài niệm thương động thời tản cư dần dà đi vào quên lãng…

Tuổi thơ vẫn sẵn lòng quên những phát súng những mũi

      dao của bọn người lớn

Cho tới khi cậu bé chuyển sang trường Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) tiếp tục học, có dịp chứng kiến các cuộc biểu tình “chống bắt lính” của học sinh, *Xuân Giáp Ngọ (1954). Các hoài niệm đau thương tưởng đã phôi pha theo năm tháng lại chập chờn trong đầu cậu. Xảo thuật kích động học sinh bãi khóa khiến cậu có cảm tưởng “đã thấy qua rồi” (impression du déjà-vu): Trước mắt cậu, nhóm học sinh cầm đầu vào trường xách động các lớp bỏ học , các thầy cô ngưng giảng dạy cho học sinh tham gia biểu tình (thuở ấy chưa có danh từ “xuống đường”) hành sử y như các cán bộ Việt Minh hô hào đình công, bãi thị ở Bạc Liêu, năm nào! Tình cờ cậu khám phá một giáo sư của cậu là linh hồn của cuộc biểu tình chống bắt lính nầy. Ông thầy nầy sau đó đứng hẳn về phía “kách mệnh”, sau vụ Tết Mậu Thân…

*Xuân “Thanh Bình” mong manh (Kỷ Hợi 1959)

Ngày xưa em qua đây                                                                            

Cho tình tôi chớm nở                                                                        

Như chân chim muôn thuở

In mãi bậc thềm rêu 

Chiếc xe lửa phì phò phun khói đen từng cụm, nặng nhọc bò lên triền núi gần như thẳng đứng trên đường rầy có răng cưa (crémaillère) móc giữ cho khỏi tuột dốc. Chánh phủ tiết kiệm công quỹ, trưng dụng một toa xe đưa 30 sinh viên ban Triết Đại học Sư phạm Sài Gòn, giữa niên khóa, lên Đà Lạt tiếp tục học trình, thay vì cấp kinh phí cho họ đi xe đò, đắc hơn đi tầu hoả. Cảnh trí chung quanh vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Hứng chí, tôi cầm guitare đệm nhạc cho cả nhóm hòa ca vang rền… Sau hiệp định đình chiến Genève, ngày 20 tháng 7 năm 1954, miền Nam liên tiếp hưởng được mấy mùa xuân không tiếng súng, an bình, thịnh vượng…

Anh chị em sinh viên chúng tôi vừa ăn Tết xong ở Sài Gòn, một cái Tết rất vui nhộn, có pháo nổ, có lân múa, có mai vàng, dưa hấu, bánh tét, bánh chưng, kẹo mức, hoa quả v.v…Nhộn nhịp vô cùng. Đà Lạt có vẻ quá yên tĩnh đối với chúng tôi. Nhưng thành phố cao nguyên mù sương nầy lại là nơi hẹn hò lý tưởng của những cặp tình nhân lãng mạn, là nơi gặp gỡ tuyệt vời của tao nhân mặc khách…Ôi! Đà Lạt là thơ… Ai lên xứ Hoa Đào dừng chân bên hồ nghe chiều rơi…

Hoàng, bạn cùng khóa, ban Pháp văn và tôi quyết định rời khu nội trú Viện Đại học Đàlạt, dọn ra thuê chung một gác trọ trên đường Phan Đình Phùng cho được thoải mái hơn. Hoàng thích vẽ, tôi thích nghe nhạc cổ điển Tây phương nên khó tuân giữ giờ giấc qui định trong khu nội trú. Vả lại hai đứa thường lang thang trên đường phố Đàlạt về đêm tìm hứng -Hoàng để vẽ, tôi, để suy gẫm- khi trên đồi thông, lúc bên bờ hồ…Chiếc Vespa tôi chở theo trên xe lửa quá đắc dụng cho những cuộc dạ hành không giờ giấc nầy. Cuộc sống hai gã con trai độc thân bình lặng trôi đều cho đến lúc một giai nhân mà dung nhan và dáng dấp phảng phất ít nhiều phong thái của nữ-bá-tước-chân-trần (la comtesse-aux-pieds-nus) Ava Gardner xuất hiện như giấc mơ tiên nữ giáng xuống trần, tóc mây buông lơi tha thướt bên hồ…Than Thở khi mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng…

, tên giai nhân bên bờ hồ, khẽ gật đầu đáp lời chào xã giao của Hoàng, lơ đễnh liếc nhìn tôi tần ngần dựng chiếc Vespa, chưa biết có nên bước tới làm quen với người em sầu mộng hay không. Nhìn tôi bối rối thấy rõ, Hoàng nắm tay tôi kéo tới trước người đẹp giới thiệu:

-Đây là Tú, láng giềng của tao ở Phú Nhuận. Còn thằng thỏ đế nầy là Tân, “triết-gia-phù-thủy-tập-sự”, bạn cùng trọ với tôi. Mầy chào Tú đi chứ! Làm gì đứng chết trân như trời trồng vậy! Bị sét đánh á khẩu hả? Đúng là dân philo-folie! Mời Tú lên ngồi giữa hai thằng tôi. Lâu lâu chở ba giỡn mặt chính quyền chơi. Đèo Tú về nhà thay đồ, mình đi kiếm gì ăn cho vui.

Cố tập trung lái, tôi vẫn không thể không bồn chồn lo lắng hai thằng làm gì có tiền trả bữa ăn với Tú. Tiền trọ vẫn chưa thanh toán, chờ lãnh học bổng hàng tháng. Đã thế Hoàng còn đề nghị rủ nguyên băng Lưu-Quang-Trinh-Tấn-Thu đến nhà hàng Chic Shanghai “chung vui”! (Vui chung rồi mạnh ai nấy trốn chăng?) Đúng là điếc không sợ súng! 

Cả bọn, trừ tôi lái xì-cút-tơ, đạp xe tới biệt thự Rosalie, cuối đường Phan đình Phùng. Y như đoàn quân hầu cận chuẩn bị “hộ giá” Công Nương! Tú đứng chờ sẵn trước cổng. Đột nhiên một chiếc Falcon bóng loáng lao thẳng vào chúng tôi, thắng gấp. Một gã đàn ông ăn mặc sang trọng, bước xuống xe, hầm hầm xốc tới kênh kiệu nghinh ngó bọn tôi, đoạn tiến về hướng giai nhân, choàng vai mỹ nhân, định dìu lên “long xa” Cờ Hoa. Tú trừng mắt hất tay gã, bước thẳng về chiếc Vespa, ngồi hẳn lên yên sau. Tôi gấp rút nổ máy phóng đi, đoàn xe đạp nối đuôi như một đám rước! Gã đàn ông sạm mặt, cung tay quơ quả đấm về hướng tôi…

Suốt bữa tiệc, Tú gần như hoàn toàn im lặng, thỉnh thoảng mỉm cười, nụ cười “bí ẩn” của La Joconde, nhưng đôi mắt không cười theo, luôn trầm buồn, xa vắng. Đôi lúc nhìn lén nàng, tôi ngờ ngợ Tú cũng có nhìn trộm tôi! Mắt, môi Tú hình như toát ra “cái gì đó” xoáy sâu tâm can người đối thoại, dù Tú hầu như không bao giờ xen vào câu chuyện trao đổi giữa chúng tôi. Mãi nghĩ vẩn vơ, tôi quên mất bận tâm tiền đâu trả bữa ăn! May thay, hình như tất cả hàng quán trên miền đất lạnh nầy đều được yêu cầu “ghi sổ” mọi chi tiêu của nữ-bá-tước-chân-trần chuyển về biệt thự Rosalie: Tú là người duy nhứt thừa hưởng tài sản kếch sù do ông nội để lại theo di chúc…

Hôm sau, Tú hẹn chúng tôi ở Café Tùng. Không hiểu vì sao chỉ mình tôi đến điểm hẹn. Chúng tôi vừa bước ra cửa quán, gã đàn ông hôm qua sấn tới nắm tay Tú lôi đi. Tú vùng vẫy gỡ tay níu, hắn giận dữ tát tai nàng. Tôi vội vã buông chiếc Vespa ngã lăn bên vệ đường phóng tới. Thấy tôi có thể xông vào can thiệp Tú ra tay trước, giáng cho hắn một cái tát đổ lửa, sẵn trớn xô hắn ngã bật ngửa trên dãy bàn cà phê ngoài hiên quán, cặp kính cận của hắn văng xuống thềm gạch bể nát…

Chẳng rõ vì sao tôi chở Tú thẳng tới Viện Đại học Đà Lạt, đưa nàng vào luôn lớp Triết đang nghỉ giải lao chờ đổi giờ học môn khác. Các bạn đồng liêu áp tới vây khổn Tú, hỏi han về môn nàng theo học ở Đại học Văn khoa Sàigòn (vì tôi trót giới thiệu “sảng” nàng học dư bị văn khoa với tôi, để nàng đỡ ngượng đột ngột xuất hiện cùng tôi giữa đám “thư sinh lều chõng” nghiêm túc như các chủng sinh!) Tú rảo mắt tìm tôi cầu cứu tới giải vây…

Khi nắng vàng bắt đầu mờ nhạt sau lớp sương mù se lạnh, giăng mắc lụa lê thê trên các ngọn thông đong đưa theo làn gió thoảng trong khuôn viên đại học, không hiểu sao tôi đưa Tú về gác trọ Phan Đình Phùng thay vì đưa nàng về biệt thự Rosalie… Và lạ lùng thay, Tú không chút do dự theo tôi bước lên cầu thang rập rình, dốc ngược lên trời, dẫn tới căn gác xép gắn ghép vào vách tường mặt sau căn phố lầu của chủ cho thuê, trông như treo chênh vênh giữa không trung!

Gác trọ tuy chật hẹp nhưng bàn tay nghệ sĩ của Hoàng đã biến thành một căn phòng rất trật tự ngăn nấp, có kệ sách như một mini-thư viện, bàn viết, giá vẽ, máy hát dĩa, bàn cà phê…Hai chiếc ghế bố nhà binh ghép chung, kê sát góc tường làm chỗ nghỉ lưng cho hai chàng trai tơ khá lập dị.

Tú ngồi bất động nơi bàn cà phê, cúi nhìn…sàn gỗ, thỉnh thoảng ngước nhìn chân dung nữ tài tử điện ảnh Ava Gardner do Hoàng phát họa treo gần kệ sách. Đối diện Tú, tôi cũng ngồi im, ngước nhìn…trần nhà! Hai tách trà đã nguội lạnh từ lâu. Chẳng ai nói với ai lời nào. Trên máy hát dĩa, một mẩu giấy con của Hoàng: “Tao đi nghe récital dương cầm của Supitra, rất khuya mới về”.

Sau bữa ăn ở Chic Shanghai, trên đường về Hoàng kể chuyện gã đàn ông đã hung hăng lái xe đâm sầm vào chúng tôi trước nhà Tú: Gã là bác sĩ, đã theo đuổi Tú từ lúc nàng mới lên 16, đang học lớp seconde ở Yersin. Tú mồ côi cha rất sớm, mẹ tục huyền. Dượng ghẻ rất ác cảm với chị em Tú, nhứt là với Tú. Nàng cũng muốn nhận bừa lời cầu hôn của tay đốc-tờ nầy để thoát khỏi không khí ngột ngạt trong gia đình. Nhưng khổ nỗi nàng không ngửi nổi cái kênh kiệu, cái thô tục của hắn. Hắn nghĩ rằng cứ vãi tiền ra là muốn cái gì cũng được. Chưa chi hắn đã muốn xử sự như Tú là vợ của hắn. Cho nên Tú đã cho hắn một bài học thích đáng.

When I fall in love…It will be for ever…So I never fall in love…Giọng ca truyền cảm, đắm đuối của Nat King Cole từ máy hát bay ra trầm buồn. Tú và tôi không một lần nhìn nhau, không một lần nói với nhau bất cứ điều gì, lặng im nghe nhạc cho đến khi đã quá khuya. Chúng tôi lặng lẽ xuống cầu thang, rời căn gác trước đây chưa một lần tiếp đón phái nữ…

Tú hẹn tôi ngày mai sẽ trở lại gác trọ nghe nhạc. Lúc chia tay, có lẽ Tú không khỏi ngạc nhiên nghe tôi “ngập ngừng”  thì thầm: Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!

Tôi đảo một vòng thành phố dầy đặc sương mù, tư bề vắng ngắt, dừng xe giây phút trước khu đại học còn leo lét vài ngọn đèn vàng yếu, lướt qua biệt thự Rosalie kính cổng cao tường lờ mờ trong đêm đen… 

Tôi trở về cửa cài then gác xép

Giường chiếu mênh mông sầu khép đôi tay

Đếm tuổi thời gian dưới bóng đèn gầy

Soi cô độc nằm tròn trong đáy mắt…

Tú và tôi không lần nào gặp lại nhau nữa. Chỉ một lần duy nhất mặt đối mặt, thanh trong, huyền ão như…nắng đưa em về bên dòng suối mơ, như…nhẹ vươn theo gió (tôi) xa rời chốn xưa…

Cuối niên học, khi tôi rời Đà Lạt đi Paris, Việt Cộng bắt đầu dấy loạn, công đồn đả viện quân đội VNCH tại Trãng Sụp (Tây Ninh):

Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam

    Trận bày trận thiệt Mặt làm bình phong    

 Xuân thanh bình qua mau. *Xuân Canh Tý (1960): khói lửa lại kéo tới tái diễn cảnh thịt nát xương tan, đầu rơi máu đổ, tưởng đã vĩnh viễn sang trang.

*Xuân Mậu Thân sắt máu, tang tóc (1968) 

Ngoài Hà Nội dân ăn Tết sớm

Hồ Giáp Đồng lận lỡm con đen

Giao thừa vừa độ quá đêm

Nằm vùng ra mặt súng rền miền Nam                                                           

Anh chị em chúng tôi và bầu đoàn thê noa đông đủ tề tựu về đón Giao thừa ở nhà đứa em út, đường Bạch Đằng (Hàng Xanh) cùng với ba má từ Vĩnh Long lên ăn Tết với con cháu. Pháo đỏ đầy thềm, rượu đổ tràn ly, tứ sắc, bài cào, xì phé, bầu cua đều chi! Năm nay hầu như mọi nhà đều tưng bừng đón Xuân…Chẳng ai ngờ những tràng pháo đại nổ liên hồi về sáng là đạn pháo VC công phá các công sự phòng thủ Sàigòn, hầu như hoàn toàn “bỏ ngõ” vì đôi bên lâm chiến đều tuyên bố hưu chiến nhân dịp Tết Nguyên Đán!

Đợt I “Tổng công kích” vừa bị đẩy lui, những đám cháy chưa dập tắt hết, hàng núi xác người nhầy nhụa thối rữa chưa kịp vùi lấp hay hỏa táng tập thể thì VC lại tung thêm đợt II, mưu toan san bằng thủ đô Sàigòn đã không hưởng ứng lời kêu gọi “tổng nổi dậy” cùng chúng lật đổ chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa. Cùng lúc chúng tàn sát hàng ngàn quân cán chính cũng như lương dân vô tội tại Huế.

Cố đô Huế nhân dân cửa đóng

Giải phóng quân giải phóng nghìn người

Đập đầu cắt cổ chôn tươi

Oan khiên u uất ngợp trời Cố Đô

Thảm cảnh “tận diệt Việt gian” tái diễn kinh khiếp và nhanh chóng gấp bội lần Xuân kinh hoàng Mậu Tý 1945…

Vừa cởi quân phục chưa đầy 2 năm, tôi lại phải giã từ đám môn sinh, khoác chiến y ra trận, đánh cận chiến, giành từng góc phố, từng con đường như phim “combat” trên truyền hình, trước khi phụ trách cứu trợ đồng bào nạn nhân chiến cuộc tại khu Vườn Lài, “đoàn ngủ hóa sinh viên” trong Liên đoàn sinh viên “phòng vệ” Thủ đô, để rồi sau cùng được trả về làm công tác giáo dục thuần túy.

Trở lại trường cũ ở Bình Dương, tôi bùi ngùi nhìn các lớp đệ nhị cấp trống vắng: một số lớn học sinh ở vùng xôi đậu của trường đã bỏ thây trên các chiếc xe lô do VC trưng dụng tiến đánh Sàigòn bị chận đánh, tiêu diệt toàn bộ ngay ngã tư xa lộ Biên Hoà…

Dụng hưu chiến toan bề tráo trở

Tưởng nhân dân hỗ trợ quân Hồ

Ngỡ dân nổi dậy ô hô

   Cán binh Mặt Trận chôn mồ Mậu Thân

*Xuân Ất Mẹo tan tác (1975): 

Nhà tan cửa nát, người người ly tán… 

Ba chục Tết tơi bời xương máu

Triệu oan hồn lảo đảo đồi nương

Ba đời gươm súng thê lương

Mẹ cha còn bấy lư hưong đỉnh đồng 

Những đứa con chết muộn 

Vẹn bực tức gỡ ống nghe khỏi tai, lầu bầu: ”Lệnh lạc khôi hài thật. Chưa đụng đã bảo rút là sao?”. Chàng đau lòng nhìn đám lính địa phương quân đang cố thủ dưới dạ cầu và quanh khu Tân Cảng. Rõ ràng họ chưa biết phải rút. Chính chàng cũng chẳng rõ ai đã ra lệnh kỳ quái vậy. Cấp chỉ huy trực tiếp chỉ nói lệnh từ Mặt Trời. Chắc chắn chàng không thể bỏ đám lính kiên cường nầy bơ vơ. Lại càng không thể khơi khơi bỏ chạy khi nhớ tới người anh cả, đại úy Trung đã tử trận trong lần giải tỏa cố đô Huế, hôm Tết Mậu Thân 1968. Và đại úy Hiếu, đã nằm xuống trong lần tái chiếm cổ thành Quảng Trị, hè đỏ lửa 1972…

Nhưng lệnh là lệnh. Phải tuân hành. Sau khi ra lịnh cho các chiến xa khác tháo lui về hướng Tiểu khu Gia Định, Vẹn yêu cầu số quân nhân trên chiến xa M48 án ngữ bên kia cầu xa lộ sang qua chiếc Jeep chỉ huy đơn vị trực chỉ Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp, cầm theo công điện mang tay thông báo đơn vị đã triệt thoái theo yêu cầu, đơn vị trưởng ở lại. Chấm hết.

Nửa giờ sau, chiến xa T54 xuất hiện rầm rộ. Vẹn khai hỏa trước và bắn tới viên đạn cuối cùng rồi nổ súng vào đầu, gục ngã trên pháo tháp, máu nhuộm đỏ ba mai vàng trên ve áo…

Trước khi quyết định ở lại trận tuyến, chắc Vẹn thừa biết Phủ Tổng Thống giờ đã như nồi cháo heo, nói chi tới Bộ Tổng Tham Mưu và cái Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp khốn khổ của chàng. Nhưng Vẹn vẫn chu toàn trách nhiệm trong danh dự, như một kỵ mã thời Nã Phá Luân đệ I, trên con ngựa sắt khổng lồ M48… Ôi tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không anh?…

Cùng lúc, trên chót vót một cao ốc, Tuân hướng ống dòm về phía Tân Cảng rực lửa, ngao ngán lắc đầu, cầm ống liên hợp (combiné) liên lạc với “thẩm quyền”. Im lặng vô tuyến hoàn toàn!

Gọi máy nhiều lần không kết quả, Tuân quyết định chuyển quân qua bên kia cầu Phan Thanh Giản, rải dọc hai bên xa lộ, gần trạm biến điện. Lại được lệnh rút lui về Lăng Ông Bà Chiểu! Tân bấm combiné chuyển lệnh cho đại đội phó thi hành. Tuân, đại đội trưởng ở lại vi trí chiến đấu, đơn độc tiến về hướng Ngã Tư Xa Lộ, lột bỏ nón sắt, đội chiếc mũ đỏ lên đầu, ngạo nghễ đứng sững trên mặt lộ chờ…xe tăng địch. Lúc cây M72 trên tay chàng bắn cháy một T54 cũng là lúc hàng ngàn viên đạn lớn nhỏ đủ cỡ từ các T54 khác tua tủa bay tới xé nát người Tuân, chiếc mũ đỏ bị hất tung, bay lơ lửng trên trời cao trước khi lảo đảo rơi rụng xuống chụp ngay vào họng đại bác một chiếc tăng! Có lẽ Tuân ao ước được tan xác theo quê hương tan tác. Anh! Hỡi anh ở lại Charlie…

Lúc những mảnh thịt còn lại của Tuân bị xích sắc xe tăng nghiền nát ngoài xa lộ cũng là lúc Toàn đang ấm ức trấn thủ phía sau Dinh Độc Lập. Khi chiếc T54 đầu tiên ủi sập cửa sắt của Dinh, Toàn nổ súng vào đầu…Cũng như Tuân, Toàn không thể sống khi đất nước đã chết…Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây…Bạn bè còn đó anh biết không anh, người tình còn đây anh nhớ không anh…

Mặt trời thật sự đã vụt tắt, dù ngày ấy nắng chói chang, với Vẹn, với Tuân, với Toàn và với nhiều chiến hữu khác của họ, trong ngày cuối của VNCH. Nhưng mặt trời giả hiệu vẫn còn leo lét nhắc nhở, khuyến khích những ai đã từng đâm sau lưng chiến sĩ hãy tiếp tục ngo ngoe kiếm ăn trên xác chết của con em mình. Độc hại nhứt vẫn là thái độ khả ố của cựu đồng minh cờ hoa, cứ thường xuyên trình chiếu những cuốn phim về chiến tranh VN, trong ấy chẳng bao giờ có bóng dáng người chiến binh cộng hoà kiêu hùng, gây ngộ nhận cho dư luận thế giới rằng cuộc chiến ở Việt Nam chỉ là cuộc đấu súng giữa du kích CS và cao bồi Huê Kỳ! 

Trong ba người vĩnh viễn nằm xuống ngày 30 tháng 4 năm 1975, chỉ có Toàn tốt nghiệp Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Điểm đáng nói: Vẹn, 27 tuổi. Toàn, 25. Tuân, 23 là…anh em ruột. Cả ba đều chết cho quê hương ở lứa tuổi dưới 30, ở cấp bậc đại úy.

Hỡi ơi một dải san hà

Lọt tay cộng sản hận loà sử xanh

(Trích “Tạp ghi những điều trông thấy”)

-Tù đày…                               

Trại cải tạo Z30Z (Hàm Tân, 1977)

Biến đất Việt nhà tù vĩ đại

Khắp nơi nơi dựng trại tập trung.

Học tập cải tạo tàn hung,

Quân nhân công chức trị trừng tội xưa.

Quả thật tôi đang cử động trong bốn bề thời gian đặc cứng trong căn nhà tù do chính tôi cùng một số đông anh chị em “tù cải tạo” chém tre, đẵn gỗ, phá rừng, đắp nền, dựng cột, lợp tranh, chắn song, xích cửa, cài then dựng nên tự nhốt mình rồi…trao chìa khóa cho bọn cai ngục cộng sản. Đúng theo “yêu cầu” của giới tự cho là “đỉnh cao của trí tuệ loài người”: Các “phạm nhân” -hết rồi mỹ từ “cải tạo viên”, sau hơn 2 năm “học tập” -tự ý trừng phạt, tự ý giam mình. Nói cách khác: tự ý xin được ở tù.

Sự tự nguyện “tự giác” nầy được phát huy đến cao độ khi phạm nhân tự lực cánh sinh và kêu réo gia đình “thăm nuôi”, để đủ sức lao động “vượt chỉ tiêu” cho nhà nước. Trước đây có lũ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”, vô tình hay cố ý “đâm sau lưng chiến sĩ”. Bây giờ, cả bọn đâm và bị đâm đều “tự nguyện” vào rọ hết để…ăn cơm tư gia cuốc cày chết cha cho cộng sản!

Đêm đã xuống từ lâu trên Căn Cứ 5 Rừng Lá cũ. Thế nhưng cường độ oi bức, không khí nặng mùi xú uế trong nhà giam không hề lắng dịu…

Vâng, đêm nay tôi đã dừng lại một bước trên đường dài gian khổ đọa đày, nhục nhằn, bức bách -“con đường đầy máu và nước mắt”- và nói thầm đó là mùa hè…dẫu chẳng còn là mùa hè xa lắc xa lơ năm nào, nơi đó có lời Tây Ban Cầm tự tình bên khung cửa khuất, có chiếc khăn choàng đã bỏ quên trên bãi muộn, không bao giờ tìm thấy nữa…Nhưng vẫn là mùa hè muôn thuở trong tôi, dù giờ đây ngọn đèn pha trại tù chói lòa chiếu rực vào mắt, dù xiềng gông đã thay vòng tay nồng nhiệt yêu đương năm nào đã trói buộc tôi trên làn cát mịn Địa Trung Hải xanh lơ, dù giờ đây tôi đang nằm trơ vơ trên chỏng tre ọp ẹp vấy máu-người-quện-đen-quanh-vô-số-xác-rệp, giữa hai khoảng trống dành cho Tá và Đạt, hai bạn tù đã tắt thở trên tay tôi vì thiếu liều thuốc sinh tử làm hạ cơn suyễn cực nặng. Và tôi đã phải cứa đôi chiếc poncho quấn xác họ, cho cả hai khỏi bị chôn trần. Xưa có “sơ mi gỗ”, trống kèn chen lẫn tiếng khóc kể thảm thiết. Nay, sơ mi cao su hoặc sơ mi chiếu. Cả tiếng nấc, câu kinh cũng bị cấm tuyệt. Tuy thế, tôi cũng thầm thì Amen, A Di Đà Phật khi bọn cai ngục cho mang xác hai bạn tôi đi vùi lấp ở một xó xỉnh nào đó, không lưu vết tích gì hết…

Bất giác tôi thở dài chạnh nghĩ đến những nữ “phạm nhân” rất trẻ, thuộc nhóm kháng chiến Phục Quốc -những người nữ đáng được yêu thương, trân quí- bị nhốt kín trong nhà giam cận kề, không còn tự do tung tăng bay nhảy, một thời đã cùng người yêu rong chơi vui thích, khi trong rừng chồi, trên đồi thông, lúc trên ghềnh đá sóng vỗ bập bùng…

Vói tay mở chiếc ba lô sờn rách đã theo tôi trên khắp nẻo đường hành quân, tôi lôi chiếc khăn choàng cổ màu đỏ, cũng đã bạc màu, bịt mắt để đi vào giấc ngủ chập chờn, mệt lử, trong trạng thái căng thẳng tột cùng: đợi chờ tiếng kẻng inh ỏi báo thức, như những đêm mất ngủ trước đây -lúc còn bên ngoài vòng kẽm gai- thao thức chờ tiếng “bõm” của giọt nước từ rô-bi-nê không khóa chặt, rỉ ra, rơi xuống…

Giờ sẩy vực triền miên địa ngục

Giữa vòng gai nuốt nhục sa cơ

Thân lao lý đến bao giờ

Nước non tàn một cuộc cờ trắng tay

(Trích “Nhật ký của một người lạc thực”)

*Những mùa Xuân sau 30.4.1975

Xưa nay sử Việt chưa từng

Nạn dân bỏ nước ùn ùn ra đi

Dù biết vạn hiểm nguy vẫn trốn

Nộ trùng dương ghê rợn sóng phăng.

Hiếp dâm hải tặc dã man

Cạn lương giữa biển người ăn thịt người…

*Xứ Tuyết, xuân Đinh Hợi 2007

Thảm họa ba mươi tháng tư một chín bảy lăm bất chợt phủ chụp xuống đất nước như một tai nạn lưu thông kinh hồn, vô tiền khoáng hậu, gây thương vong hàng loạt cho hằng muôn vạn sanh linh (hécatombe), đột biến như cơn nước lũ vỡ đê cuốn phăng đi một mảng mặt lộ khổng lồ trên đại lộ kinh hoàng, chia cắt đôi bờ sông Côn mùa lũ; bên nầy bờ, nhục nhằn đày đọa; bên kia bờ, an lạc, tự do…Đôi bờ càng lúc càng dang xa, càng lúc càng nghìn trùng xa cách như bên nầy và bên kia đại dương mông mênh, phong ba bão táp trùng trùng điệp điệp. Một đại-dương-chứng-nhân biết bao thảm kịch vượt ngoài trí tưởng tượng của loài người, một đại dương như bể khổ trầm luân, đã đánh đắm hơn nửa triệu nhân mạng vượt trùng dương mưu tìm đất sống…

Cơn gió thốc từ nhánh sông Saint-Laurent lờ đờ trôi ngang hậu liêu tu viện Dòng Tên Villa Saint-Martin lay động hàng phi lau ven sông. Từng đàn bướm trắng bung lên, chới với vẫy cánh bay lượn la đà mặt sông làm liên tưởng tới những cánh bườm của những chiếc xuồng ba lá tí teo, mong manh như lá liễu trên đại dương bao la sóng gào gió thét, ngày nào đã đưa từng đoàn người không đành lòng rời bỏ quê cha đất tổ vượt biển tìm đất hứa…Phải chăng các cánh bướm kia là những oan hồn vất vưởng của bạn bè thân thương vạn lần ưu tú hơn tôi đã phơi thây trên chiến trận, chôn xác trong rừng sâu nước độc của những trại giam nghiệt ngã, tàn khốc hay vùi thân dưới đáy biển tăm tối thiên thu? Requescat in pace!

Hỡi ôi! Hí trường hay dở ba canh vãn, Thế sự thăng trầm một kiếp thôi. Chẳng còn được như ngày xưa viếng thăm phần mộ những người đã khuất, cúi đầu lặng yên suy gẫm thế sự thì…Hỡi những anh em đã nằm xuống không một nắm mồ-morts sans sépultures! Xin hãy cho tôi được một lần

Nhớ nhau vẫy bút làm mưa gió

Cho nắm xương tàn được nở hương

*Xuân Mậu Tý (2008): ngỡ ngàng như giấc chiêm bao

Người ơi buồn lắm mà không khóc

                                                                Mà vẫn cười qua chén rượu đầy

Sáu mươi năm đã trôi đi từ độ Xuân kinh hoàng Mậu Tý 1948 ngự trị trên thôn xóm quê hương -với chính sách khủng bố kinh khiếp của Việt Minh do đảng Lao Động VN chuyên quyền áp đặt- tưởng chừng qua như một chớp tắt của sấm sét trên không trung…

Thế sự thăng trầm thì cuộc sống trên đất tạm dung của tôi cũng không tránh khỏi những đổi thay, đôi khi rất đau lòng. Những cảnh “đổi đời” tưởng chỉ xảy ra trên quê nhà lại diễn ra nhanh chóng ngoài sức tưởng tượng trên xứ người với cộng đồng người Việt xa xứ. Không kể xiết những đảo lộn trong cuộc sống hằng ngày của di dân VN trên đất khách…

Ngoài mọi dự tính, chờ đợi, ước muốn, những tưởng đã đến lúc tự cho phép mình rửa tay gác kiếm hưởng nhàn -ba bốn chục năm bương chải để sinh tồn, còn ức hiếp gì nữa mà không chịu ngưng nghỉ- bỗng dưng tôi đành bỏ hết, làm lại từ đầu khi gần hội đủ điều kiện để an tâm dưỡng lão, dọn ra “căn nhà ngoại ô” nầy, tính ra đã 16 năm qua…

Căn nhà nhỏ trong một chung cư nằm ở đoạn cuối con đường dẫn ra bờ sông. Toàn bộ cao ốc xếp hàng làm một thành lũy bê-tông tiếp cận một khu rừng thưa, lỗ chỗ những đầm lầy ao tù ngập đầy lá cành mục rã. Khung cảnh yên lặng cố hữu của xẻo đất hẻo lánh vùng ngoại ô thành phố Montréal nầy rất thích hợp với cư dân tới hoặc sắp tới tuổi hồi hưu. Khu chung cư hoang vắng như thành phố ma. Họa hoằn lắm mới có một hai bóng người lụ khụ thấp thoáng, chậm chạp di động. Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi cô lổ, nhưng được bảo toàn quá kỹ, rề rề lăn bánh chở hai mái đầu bạc phơ, y như một họat cảnh trong phim câm. Sự huyên náo duy nhất đến từ lũ chim bay liệng, ríu rít trửng giỡn…Khu chung cư có vẻ một chợ chim khổng lồ hơn một cư xá cho con người! Mọi tiếng động đều tắt ngấm theo bóng đêm vừa chụp xuống. Tĩnh lặng hoàn toàn. Có lẽ vì lý do an ninh, đèn đường san sát và sáng hơn các nơi khác. Từ các góc tối, nhiều dàn đèn rọi tập trung chiếu vào các kiến trúc, làm khu chung cư nổi bật lên nền trời đen tuyền như một di tích lịch sử!

Cơ thể rủ liệt, thần trí rời rã sau chuyến rong chơi vào miền quá khứ vui buồn lẫn lộn, nhưng giấc ngủ không đến với tôi trong căn nhà ngoại ô tĩnh mịch. Bạn bè tứ tán, cố nhân nếu không bặt tăm thì cũng ơ thờ, tránh mặt… Khi bước chân ta về…Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ…

Tình cờ điện thư của một bạn văn báo tin có một bạn đọc muốn nhờ anh giúp liên lạc với tôi. Quả thật hết sức bất ngờ vì chẳng bao giờ tôi chờ đợi hay nghĩ rằng việc ấy có thể xảy ra: Một cố nhân chỉ một lần mặt đối mặt trên Xứ Hoa Đào 49 năm về trước, đang ở bên kia đầu dây, cách tôi ba múi giờ, về hướng Tây Nam, vùng đất được các nhà địa chất học tiên đoán sẽ bị nhận chìm xuống lòng Thái Bình Dương sau một trận động đất khủng khiếp.

-Tân nghe đây!

-Tân-Viện Đại học Đà Lạt, phải không?

-Không sai! Tú-Rosalie, đúng không? Không thể Tú nào khác được!

-Sao chắc dữ vậy?

-Chỉ có Tú-Rosalie mới biết Tân-Phan Đình Phùng, Đà Lạt 1959!

-Còn nhớ năm 1959 nữa cơ à?

-Chẳng lẽ Tú quên gác trọ năm nào…

Hai người bạn non nửa thế kỷ bặt tin, nhờ một bài viết của Tân đăng báo ở Cali, tìm được dấu vết nhau! Họ nói chuyện như mới chia tay ngày hôm qua, coi chuyện xa cách nhau 49 năm qua như một giấc chiêm bao! Bao nhiêu cố nhân nặng tình nặng nghĩa với nhau bên nhà, sang đây, nếu không ngoảnh mặt làm ngơ, cũng chẳng còn chút thân tình nào như trước, dẫu chỉ mới xa nhau năm ba năm! Thế mà Tú đã nhớ và để tâm  dò la tung tích anh sinh viên “thỏ đế”, năm nào đã ra đi không một lời giã biệt, 49 năm trước!…Trong bối cảnh thế thái nhân tình ngày nay, phải nhìn nhận một tấm lòng như thế vô cùng hiếm hoi và quả thật đã làm “ấm lòng chiến sĩ” (già nua, thất thế) trên xứ lạ quê người…

Sau tháng Tư đen, hơn cả tôi Tú đã trải qua nhiều gian truân khổ lụy, mẹ góa con côi, đơn thân độc mã gánh gồng mọi nhục nhằn, đương đầu với biết bao thử thách gian nguy. Đau nhứt là đã “cúng” cho CS đứa con trai đầu lòng chết đuối khi bị điều đi làm công tác thủy lợi. Trắng tay sau vụ đánh tư sản, giờ đây mẹ định cư một nơi, các con một ngã, rải rác khắp năm châu. Ít ra tôi may mắn hơn Tú về điểm nầy, tuy tôi cũng tay trắng như Tú khi vượt thoát ngục tù CS…Nữ bá-tước-chân-trần năm xưa giờ đây đành…“tay-trần” !

Đà Lạt, một thuở…Nay còn đâu

Đà Lạt cảnh thơ tình man mác

Vàng lối thu ngơ ngác nai tơ

Đồi thông bụi phấn buông mờ

Xuân Hương hồ biếc phẳng lờ mặt gương

Tú hẹn sẽ ghé thăm căn nhà ngoại ô ven sông vào mùa xuân tới. Có lẽ cho tròn năm (mươi) năm rồi không gặp… chăng?

Chỉ sợ không còn nhìn ra nhau nữa… Tang thương đến cả hoa kia cỏ nầy

-o-o-o-

Lòng đắng sá chi muôn hớp rượu

Mà không uống cạn mà không say

Quyển nhật ký vuột khỏi tay Tân, rơi xuống sàn gỗ, mở ra ở trang viết về *Xuân Ất Mẹo (1975), kết thúc bằng bốn câu thơ ghi nguệch ngoạc, có lẽ chép trong cơn say, lúc chạnh nhớ tới chuỗi ngày gian khổ trong ngục tù cộng sản:

Khuya vượn hót chiều tà tu hú

Đại mộng đời thế sự bến mê

Phù vân mây chó trôi về

Ba mươi năm giặc não nề hoa niên

Thôn trang Rêu-Phong, Xứ Tuyết,

   cuối xuân Mậu Tý (2008)

  -Lê Tấn Lộc-

__________________________________________________________________________________

Ghi chú: Trích đoạn thơ văn sử dụng trong bài viết nầy, người viết mượn của các thi sĩ Kiệt Tấn, Nguyễn Bính, Phạm Thiên Thư, Trần Huyền Trân, Tạ Tỵ và đôi khi của chính tác giả.

Lời nhạc mượn của các nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, Ngô Thụy Miên, Hoàng Nguyên, Trần Thiện Thanh, Lê Thương, Trịnh Công Sơn…
Trở về đầu trang GS Lê Tấn Lộc

Trở về trang Thầy Cô

HOME

 

================================================

KHI EM HẬU PHƯƠNG LÊN TUYẾN ĐẦU…

=================================================

MÙA XUÂN NĂM ẤY…

Hỡi cô gái khép đôi tà áo

Xuân nhật đăng lâu vọng cố nhân

Chàng trai phong nhã ngày xưa ấy

Đã bỏ tình riêng theo nước non

Tân dửng dưng trước không khí rộn rã vui tươi tưng bừng đón Xuân Tân Mão 1951. Trắng đêm thức đọc Nửa bồ xương khô của Vũ Anh Khanh, một tay xoa bóp các vết bầm trên thân thể sau trận đòn do người anh răn dạy mình đã tỏ tình không đúng chỗ với cô gái cưng của ông chef của anh, tay kia lần giở tập học trò với nhiều bài thơ tiền chiến chép tay, Tân thì thầm đọc: 

Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng

Nhẹ bảo chàng: “Em chẳng biết gì ư?                          

Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù                                                    

Người nước Việt ra đi vì nước Việt                                

Tha La vắng vì Tha La biết                                                

Thương giống nòi, đau đất nước lầm than…” 

Từ dạo bước chân vào trường trung học, càng đọc các truyện về những chàng trai theo kháng chiến chống Pháp -nhứt là các truyện của Thẩm Thệ Hà- Tân càng thán phục họ và cảm thấy lòng yêu nước bị khích động mãnh liệt, thâm tâm nhen nhúm niềm khao khát noi gương họ… “thoát ly”! Các tập truyện mõng nầy do nhà phát hành Nam Cường phổ biến rộng rãi và được giới trẻ -nhứt là giới học sinh- cũng như người đứng tuổi nồng nhiệt đón nhận. Tân vừa say mê vừa cảm động ngấu nghiến đọc Em không về nữa chị ơi, Chiếc hòm chưn nhạn, Xin đắp mặt tôi mảnh lụa hồng, v.v…Nhưng “Nửa bồ xương khô” mới thực sự là quyển sách gối đầu giường của Tân.

Phải nhìn nhận thuở ấy, đối với Tân, những truyện viết nầy quá xuất sắc, càng xuất sắc hơn nữa là chúng đã khéo léo “qua mặt” được nàng kiểm duyệt “thông tin” của bộ máy cai trị thời đó, vốn chịu nhiều áp lực nặng nề và sự kiểm soát gắt gao của thực dân Pháp. Điều lạ lùng nhứt là chúng đã thành công đẩy lui vào quên lãng những hoài niệm kinh hoàng của Tân tích tụ từ thời cùng gia đình tản cư, hưởng ứng lời kêu gọi “tiêu thổ kháng chiến” của Việt Minh! Quả thật,

tuổi thơ vẫn sẵn lòng quên những phát súng những mũi dao của bọn người lớn…  

Cuối cùng Tân quyết định sáng sớm tinh sương mùng bốn Tết Tân Mão âm thầm ra đi với Trang, bạn cùng trường ở Vĩnh Long, cả hai vai mang đờn mandoline, tay xách túi nhỏ đựng hai bộ quần áo với một ít tiện nghi vệ sinh hằng ngày. Để qua mắt chính quyền, người “móc nối” kín đáo “gởi” Trang và Tân trên chuyến xe di chuyển gánh hát cải lương Phát Thanh của ông Bầu Tèo sang lưu diễn tại Cái Bè, thuộc quận Cai Lậy, với thành phần diễn viên nồng cốt: đào thương thinh sắc vẹn toàn Nguyệt Yến-“Nữ Thần Trong Động Lửa”, kép mùi Paul Thuận gầy yếu xanh xao, kép độc Hoàng Dưỡng tướng tá bậm trợn, đằng đằng sát khí, v.v… Và hẹn một tuần sau đến đón hai cậu học sinh bỏ trường vô “khu” …

Đảo mắt nhìn bao quát lần cuối thành phố còn say ngủ, thành phố tư bề có sông rạch bao quanh, đã yêu thương dung dưỡng biết bao mộng mơ bất thành của mình, Tân khe khẻ ngâm nga:

quê tôi ở giữa kinh thành

có những phố phường nho nhỏ

có những buổi chiều xanh xanh

bụi loãng trong lòng thương nhớ

-*-

Đến hẹn vẫn chưa thấy người móc nối xuất hiện như đã hứa. Hai thiếu niên Tân-Trang bỗng nhiên trở thành hai trẻ lạc loài như RémiMattia trong truyện Vô Gia Đình (Sans famille) của Hector Malot. Tân chợt nghĩ có lẽ rồi đây mình cũng sẽ như Rémi theo ông nhạc sĩ già Vitalis mưu sinh! Được báo cáo có hai cậu học sinh “bỏ nhà theo gánh hát”, ông bầu Tèo và tình nhân Nguyệt Yến vặn hỏi hai đứa muốn họ cho người đưa về nhà chăng. Cả hai đều nhứt quyết “theo gánh hát”, chẳng thể nào dám tiết lộ chờ người dẫn ra “khu”! Thôi thì một liều ba bảy cũng liều, sự thế đã thế thì đành…gặp thời thế thế thời phải thế!

Khởi đầu, bầu Tèo giao cho hai trẻ thủ vai vệ sĩ cho “dũng” tướng Paul Thuận, cứ mỗi lần ra quân phải kéo ro ro vài điếu lấy hơi và phải mặc áo độn cho ngực vung vai u để  không quá lép vế trước người yêu Nguyệt Yến, đào lẵng tràn đầy nhựa sống, “trẻ mãi không già”, phu nhân bị cưỡng ép của loạn tướng Hoàng Dưỡng quá ư gồ ghề, “gian ác”.

Hai trẻ rất được ông bà bầu gánh cưng chiều và anh chị trong đoàn hát thương mến. Nhờ thế Tân và Trang đỡ tủi thân. Trước mắt, có cơm ăn áo mặc tương đối tươm tất. Riêng Tân có khiếu văn nghệ nên được truyền dạy cổ nhạc. Hai cây mandoline coi như bỏ xó! Thế nhưng, không như Trang có vẻ dễ dàng thích ứng với cuộc sống mới, Tân vẫn thấp thỏm trông đợi người móc nối tới lôi mình ra khỏi “kiếp cầm ca”, để được dịp nhắn gửi người con gái đã khiến Tân bị ông anh mình dần một trận đòn nhừ tử:

Nghe chăng cô gái đô thành nội?

Áo trắng an ninh giữa lũy đồn

Xuân sang rấm rức sầu quê tổ

Ai điểm trang mà em phấn son?

Trong khi chờ đợi, đào chánh Nguyệt Yến sai người hầu cận Bảo Ngọc, một thiếu phụ nhan sắc hiền thục, phong cách thùy mị (phụ trách trang điểm các diễn viên) tới nhờ kép độc Hoàng Dưỡng và Tư Đẹt (nhỏ con, nhẹ cân, chuyên thủ vai kiếm khách “bay” lượn trên sân khấu) trông chừng và truyền nghề cho Tân: Đẹt dạy đánh kiếm, đấu “boa nha” (dao găm). Dưỡng chỉ dẫn điệu bộ trình diễn cải lương và các điệu ca Vọng Cổ, Xàng Xê, Chuồn Chuồn, Nam Ai, Mẫu Tầm Tử, Khốc Hoàng Thiên, Lý Con Sáo, Kim Tiền Bản

Riêng Trang được thầy đờn huấn luyện ghita sáu dây phím lõm; không mấy chốc ngón “nhấn” của Trang được coi như đã nhuần nhuyễn, nức-nở-mùi-mẫn-thốn-tim!

**

Một tháng, hai tháng, rồi ba tháng trôi qua: chẳng thấy bóng dáng người có nhiệm vụ đưa đường dẫn lối hai cậu học-sinh-thoát-ly vào “khu chiến”. Tân và Trang -nhứt là Tân- đành miễn cưỡng tháp tùng gánh hát đi lưu diễn khắp các tỉnh miền Đông Nam Phần. Hằng đêm cùng ăn cháo khuya với Hoàng Dưỡng và Tư Đẹt, Tân được nghe nhiều chuyện bí ẩn, cực kỳ lý thú, khi bức màn nhung đã buông xuống, lúc “sân khấu (đã) về khuya”

-Lúc nãy Tân có thấy gì khác lạ khi hai tay trung thần và nịnh thần đối đáp chăng? Hoàng Dưỡng hỏi.

-Họ diễn thực quá! Tát tai nẩy lửa, đối đáp chan chát…

-Bởi vì trung và nịnh thần trên sân khấu có mối tư thù ngoài đời. Ông thầy tuồng biết rõ nên mới phân vai quá đúng. Cả hai là tình địch. Nịnh thần cướp tình nhân của trung thần. Cho nên khi trung thần xỉ vả nịnh thần: “Bản mặt nhà ngươi coi bảnh bao vậy chớ cái lưng nhà ngươi đầy thẹo ghẻ ngứa”, anh ta “hát cương” (mà kép nịnh thần ghẻ ngứa  đầy mình thiệt!). Và nịnh thần cũng vả miệng trung thần thiệt tình (trả đũa mà!) thay vì giơ tay mặt giả bộ vả, tay trái vỗ vô đùi tạo ra tiếng “bốp”! Tân thấy chưa, sân khấu và cuộc đời nhiều khi không khác nhau lắm đâu! Thảm trạng của những ai theo đuổi nghiệp “dưới ánh đèn màu” là vậy đó: Một số đem cuộc đời lên sân khấu như Tân vừa chứng kiến. Một số, ngược lại đem sân khấu xuống cuộc đời! Câu sanh nghề tử nghiệp coi vậy mà đúng quá!

Nốc cạn ly xây chừng rượu thuốc, khà một tiếng nghe thật đã, Hoàng Dưỡng tiếp:

-Anh kể Tân nghe vài hiểm nguy nghề nghiệp: Có lần đi hát ở tỉnh lẻ, cô Bích Thuận diễn xuất vai Thúy Liễu (trong Lan và Điệp) quá xuất sắc, đã bị một nam khán giả văng tục mắng nhiếc thậm tệ, thiếu điều muốn trèo lên sân khấu hành hung cổ! Vị khán giả nầy phản ứng kịch liệt như vậy vì ông ta thực tình “thấy” cổ đích thị là…Thúy Liễu!

Châm thêm rượu vào ly xây chừng, Hoàng Dưỡng kể tiếp:

-Cách đây 2 năm, khi gánh hát mình lưu diễn tại Nam Vang, anh xém bị một ông “đàn thổ” (Cao-Miên) cáp duồn! Cũng vì anh đóng quá “đạt” vai nịnh thần Bàng Hồng! Tay nầy ngồi hàng ghế đầu, phát thinh chửi thề: “Dơ! Tao chem chêt me mây!”. Rồi xách dao xông lên sân khấu toan làm thịt anh! Rất may cảnh sát can thiệp kịp thời, còng tay chàng ta lôi đi. Thế mà ổng còn ngoái đầu lại hét lớn: “Dơ! Tao chơ mây ra đương tao chem chêt cha mây luôn!”. Suốt cả tháng anh chẳng dám ló mặt ra đường ăn cơm tiệm, đành trốn miết trong rạp hát húp cháo cầm hơi, sụt gần chục ký! Lúc giở gánh đi, anh phải núp trong rương quần áo, hia mão mới thoát chết vì ông đàn thổ ổng cầm dao chực sẵn ngoài rạp, hễ thấy anh là…“phụp” liền!

Một điểm khá lạ lùng với Tân, không hiểu vì sao Bảo Ngọc có vẻ rất “thương” và tận tụy chăm sóc từng miếng ăn, thức uống, giặt ủi luôn áo quần cho Tân…Đặc biệt hơn nữa, người thiếu phụ xinh đẹp dễ mến nầy cứ nằng nặc đòi Tân phải nằm ngủ sát cạnh nàng! Lý do nàng nêu ra là có Tân kề cận nàng yên bụng đêm khuya khoắc không bị mấy tay kép “thả dê” ẩu tả!

Đã có tiếng xầm xì nàng và Tân “bồ bịch”. Dĩ nhiên không có chuyện đó, dù nàng chỉ hơn Tân bốn năm tuổi thôi. Nghe đâu nàng đã một lần dang dở tình duyên. Tân không dám hỏi nhưng nghe đồn kết cuộc rất bi thảm…

***

Thế rồi việc gì phải đến cũng sẽ đến, khi gánh hát trở lại Cái Bè. Tân chẳng thể ngờ lâu nay Bảo Ngọc âm thầm “chăm sóc” Tân là vì đã được người móc nối ở Vĩnh Long giao trách nhiệm tìm hiểu hai cậu học sinh bỏ trường có thực lòng muốn theo kháng chiến chống Pháp chăng. Sau vài tháng theo dõi, quan sát, Bảo Ngọc thấy rõ chỉ còn Tân muốn vô khu…

Đêm ấy, như thường lệ, sau khi vãn hát Tân sửa soạn chỗ ngủ sát cạnh Bảo Ngọc. Giữa đêm, một làn hơi ấm thoang thoảng mùi hương bưởi phả vào mặt Tân: khuôn mặt hiền hòa của Bảo Ngọc ẩn hiện huyền ảo dưới ánh đèn măng-xông (manchon) vặn nhỏ…Nàng đưa ngón tay lên miệng ra dấu giữ im lặng, vội vã kéo tay Tân về vùng bóng tối sau cánh gà “đề-co” (décor) trên sân khấu, kề tai Tân yêu cầu gấp rút gom góp hành trang rời gánh hát ngay…

Tim Tân đập loạn xạ, thầm nghĩ chẳng lẽ nàng rủ chàng bỏ trốn đi xây tổ uyên ương? Vô lý, lâu nay nàng vẫn xem Tân như người em mà!

-Đi đâu vậy chị? Tân thì thào hỏi.

-Đi đến một nơi mà Ngọc sẽ giúp Tân toại nguyện…

Tân đỏ mặt tía tai. Toại nguyện cái gì? Lẽ nào là…“chuyện ấy”? Sao nàng lại xưng tên mình và gọi Tân bằng tên, không như từ lâu vẫn một mực “chị nói em nghe”?

-Chị nói gì em không hiểu…

-Tân đừng chị chị em em với Ngọc nữa! Chúng ta bình đẳng, cùng chí hướng. Ngọc nói cho Tân rõ: Ngọc là giao liên. Ngọc sẽ đưa Tân vô khu trước khi trời sáng.  Từ nay trở đi, chúng ta là bạn và Ngọc sẽ luôn sát cánh giúp đỡ Tân trong mọi tình huống. Yên chí đi, lúc nào bên cạnh Tân cũng có Ngọc, như trước đây lúc nào bên cạnh Ngọc cũng có Tân…Xuồng ba lá ngụy trang đã được chuẩn bị sẵn sàng. Tân không rành đường đi nước bước nơi đây, nhứt là trời còn tối om, nên Tân phải nắm chặt tay Ngọc. Từ đây tới chỗ xuồng đậu mất ít nhứt nửa tiếng đồng hồ. Trong mọi trường hợp Tân không được buông tay Ngọc…

Chàng và nàng vừa bước xuống xuồng thì có tiếng chân người thình thịch bên kia bờ sông! Ngọc vội vã đẩy Tân bật ngữa ra khoang xuồng, nằm sấp lên người Tân, đúng lúc ngọn đèn pha trên lô-cốt quét sáng trưng vào bụi ô-rô đang che khuất chiếc xuồng ba lá cùng lúc với tiếng quát tháo bằng tiếng Pháp:

Qui va là? Halte-là! (Ai đó? Đứng lại!)

Một tay bịt miệng Tân, tay kia nắm chặt trái lựu đạn đã mở chốt, Ngọc trong tư thế sẵn sàng phản công tự vệ hoặc…tự sát!

Một tràng tiểu liên “ria” bừa vào đám ô-rô. Ngọc áp sát người trên Tân, chắc chắn với ý định dùng thân đỡ đạn cho chàng!

Một loạt đạn thứ hai “tưới” cầu âu vào lùm cây thăm dò phản ứng. Trong tình thế cực kỳ nguy ngập, Tân vẫn thấy người nóng rần trong đêm lạnh, bởi chưa bao giờ được dịp ngây ngất vì hương vị da thịt của phái yếu…Khoái cảm đầu đời!

Đèn pha quét rọi đã tắt ngấm từ lâu nhưng Ngọc vẫn nằm yên trên Tân! Tự dưng Tân ao ước ánh đèn oan nghiệt kia lại chọc thủng màn đêm, từng tràng tiểu liên lại “rót” không ngừng vào bụi cây, cho Ngọc tiếp tục ghì siết Tân thâu đêm…Nhưng Ngọc đã nhỏm dậy, bình tĩnh đẩy xuồng ra khỏi lùm ô-rô: Nàng vẫn không quên trách nhiệm được giao phó!

****

Cuối cùng Ngọc chu toàn nhiệm vụ. đưa Tân an toàn “ra bưng”. Lúc bước lên bờ, đến bìa rừng chồi, Ngọc yêu cầu Tân cho Ngọc bịt mắt để bảo mật lộ trình dẫn tới điểm đến, theo qui định Ngọc phải tuân thủ.

Sau khi hướng dẫn Tân đến “ra mắt” người điều khiển khu mang bí danh Tư Rọm, trách nhiệm chiến khu mang ám số C5, Ngọc giữ đúng lời hứa không rời Tân nửa bước, Sự quan tâm của Ngọc khiến Tân đỡ xao xuyến. Không hiểu sao giáp mặt Tư Rọm, Tân cảm thấy rợn người, tâm thần bất ổn trước cặp mắt cú vọ và cái miệng  gần như không có môi của hắn, y như miệng rắn!

-Cô Ngọc giao cậu Tân cho Sáu Củi khai tâm về đường lối của Cách Mạng và huấn luyện xử dụng vũ khí, Tư Rọm ra lệnh. Cậu Tân qua bên đó ăn ở luôn với anh Sáu…

-Thưa anh Tư, Ngọc nghiêm mặt trả lời. Huấn luyện Tân thì giao cho anh Sáu. Nhưng Tân phải ở với tôi. Người móc nối Tân ở Vĩnh Long dặn dò tôi rất kỹ phải luôn luôn canh chừng Tân. Anh ấy nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Và tôi không thể trái lịnh…

-Thôi được. Tạm thời, tôi chấp nhận như vậy. Tuy cô trực tiếp chịu trách nhiệm với Bảy Vẹo ở Vĩnh Long, nhưng ở đây là vùng trách nhiệm của tôi, mọi chuyện phải theo qui định của tôi…

-Anh Tư cho Tân theo tôi “hoạt động” vài lần cho quen việc, rồi chúng ta bàn lại…

Trên đường về trạm giao liên -hầm trú ẩn được ngụy trang rất tinh vi, tránh máy bay quan sát khám phá- dành riêng cho Ngọc nghỉ ngơi, Tân thắc mắc:

-Sao Ngọc cứ muốn mình ở chung với nhau vậy? Tân thấy Tư Rọm có vẻ hắc ám quá! Anh ta là người Nam mà sao giọng nói lơ lớ như…người Bắc hay người Trung vậy?

-Câu hỏi thứ nhứt của Tân, Ngọc sẽ trả lời sau, vì chuyện khá dài dòng…Tư Rọm là người Nghệ Tĩnh. Hắn bắt chước giọng Nam để giấu biệt gốc gác của mình, cho thiên hạ lầm tưởng hắn là dân địa phương, hầu dễ bề gây cảm tình với quần chúng. Tân linh cảm đúng về hắn đó. Sáu Rọm rất tàn bạo và quỷ quyệt. Ngọc nhắc Tân lần nữa, như mình đã nhất trí: Tân phải luôn bám sát Ngọc.

Ngưng một lúc, Ngọc choàng vai Tân, kề tai hạ thấp giọng:

-Thêm điều kiện nầy nữa cho thật an toàn: Từ nay trở đi, mình phải đóng kịch như đôi nhân tình. Tân không nên xem thường điều kiện mới nầy, vì nó tối quan trọng, có tính cách sinh tử chứ không phải chuyện giả bộ chơi cho vui đâu! Chuyện nầy ít nhiều liên quan tới câu hỏi thứ nhứt của Tân…

Tân định vặn hỏi nhưng Ngọc đã nhanh chóng kéo Tân xuống hầm, đóng nấp lại. Qua ánh đèn bấm, Tân nhìn thấy một thùng gỗ chứa đầy lựu đạn đặt cạnh một cây mi-trai-dết (mitraillette Mas 36) mà Tân thường thấy lính Tây được trang bị.

-Tân nhìn khẩu Mô-ze (Mauser) phòng thân của Ngọc đây. Ngọc sẽ chỉ Tân cách sử dụng. Có dịp, Ngọc sẽ kể câu chuyện về nó để trả lời câu hỏi thứ nhứt của Tân…

Trước khi ngọn đèn dầu leo lét được thổi tắt, Tân thoáng thấy Ngọc lên đạn khẩu Mauser…

*****

Suốt hai tuần, Sáu Cũi vừa nhồi nhét “đạo đức cách mạng” vừa tập cho Tân đủ mọi thế ném lựu đạn (và tháo chạy!), tuyệt nhiên không chỉ dẫn gì hết về súng đạn. Ngọc luôn có mặt bên cạnh Tân, đưa chàng về trạm giao liên ngay sau mỗi buổi tập, không muốn Sáu Cũi kéo Tân ra khỏi tầm nhìn của Ngọc nói chuyện riêng, tạo điều kiện thuận lợi cho Tư Rọm tới ve vản nàng.

Tư Rọm bực tức, hậm hực nhìn “hai trẻ” nắm tay “tình tứ” đưa nhau về “động hoa vàng-hầm trú ẩn”! Hắn thèm khát Ngọc từ lâu. Bao nhiêu lần hắn đột nhập vào “sào huyệt” của Ngọc mưu toan hái mận bẻ đào nhưng không kết quả. Lần nào Ngọc cũng mở chốt lựu đạn cảnh cáo hắn nếu sấn tới sẽ buông tay cho cả hai cùng tan xác!

-Ông sẽ cho chúng con biết tay ông! Hắn lầu bầu, miệng méo sệch, sùi bọt mép, cặp mắt cú vọ đỏ rực, trợn trừng trông khiếp vía…

Một tuần sau Tư Rọm giao cho Tân công tác rải truyền đơn. Dĩ nhiên có Ngọc đi kèm. May thay! Nếu không Tân đã bị mật thám Tây bắt hoặc bị bắn hạ khi tháo chạy! Vào giờ chót, Ngọc thay đổi địa điểm do Tư Rọm chỉ định. Thay vì trong nhà lồng chợ, Ngọc canh chừng cho Tân thi hành công tác tại trường tiểu học quận lỵ…

-Tân chớ lo. Ngọc báo cáo địa điểm trong chợ bị địch phát giác…

-Ngọc tài thật. Sao Ngọc biết trước địa điểm nầy nguy hiểm?

-Ngọc sẽ nói rõ ngọn ngành với Tân sau. Tạm thời Ngọc bảo gì Tân cứ y thế mà làm. Nếu không mạng sống Tân sẽ như chỉ mành treo chuông!

Trên đường về, Ngọc thay đổi lộ trình nhiều lần…

Đêm đó, dưới ánh trăng lưỡi liềm yếu ớt, ẩn mình trong khu rừng chồi ven sông, Ngọc tiết lộ hành tung khiếp đảm của tay huyện ủy đã khiến Tân rởn óc, lần đầu chạm mặt:

-Hắn tên Đỗ Xảo, năm nay hắn đúng 35 tuổi, giỏi lắm học tới lớp tư trường làng, sống bằng nghề chính bưng mâm rửa chén cho các tiệm ăn; nghề phụ, nhổ răng và thiến heo dạo. Năm 20 tuổi, hắn bỏ xứ trốn vào Nam vì đâm chết một đối thủ cùng trổ nghề cướp giựt, móc túi. Hắn chuyển qua nghề dẫn mối gái ăn sương cho lính Tây. Nhờ vậy hắn được một tên lính lê dương (légionnaire) giới thiệu làm bồi cho vợ chồng một quan hai Tây. Hai năm sau hắn mò vào phòng ngủ đâm chết ông trung úy, rồi hãm hiếp và siết cổ bà trung úy cho tới chết. Từ đó hắn tuyệt tích giang hồ. Nghe đâu nhờ “thành tích” đẫm máu nầy, hắn được kết nạp vào Đảng!

Ngọc nghe anh chị em ở đây xầm xì là trước khi đáo nhậm C5 hắn đã trở về quê cũ ném lựu đạn rồi phóng hỏa đốt nhà ông hội đồng Thành, giết sạch gia đình ông nầy cùng vợ và hai con hắn được ông hội đồng cho tá túc làm việc nhà, sau khi hắn can tội giết người bỏ trốn. Nhằm tạo thành tích dâng cho Đảng, hắn không từ nan bất cứ chuyện gì có lợi cho hắn thăng tiến, kể cả việc giết luôn vợ con mình! Hiện nay “quan” huyện ủy nhà ta cuỗm vợ của một du kích xã đã bị Tây phục kích bắn chết. Thiên hạ đồn rằng hắn đã mật báo cho Tây lộ trình của anh du kích! Bây giờ hắn lại muốn “chiếu cố” Ngọc…

-Do đó Ngọc cần Tân sống chung với Ngọc để…

-Đúng vậy. Nhưng còn một lý do thầm kín khác mà từ từ Tân sẽ hiểu…Trong khi chờ đợi, Ngọc có bổn phận bảo vệ Tân và…ngược lại!

-Ngược lại?

Ngọc không trả lời câu hỏi của Tân, trái lại vội vàng ghì siết Tân vì…Sáu Cũi đi tuần tra các tổ báo động ven sông vừa rọi đèn pile vào “chàng và nàng” đang (giả bộ) mùi mẫn!

******

Một tháng sau khi tới C5, Tân bắt đầu nhuốm bệnh sốt rét rừng. Ngày cũng như đêm, Ngọc túc trực bên Tân cạo gió, giác hơi , nấu nồi xông, đút cháo cho Tân cầm cự chịu trận cho cơn bịnh hành hạ. Mỗi lần “làm cử”, đắp bao nhiêu chăn mền đều không ngăn được Tân rét run tận xương tủy, đến độ Ngọc phải ôm cứng Tân “đè” chàng xuống sạp tre, nếu không chắc Tân đã té lăn xuống đất!

Ngọc van nài Tư Rọm xin vài viên kí-nin (quinine), nhưng hắn dứt khoát từ chối, viện lẽ thuốc để dành chữa cho các “đồng chí” chiến binh mau bình phục, sớm trở ra trận tuyến. Tân không thuộc loại được ưu tiên săn sóc nầy.

Không còn cách nào khác, Ngọc đành liều lĩnh lẻn ra “thành” cầm đôi bông tai mua kí-nin giá chợ đen về cứu Tân qua cơn nguy kịch. Cơn làm cử vừa lơi đôi chút, Tư Rọm giao công tác liền tức khắc cho Tân. Ngọc phản đối. Hắn lạnh lùng “phán”:

-Cánh Mạng không thừa cơm nuôi bọn ăn không ngồi rồi!

Lần nầy hắn cho Sáu Cũi “tăng cường” tổ công tác: Tân phải liệng lựu đạn vào một quán ăn trong chợ, nơi lính tráng từ trại binh của Tây thường ra ăn uống. Sáu Cũi lên đường trước, hẹn giao hai trái lựu đạn cho Tân trước cửa chợ.

Nửa giờ sau Ngọc và Tân rời hầm trú ẩn, tiến về mục tiêu được chỉ định…Đột nhiên, Ngọc thay đổi lộ trình, kéo tay Tân vô khu rừng chồi, nhờ Tân phụ đẩy xuống nước chiếc xuồng ba lá đã đưa Tân tới C5, đem giấu sau đám lau sậy ven sông.

-Tân giữ trái lựu đạn nầy phòng thân, tuyệt đối im lặng chờ Ngọc trở lại. Ngọc đã lo liệu mọi thứ đâu vào đó rồi. Tân đừng sợ. Ngọc đi đây!

Áng chừng 30 phút sau, một tràng tiểu liên phá tan sự im lặng ban mai. Tân bồn chồn lo lắng cho Ngọc, muốn rời xuồng chạy về hướng có tiếng súng nghe ngóng tin tức, tuy nhiên vẫn cố dằn lòng nằm im, nhớ lời Ngọc dặn dò…Nhưng rồi nhiều loại súng thi nhau nổ ròn tan khiến Tân không còn chịu nổi sự căng thẳng cân não. Tân dợm nhảy lên bờ tiếp cứu đồng đội thì… từ xa Ngọc hỗn hễn phóng tới hối hả bơi xuồng lướt nhanh đi, luồng lách trong hệ thống kinh rạch chằng chịt tìm cách thoát khỏi khu C5.

Đêm đến, Tân “làm cử” dữ dội hơn mọi bận: sau cơn rét run bầng bật suýt làm xuồng lật chìm, Tân nóng sốt mê sảng, ói mữa thâu đêm. Ngọc mệt nhoài choàng ôm cứng Tân ngủ thiếp cho tới lúc mặt trời đứng bóng, Tân vẫn chưa ra khỏi giấc ngủ như hôn mê…

-Tân! Tân! Ngọc lay gọi. Ráng tỉnh dậy đi! Có chuyện nầy rất quan trọng, Ngọc cần bàn với Tân. Mình đã ra khỏi vùng kiểm soát của C5 và cũng đã vượt khỏi khu Tây có thể truy lùng. Sáu Cũi đã bị bắt.. Ngọc cố ý cho “bể” vụ Tư Rọm sai hắn gài bẫy cho Tân sụp hầm Tây. Tràng tiểu liên do Ngọc bắn đã cứu Tân thoát chết. Bây giờ Ngọc dự tính đưa Tân về với gia đình, trở lại trường học. Ở lại C5, Tân không chết về tay Tư Rọm cũng sẽ chết vì sốt rét rừng.

-Làm sao Tân về nhà mà không bị công an bắt về tội trốn ra bưng?…

-Tân yên tâm. Anh Bảy Vẹo đã chuẩn bị rất tỉ mỉ cho chuyến trở về của Tân hoàn toàn êm xuôi với chính quyền Vĩnh Long. Trước mắt, về tới nhà, Tân phải ẩn mặt một thời gian. Anh Bảy sẽ kín đáo cho người đến lo liệu mọi thứ với gia đình Tân…

-Nhưng Ngọc sẽ ra sao nếu Ngọc trở về C5? Chẳng thể nào Tư Rọm tha cho Ngọc và Tân đã bất tuân lệnh của hắn, khiến Sáu Cũi bị bắt…

-Tân không phải lo. Anh Bảy “uy thế” hơn Tư Rọm nhiều, nên hắn không dám đụng tới Tân. Ngọc sẽ báo cáo Tây nó lầm tưởng Sáu Cũi là…Tân! Mà đúng vậy. Vì sau đó Tây mang Sáu Cũi ra giữa chợ bắn bỏ! Điều nầy cho thấy rõ ràng Tư Rọm đã mật báo cho Tây vây bắt Tân và bắn chết ngay, bởi vì hắn đinh ninh Tân là tình địch …

-Càng thêm một lý do nữa để Ngọc đừng quay lại C5! Sao Ngọc không thừa cơ hội nầy ra đầu thú hay trở về hoạt động với anh Bảy?

-Có nhiều tình tiết mà lúc nầy Ngọc chưa tiện tiết lộ cho Tân rõ. Nhưng nhứt định Ngọc phải tiếp tục công tác bên cạnh Tư Rọm để chờ cơ hội…

-Cơ hội?…

-Từ từ Tân sẽ rõ. Ngọc thấy Tân còn quá yếu, cần nằm nghỉ lấy sức. Ngọc cũng vừa bán chiếc nhẫn mua thêm vài viên quinine giúp Tân cầm cự vài hôm nữa để Ngọc có thể  đưa Tân tới Bắc Mỹ Thuận cùng Tân đón xe đò về Vĩnh Long…

-Tân không đành lòng để Ngọc hứng chịu mọi hiểm nguy thường xuyên với con quỷ dâm ô có cái miệng như miệng rắn, chỉ vì muốn giải cứu Tân…

  • Thì Ngọc cũng đã lợi dụng Tân như tấm bình phong để bảo vệ mình trước mưu đồ hắc ám của tên quỷ sứ đó! Vả lại Ngọc có mối thù bất cộng đái thiên với tên lưu manh đội lốt cách mạng nầy. Tân còn nhớ Ngọc nói có dịp Ngọc sẽ kể câu chuyện về khẩu Mauser tùy thân nầy chăng?

Ngọc không nghe Tân trả lời vì Tân lại vừa lên cơn sốt rét kịch liệt…

*******

Tân hồi tỉnh trên căn gác mà các cửa sổ đều được đóng kín, tưởng chừng như vừa giật mình thức giấc sau cơn mộng dữ dai dẳng: Tân bỏ học? Tân theo gánh hát? Tân vô khu? Tân rải truyền đơn? Tân trên đường mang lựu đạn đi ném vào khu chợ búa đông dân cư? Tân bị sốt rét rừng suýt chết? Tân bỏ khu trốn về thành? Ngọc! Ngọc ơi! Ngọc đâu rồi? Mọi chuyện đã thực sự xảy ra như thế hay tất cả chỉ là một giấc mơ dài?

Rõ ràng đây là căn gác trên lầu nhà Tân, nơi vừa là phòng ngủ vừa là phòng học của Tân và đứa em trai mà! Lẽ nào do ôn bài thấm mệt Tân ngủ quên trên giường đến độ nằm chiêm bao kinh khủng quá sức tưởng tượng?

Thân thể nóng bốc khói, miệng khô đắng, Tân dụi mắt cố gượng dậy. Vừa đứng lên, chàng lảo đảo té sấp xuống sàn gỗ, sặc máu mũi, môi miệng ứ máu sưng húp! Dưới nhà có tiếng chân người vội vã chạy lên cầu thang…

-Tân! Tân con! Ba đây, đừng sợ! Đã 3 ngày rồi con mê sảng… Có người giúp ba lén đưa y tá tới chích kí-nin-mắc (quinimax) nên con mới bớt làm cử. Nhưng con còn yếu lắm, lưỡi con đóng bợn cứng ngắt, nói chuyện khó khăn. Chưn con chưa đứng vững được nói chi tới bước đi. Chờ má con đi chùa Bà Đội thu xếp xong về, ba sẽ đưa con vô đó tạm lánh mặt để chữa trị, tránh chòm xóm dòm ngó. Cô Ngọc nói với ba anh Bảy đã “lo” xong với chánh quyền chuyện con trở về. Họ coi như con lỡ dại ham vui “theo gánh hát” thôi. Anh con cho biết đã được trường con đồng ý cho con trở lại đi học. Con ráng tịnh dưỡng…

-Vậy là con không nằm mơ, phải không ba? Ngọc đâu rồi ba?

-Cô ở lại một ngày, một đêm bên con. Sáng sớm hôm sau cô kiếu từ và nhờ ba má nói với con là cô rất quí mến con. Cô yêu cầu ba giữ cuốn sổ nhỏ nầy nhưng dặn ba chỉ đưa cho con khi tình trạng sức khỏe con khả quan…

Tân cảm thấy cổ họng nghèn nghẹn, mắt cay xè…Ngọc ơi! Bây giờ (Ngọc) ở đâu? Góc biển hay rừng sâu? Chúng ta vĩnh viễn chia tay nhau rồi chăng? Có lẽ Tân sẽ không còn ứa lệ như trước nữa, khi cám cảnh Em không về nữa chị ơi…Mà rồi đây Tân sẽ phải âm thầm thổn thức…Chị không về nữa em ơi!

Đã một thời chúng ta tựa vào nhau chống chọi với thói đời ở một nơi mà chúng ta ngỡ là ưu việt, là cao cả, là… cách mạng! Ngọc ơi…

hai cánh bèo trôi bớt lẻ

sông dài cũng đỡ tràng giang

ta ép chung từng tiếng lệ

chia nhau nửa giấc kê vàng

Liên tiếp ba ngày sau khi Ngọc ra đi, một cơn bão rớt trút mưa xối xả xuống thành phố Vĩnh Long. Hệ thống cống rảnh không còn khả năng thoát nước, đường phố chìm dưới  nửa thước nước. Riêng con đường mòn từ lộ cái dẫn tới chùa Bà Đội, nước ngập tới lưng quần! Xe cộ vô phương lưu thông, ba Tân đã phải kề lưng cõng Tân lội nước trên 3 cây số, từ nhà đến chùa dưới cơn mưa tầm tã…Tân khóc nức nở thương xót cha già khổ lụy vì con! Nhờ cơn bão rớt, đường phố vắng hoe, cha con Tân an toàn di chuyển trên lộ trình gian khổ đưa Tân đi mai danh ẩn tích trị bịnh…

Một tuần cật lực điều trị, lớp uống quinine, lớp tiêm quinimax, Tân hồi lực thấy rõ. Sớm chiều nghe kinh, tâm hồn nhẹ lâng theo tiếng đại hồng chung thanh thoát, tiếng chuông mõ hoà quyện với tiếng ê a tụng niệm, Tân dần dà tìm lại được an bình nội tâm.

********

Bước ra sau chùa, tìm bóng mát dưới tàng cây đa, Tân lần mở quyển sổ tay của Ngọc ..mở đầu với 4 câu thơ khiến Tân đau nhói trong tim:

Mây sớm nay về u ám quá

Đường sầu ướt át phố mờ sương

Ta xé lòng nhau làm mấy mảnh

Anh một phương và tôi một phương

Tân thương mến,

Không nỡ rời Tân đang đau yếu, nhưng Ngọc không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc ra đi, dù thâm tâm vẫn muốn luôn kề cận Tân để bảo vệ.  

Không như lúc chúng ta sớm tối có nhau ở C5, nấn ná, bịn rịn với Tân lúc nầy Ngọc sẽ gây nguy hiểm chẳng những cho Tân mà còn cho cả gia đình Tân. Ngoài ra, Ngọc còn món nợ to lớn phải thanh toán với Tư Rọm. Anh Bảy yêu cầu Ngọc giao cho anh ấy giải quyết, nhưng Ngọc không đồng ý. Ngọc phải đích thân ‘tính sổ’ với hắn

Chỉ một thời gian quá ngắn sinh hoạt với gia đình Tân, Ngọc nhận ra ba má Tân thương con hết lòng, hết sức, nhứt là ba Tân. Suốt thời gian Tân vắng nhà, ông bỏ bê công việc, suốt ngày thất thần buồn bã, lắc đầu thở dài, không màn tới chuyện uống rượu vốn đã thành thói quen của ông sau giờ trại mộc đóng cửa. Má Tân kể ba Tân vốn vô thần, chẳng những không tin tưởng gì hết mà còn châm biếm bà mê tín dị đoan, thờ ‘Chà Và’ (Phật), ‘Chệt’ (Quan Công, Cửu Thiên Huyền Nữ) v.vThế mà khi Tân bỏ nhà ra đi, bà thuyết phục được ông vô chùa lạy Phật và thắp nhang chắp tay xá trang thờ Bà Cửu Thiên cầu xin phù hộ cho Tân an lành trở về!

Ngọc đoán Tân rất nôn nóng muốn biết rõ việc gì đã xảy ra giữa Ngọc và tên huyện ủy ác ôn của C5. Hôm nay Ngọc sẽ kể đầy đủ tình tiết

Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu (ba mẹ Ngọc đều dạy học), mẹ qua đời khi Ngọc vừa bước vào tuổi 16. Ba ở vậy nuôi con mà Ngọc là đứa con đầu đàn. Ông đốc học của ba muốn Ngọc về làm dâu ông. Mà Ngọc đã trót yêu Bảo, đang học Luật. Cũng như Tân, chịu ảnh hưởng những chuyện viết về kháng chiến chống Pháp, Bảo ‘thoát ly’Rồi thuyết phục Ngọc bỏ nhà, tránh bị cưỡng ép kết hôn.

Khởi đầu hai đứa hoạt động với anh Bảy. Sau đó được điều tới tăng cường cho C5. Ngay buổi tiếp xúc đầu, Bảo đã nghi ngờ tư cách ‘khó khá’ của Tư Rọm. Hình dong, dáng dấp của hắn gần như thường xuyên toát ra tính chất mờ ámRiêng Ngọc thì bắt gặp ánh mắt thèm thuồng như muốn lột trần Ngọc ra và cái nhìn quá ác cảm chỉa về phía Bảo của hắn!

Vài lần hắn giao công tác cho hai đứa, Bảo không còn nghi ngờ gì về tính gian manh của tên dâm tặc tàn nhẫn nầy. Bảo nhứt quyết phải vạch trần bộ mặt thật của hắn để vĩnh viễn khai trừ hắn ra khỏi hàng ngũ kháng chiến quân.

Cơ hội diệt trừ hắn đến, khi hắn sai Bảo đi ám sát con yêu râu xanh người Cọt (Corse) – Xếp sòng công an liên bang (sûreté fédérale) Pháp, trách nhiệm truy lùng khu C5- chuyên hãm hiếp phụ nữ địa phương chẳng may bị hắn nghi ngờ hoạt động chống Tây bắt giam. Tư Rọm không đồng ý Ngọc theo trợ lực, nhưng Ngọc vẫn bí mật tới yểm trợ Bảo Hai đứa tin chắc tài liệu về hành tung bí hiểm của hắn nằm trong tay của tên Corse dâm đãng. Phen nầy hắn vô phương chạy tội. Nhưngai ngờ hắn cao tay ấn hơn, mật báo cho tên trùm lính kín. Nhằm tuyệt đối bảo mật -đề phòng nội tuyến- tên nầy đơn độc phục kích sát hại Bảo với khẩu Mauser mà Ngọc đã cho Tân xem quaHắn không ngờ Ngọc có mặt, có lẽ Tư Rọm đã cam kết với hắn rằng Bảo sẽ đi một mình. Ngọc bắn hạ, tướt đoạt khẩu Mauser trên tay hắn, lục túi áo hắn lấy mảnh giấy -chứng cớ ràng ràng về sự hãm hại độc địa anh em kháng chiến của tên huyện ủy gian xảo- đau lòng bỏ xác Bảo cạnh xác tên quỷ sứ, gấp rút vượt thoát đám lính Tây đang ùa tới truy nã

Ngọc ẩn mình trong rừng suốt đêm, khóc thương Bảo hết nước mắt, tim quặn thắt đau đến mức sắp quị ngả nhưng cố lấy lại bình tĩnh, thản nhiên đến báo cáo Bảo đã anh dũng hy sinh sau khi hoàn thành nhiệm vụ ám sát tên Corse-trùm-lính-kín.

Cho nên Tân yên tâm: Tư Rọm không biết Ngọc đã rõ hết hành vi tàn độc của hắn mượn tay kẻ thù giết chết Bảo. Trái lại hắn yên chí sớm muộn gì Ngọc cũng sẽ rơi vào vòng tay thô bạo của hắn vì không còn ‘chướng ngại’ Bảo ngăn trở. Cho tới khi Ngọc nhờ Tân đóng kịch nhân tìnhMột công hai việc: Chúng ta bảo vệ lẫn nhau và qua cách hắn âm mưu hãm hại Tân, Ngọc thu thập thêm bằng chứng về dã tâm sát hại đồng đội để rảnh tay cưỡng chiếm vợ con họ…

Tân ngước nhìn lên không trung, thầm cầu xin Trời Cao phù hộ cho Ngọc, giờ đây đang liều lĩnh trở về hang hùm C5, rình chờ cơ hội hạ thủ độc-xà-huyện-ủy Đỗ Xảo!

Sau cái chết tức tối của Bảo, Ngọc xin anh Bảy đổi bí danh thành ‘Bảo-Ngọc’, để vừa tưởng nhớ Bảo vừa nhắc nhở Tư Rọm ‘giao liên’ Ngọc hiện thuộc diện goá phụ tử sĩ hy sinh vì cách mạng, bất khả xâm phạm…tiết hạnh! Vậy mà hắn cứ lăm le giở trò bỉ ổi…

Tân yên tâm dưỡng bịnh để trở lại học đường. Ngọc chắc chắn Tân sẽ thành công mỹ mãn trên đường học vấn và tin tưởng mãnh liệt sau nầy Tân sẽ nhiệt thành đóng góp sức mình cho đất nước hữu hiệu hơn.

Phần Ngọc, Tân chớ lo: Ngọc đủ sức đối phó với Tư Rọm. Ngọc được biết ít nhứt có 3 người đang ra sức truy tầm hắn, đòi hắn trả nợ máu: Cô em vợ hắn, cậu em trai ông trung úy Pháp bị hắn đâm chết và ông anh bà trung úy bị hắn hiếp dâm rồi siết cổ chết. Chưa kể thân bằng quyến thuộc của ông hội đồng mà hắn đã tàn sát hết cả nhà

Ngọc hy vọng thành công xử tội hắn với khẩu Mauser đã hạ sát Ngọc, cho thân nhân các nạn nhân của hắn khỏi nhọc công ra tay

Tân sẽ được thông báo đầy đủ chi tiết về số phận của Tư Rọm một ngày gần đây. Hắn và đám em út tay sai của hắn không dám chạm tới Tân vì anh Bảy đã bố trí nghiêm nhặt chờ ‘đón tiếp’ rất kỹ bọn hắn.

Tân đừng liên lạc với anh Bảy để tìm cách gặp Ngọc. Cứ coi như Ngọc đã biến mất trong trí nhớ của Tân. Hãy trở lại nếp sống thư sinh, chuẩn bị hành trang vào đời hữu ích hơn, phong phú hơn, nhân ái hơn

Giao Thừa Tân Mẹo-Nhâm Thìn 1952

Vĩnh biệt Tân,

Bảo-Ngọc

Tân thẫn thờ dạo quanh sân chùa, thì thầm:

Cứ cúi đầu cứ thế rồi ra đi

Trờ sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết

Và dấu giầy mai sẽ lá sương che

Bất giác Tân ngậm ngùi nhớ đến Tha La xóm đạo:

Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!

Bao người đi thề không trở lại nhà

Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!…

*********

Lại thêm một mùa xuân lữ thứ! Tân thầm nghĩ. Mùa xuân tha hương thứ 30. Tân chợt nhận ra hầu hết các chuyển biến quan trọng đều đến với Tân vào mùa xuân.

Nhìn lại những mùa xuân đã đi qua đời mình chỉ còn mùa xuân năm ấy -mùa xuân ra đi với duyên số gặp gỡ “người tình bất đắc dĩ”, mùa xuân quay về với duyên phận vĩnh viễn lìa xa “người ân xưa”- vẫn chưa phai mờ trong tâm trí Tân ở ngưỡng cửa mùa xuân mới, mùa xuân thứ 57 từ độ Ngọc tuyệt tích giang hồ…

Chỉ một lần duy nhứt Tân nhận một lá thư Ngọc cho người mang tới trao tận tay, sau khi Ngọc rời Tân được một năm:

“Tân thương mến,

Như đã hứa, Ngọc xin vắn tắt báo tin cho Tân rõ: Ngọc đã thành công tự tay nã đạn vào ngay tam tinh của Tư Rọm với khẩu Mauser đã sát hại Bảo. Hắn đã trúng mỹ nhân kế, theo Ngọc vào khu rừng chồi, tưởng rằng sẽ được ân ái với Ngọc. Năm anh em bên anh Bảy gởi qua phục kích chận bắt trói gô rồi buộc hắn quì nghe đọc cáo trạng về tội ác tày trời của hắn. Sau khi trưng các bằng cớ về sự phản trắc của hắn, bán rẻ sinh mạng anh em cho thực dân Pháp để cưỡng hiếp người phối ngẫu của họ, Ngọc thi hành bản án tử hình dành cho tên cuồng dâm, phản dân hại nước Đỗ Xảo, bí danh Tư Rọm!

Tuy nhiên, để tránh hoang mang trong hàng ngũ kháng chiến, tên tử tội cực kỳ lưu manh nầy được ‘tuyên dương’ tử trận vì…phục vụ cách mạng! Và được chôn cất tử tế. Ngọc phản đối, nhưng không kết quả

Ngọc đã làm xong hoàn mỹ hai việc mà Ngọc hết sức tha thiết:

-Đưa Tân trở lại học đường cho khỏi uổng phí một bàn tay, một con tim, một khối óc hữu dụng cho đất nước sau nầy hơn là để nguồn năng lực tiềm ẩn nầy bị nhóm người thiếu tư cách như Tư Rọm hoang phí.

-Rửa hận cho Bảo đã chết tức tửi vì một tên vô loại dùng xương máu anh em lập thành tích, mưu đồ tạo cho mình một ‘sự nghiệp cách mạng’!

Thôi thì từ nay trở đi, xin Tân hãy coi như Ngọc đã vĩnh viễn tan loãng trong sương khói rừng rậm…”

Cũng chỉ một lần duy nhất Tân dò la tông tích Ngọc, 10 năm sau khi đọc lá thư trên, trong một lần hành quân qua thôn xưa: khu rừng chồi ven sông hầu như vẫn không thay đổi. Tân tưởng chừng như Ngọc vẫn còn quanh quẩn đâu dây, kéo Tân xuống xuồng dùng thân mình đỡ đạn cho Tân. Hỡi ôi!…

về đây ta lại về đây

về đây mây trắng trôi hoài ngàn năm

về đây hoàng hạc mất tăm

về đây lặng đứng âm thầm chốn xưa

-o-o-o-

Cao tay nâng ly rượu đỏ chào mừng mùa xuân năm ấy, Tân nhắn gửi người năm xưa chẳng bao giờ còn trông thấy nhau lần nữa:

Kỷ niệm cũ vẫn còn nguyên vẹn đó

Trời tháng giêng, tháng bảy buồn như nhau

Gió vẫn thơm mùi hoa bưởi hoa ngâu

Rồi Tết đến, rồi lòng anh nhớ quá

Thôn trang Rêu-Phong, Xứ tuyết, Xuân Canh Dần 2010

-Lê Tấn Lộc


Ghi chú:

*Thơ trong bài nầy mượn của các nhà thơ Vũ Anh Khanh, Vĩnh Lộc, Kiệt Tấn, Nguyễn Đình Toàn…

**Người viết sửa đổi tên một số nhân vật, nhằm tránh gây phiền toái cho họ -nếu còn sống- và gia đình họ -nếu còn ở Việt Nam. -LTL-

Trở về đầu trang GS Lê Tấn Lộc

Trở về trang Thầy Cô

HOME

================================================

Sổ tay hành trình(II)
Dọc đường góp nhặt
nằm mơ một chớp dài muôn thuở,
ngoảnh lại nghìn xuân một thoáng thôi
!
Rất xa xưa, gần nửa thế kỷ về trước, tiễn tôi lên đường du học, ba tôi nhắn nhủ: «Mười mấy năm dồi mài kinh sử, mài miệt vùi đầu trong các thư viện con có thể ngấu nghiến đọc hàng vạn vạn trang sách. Nhưng với mớ kiến thức đáng kể thụ đắc đó, con vẫn chưa thể tự hào đã đọc được nửa trang trong quyển sách vô cùng to lớn của thế giới mông lung ngoài đời…». Thuở đó, tôi chưa hiểu thấu thông điệp ba tôi muốn truyền đạt, bởi vì còn bị choáng ngợp bởi chuyến ra đi đầy mộng ước vẻ vang đang đợi chờ «ta» nơi Kinh Đô Ánh Sáng. Và lý thú nghĩ rằng «ta» sẽ theo chân triết gia Descartes «ngao du trong quyển sách vĩ đại của địa cầu-voyager dans le grand livre du monde»!
Phải gần năm mươi năm sau ngày xa quê hương lần đầu, tôi mới sực tỉnh nhận ra mình đã lầm đường vì…lo sợ lạc đường! Lo sợ lầm đường đến độ không hề dám sấn bước chệch ra ngoài những lối đi an toàn có người qua kẻ lại tấp nập (sentiers battus), cứ mê say phóng lướt trên xa lộ thênh thang của công danh sự nghiệp -những tưởng sẽ được bảo đảm bền vững suốt đời- ngờ đâu lại lạc lối vào ngõ cụt, với vực thẳm không đáy trước mặt: Thảm họa ba mươi tháng tư một chín bảy lăm bất chợt phủ chụp xuống đất nước như một tai nạn lưu thông kinh hồn, vô tiền khoáng hậu, gây thương vong hàng loạt cho hằng muôn vạn sanh linh (hécatombe), đột biến như cơn nước lũ vỡ đê cuống phăng đi một mảng mặt lộ khổng lồ trên đại lộ kinh hoàng, chia cắt đôi bờsông côn mùa lũ ; bên nầy bờ, nhục nhằn đày đọa; bên kia bờ, an lạc, tự do…Đôi bờ càng lúc càng dang xa, càng lúc càng nghìn trùng xa cách như bên nầy và bên kia đại dương mông mênh, trùng trùng điệp điệp phong ba bão táp! Một đại-dương-chứng-nhân biết bao thảm kịch vượt ngoài trí tưởng tượng của loài người, một đại dương như bể khổ trầm luân, đã đánh đắm hơn nửa triệu nhân mạng vượt trùng dương mưu tìm đất sống…

Sống sót sau cơn hồng thủy khiếp đảm đó, may mắn trôi dạt vào bến bờ nhận đón các dũng-sĩ-vượt-thoát-cùm-gông, cái «ta» kết sù trước kia giờ đây biến dạng thành người ngồi hong nắng lặng thinh, hong kinh vô tự hong tình vô ngôn trên dốc đá nhìn xuống biển cả, mồ chôn biết bao tài hoa son trẻ hơn kẻ bất tài vô tướng như hắn; để rồi hắn xót xa nghiệm ra quả thật mình nhỏ bé thôi… nhỏ bé thôi! Bài học đầu tay về khiêm nhường khởi đầu cho ý chí khiêm hạ, «đọc được» từ nửa trang -nửa trang thôi- trong quyển sách đời! «Nhỏ-bé- thôi» nhận chân rằng mình không được đặc ân sinh nhi tri chi-sinh ra đã biết; đã qua giai đoạn học nhi tri chi-nhờ học mà biết; bây giờ đang trải qua thời kỳ khốn nhi tri chi-do khốn đốn mà biết. Lời cha già thân yêu nhắn nhủ năm xưa lại vang dội bên tai «nhỏ-bé-thôi»…

Cơn gió thốc từ nhánh sông Saint-Laurent hiền hòa lờ đờ trôi ngang hậu liêu tu viện Dòng Tên Villa Saint-Martin (nơi anh chị em Dòng Phan Sinh Tại Thế vùng Mộng-Lệ-An đang Tĩnh Tâm) lay động hàng phi lau ven sông: Từng đàn bướm trắng bung lên, chới với vẫy cánh bay lượn la đà mặt sông, làm liên tưởng tới những cánh bườm của những chiếc xuồng ba lá tí teo, mong manh như lá liễu trên đại dương bao la sóng gào gió thét, ngày nào đã đưa từng đoàn người không đành lòng rời bỏ quê cha đất tổ vượt biển đi tìm đất hứa…Phải chăng các cánh bướm kia là những oan hồn vất vưởng của bạn bè thân thương vạn lần ưu tú hơn tôi đã phơi thây trên chiến trận, chôn xác trong rừng sâu nước độc của những trại giam nghiệt ngã, tàn khốc hay vùi thân dưới đáy biển ngàn đời tăm tối, gíá băng? Lạy Chúa! Xin rũ lòng thương xót cho những linh hồn cô đơn nầy được an bình ngơi nghỉ. Requiescat in pace!
Hỡi ôi! Hí trường hay dở ba canh vãn, Thế sự thăng trầm một kiếp thôi. Chẳng còn được như ngày xưa viếng thăm phần mộ những người đã khuất, cúi đầu lặng yên suy gẫm thế sự thì… Hỡi những anh em đã nằm xuống không một nắm mồ-morts sans sépultures! xin hãy cho tôi được một lần nhớ nhau vẫy bút làm mưa gió, cho nắm xương tàn được nở hương!

Hết rồi những xa lộ thênh thang nhưng dẫn về ngõ cụt. Nhỏ-bé-thôi giờ đây nằm lòng trích đoạn Phúc Âm nầy, lúc Chúa Giê-su trên đường lên Giê-ru-sa-lem đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy :
Có kẻ hỏi Người :«Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải
không?». Người bảo họ:«Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào,
vì tôi nói cho anh em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể
vào được» (Lc 13, 23-24).
Từ nay trở đi nhỏ-bé- thôi xin dấn bước trên những lối mòn không quen thuộc để học hỏi thêm, khám phá thêm những kho tàng tiềm ẩn nơi những anh chị em hèn mọn đang ở đây và bây giờ-hic et nunc với cái «ta» đang dần dà lột xác: Những ACE không học-cao-hiểu-rộng-lớn-lối-khoa-trương-khua-môi-múa-mỏ-cường-điệu-ngoan-cố; trái lại rất đơn sơ, hồn nhiên, rất kín đáo nhưng rất nhiệt thành, luôn luôn sẵn ứng giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau, khiêm tốn sống Phúc Âm, âm thầm an nhi thiện cư, lạc nhi thiện sự -an với chỗ mình đang ở,vui với việc mình đang làm- không bon chen, xô lấn, không loại trừ bất cứ ai, thể hiện trọn vẹn Tình Huynh Đệ Phổ Quát, tôn chỉ của Dòng Phan-xi-cô…
Tiếp cận dài lâu với những ACE «ít học» nầy, nhỏ-bé-thôi càng lúc càng thấy mình nhỏ bé thêm, càng lúc càng thấy lời cha già nhắn nhủ mình năm xưa được kiểm chứng: Hắn cần học hỏi thêm nơi các bậc «sư phụ» nầy mới có thể tiếp tục «đọc» nửa trang còn lại và những trang kế tiếp trong quyển sách đời, ngõ hầu phát huy hai vết khắc «Yêu Thương và Tha Thứ» mà vị linh đạo tĩnh tâm, Cha Trợ-úy-giảng-phòng Aimé Đỗ văn Thông đã hằn sâu trong tâm khảm hắn, xóa dần vết thù hằn trên lưng ngựa hoang của hắn từ lâu chưa được hóa giải…Lời khuyên nhủ của một ACE ít-học-nhỏ-bé-xinh-xinh, «sư-phụ-đơn-sơ» của hắn, bên bờ sông tĩnh mịch đầy cánh bướm nhấp nhô vang động trong tâm thức hắn:
một cũng chấp, hai cũng chấp, chất chứa trong lòng chi cho khổ?
trăm điều bỏ, ngàn điều bỏ, thong dong tất dạ vậy mà vui !

Dĩ nhiên chấp là tự làm khổ, nhưng phá chấp không phải bất cứ ai cũng dễ dàng làm được. Vẫn biết bỏ qua để tha thứ là trước tiên chữa lành cho mình, ơn ích của thứ tha, chính mình là người thụ hưởng đầu tiên. Nhưng, nếu Rome không thể xây cất xong trong một ngày thì thứ tha trọn vẹn, đích thực không thể một sớm một chiều mà đạt được. Tha thứ, một hành trình dài lâu đầy gian khổ, trục trặc: Nguy cơ tái phạm lầm lỗi không-bỏ-được-niềm-uất-hận-nung-chí-trả-thù thường xuyên chực chờ trong tiềm thức ẩn chứa hoài niệm thương động ta-đã-bị-xúc-phạm-nặng-nề…Nhỏ-bé-thôi làm sao quên được những bàn tay tinh xảo của y sĩ chuyên giải phẫu tim, óc bị «những đỉnh cao trí tuệ của loài người» buộc phải dùng tay trần cào xới đất cày lên sỏi đá để «canh tác»! Nhưng…một ACE «sư-phụ-ít-học-đàn-anh-tinh-thần» lại ân cần vỗ về cái «ta» của nhỏ-bé-thôi đang muốn vùng lên: «Uất ức nầy sớm muộn cũng sẽ đưa đến ý định trả thù, ăn miếng trả miếng. Cứ thế mà tiếp diễn, anh-cải-tạo-tôi-cải-tạo-anh…Biết bao giờ mới ra khỏi cái vòng lẩn quẩn hận thù chồng chất? Cả nước sẽ mãi mãi là một chuỗi trại giam…cho tới ngày tận thế chăng? Nầy người anh em! Sự lai nhi tâm thỉ khởi. Sự khứ nhi tâm tùy không-Tới thì biết tới. Qua thì cho qua». Thêm một nửa trang sách thứ hai của quyển sách đời được mạc khải cho nhỏ-bé-thôi:
Sự việc tới tâm vui đón nhận,
Việc qua rồi tâm cũng theo qua…

Nhìn lại chặng đường đã qua, cái ta từ từ tan biến theo sự bừng tỉnh của cái tôi càng lúc càng ý thức mình vô cùng nhỏ bé…Ếch nằm đáy giếng thấy bao lăm trời: «Không thể nói về biển với ếch giếng, nó chỉ biết cái hang của nó mà thôi. Không thể nói về tuyết với ve sầu, nó chỉ biết có một mùa hạ mà thôi. Không thể nói về đạo với kẻ hẹp hòi, họ chỉ biết giáo điều của họ mà thôi». Tự nhiên tôi thấy người nhẹ nhỏm. Lợi ích gì chấp nhứt «đỉnh-cao-trí-tuệ-giáo-điều»? Họ nào biết họ đang làm gì đâu! Chúa Giê-su đã chẳng xin Cha Ngài tha tội cho những kẻ không thấu rõ ý nghĩa hành vi của họ sao? Cùng lúc, tôi đón nhận lời truyền đạt của một «sư-phụ-anh-em» khác để rèn luyện đức khiêm tốn, hiền hòa với ACE: Tâm đừng hẹp hòi.
Khí đừng hung hăng.
Tài đừng bộc lộ.

Hầu hết ACE tôi đều lặng lẽ, âm thầm phục vụ nhau. Hình như họ thấm nhuần tư tưởng phương Đông: * Ngôn giả bất tri. Tri giả bất ngôn -Biết thì không nói. Nói thì không biết. Ai dám bảo họ không «có đầu óc». Họ mới đích thực là trí thức, trái với đám vỗ ngực tự xưng là trí thức nhưng thực chất là trí…ngủ! Cung cách tiếp xúc với anh em trong những ngày tĩnh tâm nói riêng, thuật xử thế khiêm nhu của họ trong mọi hoàn cảnh nói chung, cho thấy tôi còn rất nhiều điều cần phải lãnh hội, thấm nhuần. Sự thanh thản bình tâm của họ khiến tôi nhận ra *Tự do là ung dung trong ràng buộc. Hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau. Và quả thật họ chỉ cho tôi thấy, khi nhớ lại chuỗi ngày thê lương sống trong sự khốn cùng của một thế giới vô thần, rằng Có mất tự do mới biết tự do là cao quí. Có ly thoát mới biết sự ràng buộc là khổ đau

Chia sẻ huấn đức tạo thêm cơ hội thuận tiện cho những trao đổi tâm tư tình cảm giữa ACE bên bờ sông im vắng. Các xung đột ngấm ngầm còn tồn đọng lần lượt được kín đáo tìm cách giải tỏa. Bài học cụ thể đến từ quyển sách đời là gương sáng nhẫn nhịn của «sư-phụ-đơn-sơ», nạn nhân bị «bạo hành miệng-violence verbale». Nhỏ-bé-thôi chất vấn sao người có thể chịu nổi một xúc phạm nặng nề, hết sức bất công và phi lý như vậy, «sư phụ» ôn tồn tâm giải: «Nhẫn một chút, gió yên sóng lặng. Lùi một bước, biển rộng trời cao»!
Đêm thức canh, mọi nguồn ánh sáng đều được giảm thiểu tối đa. Không khí trang nghiêm mờ ảo bao trùm các khấn sinh đang chập chờn trầm mặc trong bóng tối huyền nhiệm. Một ngấn lệ chảy dài trên má một khấn sinh, lấp lánh dưới ánh nến lung linh. Không rõ khói hương trầm làm cay mắt tôi hay chính tôi cũng đang ứa lệ? Còn khóc được là còn hạnh phúc.Tôi lại nhớ chuỗi ngày nhục nhằn, tan tác trong các trại tập trung. Nhớ như để chấp nhận «chịu tang-porter son deuil» cho thời gian bị trả thù đó, để rồi quên đi, quên ngay cả niềm uất hận chờ ngày phục thù! Thông điệp lồng trong đề tài tĩnh tâm Yêu Thương và Tha Thứ đã bắt đầu tác dụng trên nhỏ-bé-thôi…

Sau thánh lễ long trọng cho các khấn sinh tuyên khấn, nỗi vui mừng lan rộng, bao trùm tất cả ACE. Những vòng tay ôm siết trong tiếng chúc mừng qua nụ cười ướt lệ…ôi sao mà chân thành, nồng nhiệt quá sức! Như toàn thể đại gia đình mở rộng vòng tay nhất tề đón nhận những đứa con hối cải quay về tổ ấm. Mầu nhiệm thay, nhỏ-bé-thôi, kẻ một thời «khuấy nước chọc trời» giờ đây cùng với nhóm khấn sinh thân thương chính thức nhập gia Huynh Đệ Đoàn Phan Sinh Tại Thế. Nhưng niềm vui chưa được toàn vẹn vì một vài ACE trong nhóm chưa đứng trong hàng ngũ khấn sinh lần nầy. Nhỏ-bé-thôi đã để yên cho một nhỏ-bé-thôi khác không cùng khấn lần khó quên nầy gục khóc ướt cả vai áo mình! Còn khóc được là còn…hy vọng. Một lần nữa khói hương trầm lại làm cay mắt tôi…

Một tuần sau ngày kết thúc tĩnh tâm, nhỏ-bé-thôi đứng trong đội ngũ Dòng PSTT tham dự rước kiệu Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, gây ngạc nhiên thích thú cho nhiều thân hữu và cho…cả chính hắn! Lần đầu tiên hắn đi kiệu, mà còn đi hàng đầu, cầm cờ nữa chứ! Quả thật, «đường lối của Chúa khôn dò khôn thấu-les voies du Seigneur sont impénétrables»!
Trên đường về, trao đổi cảm nghĩ về lần tĩnh tâm vừa qua với «sư-phụ-đơn-sơ», hắn lại được dịp «dọc đường góp nhặt» từ quyển sách đời để tìm hiểu thêm động lực đã thúc đẩy hắn thay đổi toàn bộ lối sống và suy nghĩ : Phù du trong những phù du, phù du tất cả chỉ là phù du-Vanitas vanitatum, et omnia vanitas!. Đúng thế, bởi vì chính ta : Rồi đây ta cũng bỏ ta. Có, không, không, có cũng là phù du…
Vậy thì cố chấp làm chi cho khổ thân, cứ sống thanh thản, chết bình yên. Vẫn biết trần gian là cõi mộng nhưng một khi đã đến cõi trần và có duyên gặp nhau thì hãy sống hết lòng với nhau. Bởi lẽ,Trời xui định mệnh quen nhau Mà không cho biết bao lâu kiếp nầy.Thôi thì quên những tàn phai Để ta sống trọn tháng ngày có nhau

Vâng, anh chị em của tôi ơi! Hãy cùng tôi sống như người về qua cửa phù vân, nghiêng vai trút gánh phong trần đổ đi cho tâm được thanh thoát…

Thôn trang Rêu-Phong, cuối hè 2007
-Lê Tấn Lộc –


Ghi chú : (*) Trích đoạn thơ văn trong bài viết nầy mượn của Chúc Mai, Hư Trúc, Khổng Tử , Lão Tử, Thanh Sơn, Trang Tử, Trần Huyền Trân, Viên Minh, X. v.v…và của chính tác giả.

=============================================================

HỌA PHÚC KHÓ LƯỜNG…

=============================================================

Vài suy nghĩ vụn vặt

Từ hành hương tới tĩnh tâm

….một thách thức mạnh mẽ đòi chúng ta phải bớt phán xét đi, hãy để lúa và cỏ lùng tự phân loại theo thời gian, để ánh sáng phán quyết bóng tối, để sự thật phán xét sai lầm, và như giáo hoàng Phanxicô, chúng ta hãy bớt vội vàng phán xét nhân danh Thiên Chúa, và hãy biết nói rằng:
“Tôi là ai mà phán xét?”

Những giòng chữ trên đây của Rev. Ron Rolheiser, OMI đã đánh động tâm hồn tôi, thường xuyên ngự trị trong đầu óc tôi suốt chuyến bay ngày 5 tháng 8/2015 từ Paris đưa tôi về lại Montréal, sau chuyến hành hương Lourdes, ngày 1 và 2 tháng 7/2015.

tl

Và bám riết tâm trí tôi sau 3 ngày tĩnh tâm, 21, 22 và 23 tháng 8 năm 2015, do Huynh Đệ Đoàn ISAVE (dòng Phan Sinh Tại Thế, Montréal) tổ chức trong khuông viên tu viện Dòng Tên (Villa Maria).

tl2

Coi như đoạn văn kể trên đã gây hứng khởi cho tôi kể chuyện hành hương và lần tĩnh tâm vừa qua…

tl3

*Hành hương Lourdes

Trước khi rời Montréal đi dự Hội Ngộ Paris 2015, tôi đã nhận dược bí tích hòa giải, cho nội tâm được an bình trước sự xuyên tạc trắng trợn nhằm lăng nhục nặng nề, ngoài sức tưởng tượng, tuôn xối xả không ngưng nghỉ vào tôi ròng rã 6 tháng dài, từ một nhóm nhỏ nhoi đồng môn Viện Đại Học Đà Lạt (các khóa đàn em, thường dùng danh xưng “Thụ Nhân”) lộng ngôn, lộng hành, vì lòng ganh tức nhỏ nhen, tị hiềm vô ý thức, vô trách nhiệm. Trong số nầy có 2 Kitô hữu: một nguyên là cựu nam chủng sinh được Dòng Chúa Cứu Thế rèn luyện hơn chục năm -nhưng “nhảy rào” ngang xương- một là nữ tín đồ được mô tả như “cực kỳ ngoan đạo”!

Tưởng thế đã được yên lòng xúc tiến việc Hội Ngộ. Nhưng nhóm “Thù Nhân”nầy lại tiếp tục giở trò vu khống, mạ lị, kinh khủng đến độ dùng photolap biến thể chân dung tôi và các anh chị em cộng tác với tôi để nhục mạ thậm tệ chúng tôi.
Trước tình cảnh bị “khủng bố”, bị “sách nhiễu” liên tục, bị bôi nhọ hết sức hạ cấp như vậy, các cộng sự viên của tôi nhất định phải làm cho ra lẽ với nhóm “lệch lạc tâm tính” nầy.

Tôi phải hành sử sao đây? Dĩ nhiên, tôi không thể nào quên “nhỏ bé thôi” tôi là một PSTT đã nhập tâm Kinh Hòa Bình của Thánh Phụ Phanxicô nghèo khó: đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…

Vẫn biết -như anh Mai Xuân Lâm, cựu Trưởng Phục Vụ đã qua đời thường nhắn nhủ ACE- “một câu nhịn chín câu lành” để bảo tồn bầu khí hòa thuận, “hòa bình” trong tình tứ hải giai huynh đệ, nhưng…còn một điều cũng chẳng kém phần quan trọng chút nào cả: đem chân lý vào chốn lỗi lầm!

Sự giằng co giữa hai vế trong Kinh Hòa Bình (an hòa và chân lý) khiến tôi hết sức khổ tâm. Và biết bao lần tôi đã bùi ngùi tâm sự cùng Đấng Tối Cao: “Chúa ơi! Lòng con đau đớn vô cùng, quặn đau như trăm ngàn mũi kim đâm thẳng vào tim!”.

Bỗng nhiên tôi sực nhớ một đoạn trong Phúc Âm kể lúc Chúa chịu nạn trên thập giá: Xin Cha tha tội cho chúng vì chúng không biết chuyện chúng làm…
Sự giằng co nội tâm dai dẳng dần dà lắng động, tan biến… Tôi nhận ra và tin rằng còn một công lý trên tất cả công lý của thế gian -Công lý của Đấng Toàn Năng: Vâng … Hãy để lúa và cỏ lùng tự phân loại theo thời gian, để ánh sáng phán quyết bóng tối, để sự thật phán xét sai lầm…!

Tôi lại nhớ Lời Chúa: đường lối của các ngươi không là đường lối của Ta. Quả thật, “Đường lối Chúa khôn dò khôn thấu”! Tôi đang được Đấng Tình Yêu gửi tới một thử thách…Thử thách sự thông suốt hay không thông suốt linh đạo Phan Sinh mà nhỏ-bé-thôi tôi đã tập tành tu đức ròng rã 10 năm qua. Đức Ái vẫn mãi mãi là đức cao trọng nhất của người Kitô hữu!

Tôi ra sức thuyết phục anh chị em cộng tác với tôi kiên nhẫn bình tĩnh, không phản ứng. Chẳng phải dễ dàng đâu, nhưng tôi vẫn kiên tâm thuyết phục…Hy vọng “đem thứ tha vào nơi lăng nhục” sau cùng sẽ thắng thế trên lòng tự ái vì danh dự bị xúc phạm trầm trọng.

Nghĩ lại, vì tình bạn mà tôi đã trở lại “giòng đời”, tạm thời ngưng sinh hoạt với “dòng tu”, vô hình trung được cơ hội kiên định rằng:

-“Bộ áo không làm nhà tu” (L’habit ne fait pas le moine). Sừng sõ nhất trong nhóm người lăng nhục anh chị em đồng môn của mình là nam cựu chủng sinh, hơn chục năm chịu sự huấn đức của Dòng Chúa Cứu Thế và nữ tín đồ được “mô tả” như cực kỳ ngoan đạo kể trên.

Từng tuổi nầy rồi, tưởng mình đã được miễn nhiễm chuyện hấp tấp để cái hào nhoáng bề ngoài ảnh hưởng đến việc đặt lòng tin cậy. Thấy “ngài” cựu chủng sinh” vi vút nổ lốp bốp tiếng la tinh, nbt tôi nghĩ rằng “ngài”nầy -dầu hèn cũng thể- đáng nể phục lắm!
Nhìn video “đấng” nữ tín đồ “cực kỳ ngoan đạo” ngồi trước dương cầm đánh đàn trông có vẻ “thanh thoát” lắm. Ấy thế mà… Nào ngờ nbt tôi vẫn “bé cái nhầm”, dù cổ nhân thường khuyên nên đề cao cảnh giác đối với hạng Pharisêu hay Tartuff “siêu” kịch sĩ nầy : “Bộ gió học trò, (nhưng coi chừng) bộ giò ăn cướp (đấy)” !
Vẫn hay Bề ngoài thường gây nhầm lẫn (Les apparences sont souvent trompeuses).

-“Bằng cấp không làm nên con người” (Les diplômes ne font pas l’homme): Chao ôi! “Ngài” cựu chủng sinh “tốt nghiệp ngang xương” (sortie latérale) “nhảy rào” như kiểu “tu xuất” kia và “đấng” nữ tín đồ nọ đều là những người “có ăn học”; và đều hành nghề cao quí gõ đầu trẻ. Nghe đâu cũng là những “bậc” thông thuộc Thánh Kinh!

Nhỏ-bé-thôi tôi lại chạnh nhớ tới lời nhắc nhở của Cha Trợ Úy Dòng Aimé Đỗ Văn Thông: mọi dòng viên PSTT -nói riêng- mọi Kitô hữu -nói chung- đều có trách nhiệm truyền giáo. Đây cũng là lời khuyến nhủ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Phải biết và dám bước ra ngoài Giáo Hội…

Cách truyền giáo hữu hiệu nhất vẫn là người Kitô hữu thể hiện nếp sống như một biểu lộ cụ thể “đem Phúc Âm vào đời sống hằng ngày” với người chung quanh, nhất là đối với những người không cùng tín ngưỡng với mình.
Câu chuyện một nữ Kitô hữu -mà lối sống hoàn toàn không chút “hiển lộ” những gì bà đã được huấn đức theo Phúc Âm- muốn thuyết phục người hàng xóm theo đạo của mình, bằng cách cứ đôi ba ngày lại mang đặt trước cửa ông nầy một quyển Thánh Kinh…
Kết quả các quyển Thánh Kinh bị chất đống trong thùng rác của ông nầy.
Bà Ki-tô hữu tức tối, cật vấn ông hàng xóm cho ra lẽ.
-Tôi cần gì đọc Thánh Kinh mà bà nhất quyết bền chí tặng tôi, ông hàng xóm trả lời. Nhìn lối sống của bà, tôi biết ngay Thánh Kinh mà bà muốn trao cho tôi đọc chứa những gì trong ấy rồi!

Câu chuyện trên đây nầy khiến tôi liên tưởng tới cung cách hành sử đối với anh em mình của “ngài” cựu chủng sinh “nhảy rào” -hơn chục năm được rèn luyện trong tu viện Dòng Chúa Cứu Thế- và “đấng” nữ tín đồ được “mô tả” là cực kỳ ngoan đạo…Nhỏ-bé-thôi tôi chỉ còn biết ngao ngán thở dài!

Mà thôi! “Tôi là ai mà phán xét?”

Trong trạng thái tâm linh như người vừa qua cơn bệnh nguy khổn, có thể phương hại tới niềm tin, tôi “dìu đỡ” người bạn đồng hành suốt đời với tôi lên đường hành hương Lộ Đức.

tl4

Nhìn ảnh “nàng” phải chống gậy, ACE chắc hẳn thấy trước những cam go suốt chặng đường hành hương, tưởng chừng rất khó thể thực hiện, nếu không muốn nói là…vô phương đối với đôi bạn già yếu trong buổi hoàng hôn của cuộc đời…
Đây là lần đầu chúng tôi đến Lourdes (dù quá nhiều năm và rất nhiều lần đến Pháp, chúng tôi vẫn chưa được cơ hội thuận tiện đến linh địa thiêng liêng nầy).

May mắn thay! Chúng tôi được vợ chồng bạn đồng môn -Phật tử thuần thành, tương đối còn khỏe mạnh hơn chúng tôi- cám cảnh đôi chim nhạn lạc bầy, đơn lẻ -kẻ sụp cánh, người sụm chân- tự nguyện tháp tùng hành hương, tận tụy phụ giúp chúng tôi khuân vác hành trang và “gồng gánh” nâng đỡ con nhạn khập khểnh trên gậy chống lên xuống những cầu thang cao ngút ngàn ở các trạm métro hay ga xe lửa.
Tạ ơn Chúa đã thương sót gửi hai “quới nhơn” nầy “phò hộ” cho chúng con…trên đường đến được với Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa!

Bốn người chúng tôi đã chung sống hòa hợp với nhau như như anh em ruột thịt cùng một gia đình, thực sự cùng chia sẻ hết mọi thứ với nhau. Tuy không cùng tín ngưỡng chúng tôi đã “sống chung hòa bình” trọn vẹn.

Nhân lúc đôi bạn Phật tử của chúng tôi đi thêm lần nữa chặng đường Thánh Giá, tôi thì thầm với người bạn đời:
-“May mà có…(đôi bạn nầy) đời còn dễ thương” . Quả thật chí lý: Phải biết và dám bước ra ngoài Giáo Hội…sau vố đau thương tổn đến với mình từ vài Kitô hữu không chút Tình Người.

Tham dự rước kiệu Đức Mẹ, tôi có dịp yêu đời trở lại, bớt bi quan hơn về thế thái nhân tình: Chung quanh tôi hàng nghìn thiện nguyện viên đến từ khắp nơi trên địa cầu, đủ mọi tín ngưỡng…Tất cả đều sẵn sàng sốt sắng giúp đỡ bất cứ ai cần giúp đỡ. Không khí huynh đệ, thân thiện hầu như bao trùm cả thành phố Lourdes!

Khi vô ý bị thương nặng nơi cánh tay phải lúc vào tắm nước thánh, tôi không nhớ nổi bao nhiêu bàn tay đã chăm sóc cho tôi được cứu thương. Cũng như không đếm nổi bao nhiêu người anh em đi hành hương đã lo lắng trấn an người bạn đời của tôi đã không thấy dấu vết tôi đâu hết khi “nàng” rời nơi tắm nước thánh…


Nhân đọc một bài viết sắp được đưa lên NSGĐPS mà tác giả vừa kêu xin vừa tâm sự vừa nguyện cầu: “Chỉ cần một Trái Tim chảy đầy máu vì lưỡi đồng của Chúa Giêsu là có thể ngăn tất cả những đau thương mà con người đang vùi dập lẫn nhau.
Chúa ơi! Người biết chăng: Nhân loại chúng con rất đang cần đến Trái Tim Thương Xót của Người!”…
tl5
…nbt tôi cũng ước vọng khắp nơi trên trái đất sẽ chan chứa tình người như nơi linh địa Lộ Đức nầy.
Đó cũng là lời cầu nguyện thiết tha của nbt tôi khi quì dưới chân Đức Mẹ Lộ Đức…
tl6
Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin lấy tình mẫu tử mà che chở, gìn giữ hồn xác con trong tình thương của Mẹ. Xin cho con được nép mình trong vòng tay từ ái của Mẹ. Xin cho Đức Ái luôn ngự trị trong tâm hồn con, để con luôn tìm được an bình giữa anh chị em của con.
Amen

**Tĩnh tâm cùng Huynh Đệ Đoàn ISAVE Montréal

“Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai,
người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en,
nghĩa là ‘Thiên-Chúa-ở cùng-chúng-ta’.”
(Mt 1,23)

tl7

Nbt tôi đến tham dự tĩnh tâm trong tâm trạng hoán cãi theo linh đạo phan sinh, như đứa con hoang đàng tìm về Nhà Cha: Tôi trở lại dòng tu, tạm gác những va chạm vô bổ của giòng đời quá phức tạp, gian truân, đã suýt làm tôi lạc lối về với ACE/PSTT thân ái.

tl8

Đây không phải là lần đầu tôi tạm ngưng sinh hoạt với ACE mà mỗi lần như vậy tối thiểu cũng phải 2 tháng, đa phần do công việc (truyền lại kiến thức đã nhận được trước đó từ các bậc tiền bối) trong “giòng đời” bên trời Âu.
Nhưng lần nầy, trở lại sinh hoạt với Dòng, hình như có gì rất đặc biệt hơn những lần trước:
Thay vì như dự đoán sẽ phải đối diện với những ánh mắt mất thiện cảm hay những gương mặt thờ ơ lạnh như tiền dành cho một lãng tử đã xao lãng việc tu đức, trái lại những vòng tay dang rộng, choàng ôm ghì siết, những tay nắm không muốn bức rời, những ánh mắt dịu hiền hài hòa với những nụ cười rạng rỡ cho nbt tôi nhận ra mình vẫn còn được Huynh Đệ Đoàn PSTT ưu ái đón nhận với câu chào giúp nhận ra nhau: Bình An và Vui Mừng!
Tôi có bị ảo giác vì quá chủ quan, vì “lạc quan quá trớn” chăng: Tôi có cảm nghĩ hình như ACE tôi thấu đáo những bầm vập tôi đã “kinh qua” trong công việc ở Paris lần 2015 nầy. Nên ACE thấy cần xoa dịu các thương tổn (mà tôi đã phải gánh chịu từ một vài Kitô hữu) bằng những vồn vã ân cần như để ủi an, bù đắp…Đức Ái vẫn còn ngự trị trong lòng ACE chúng tôi!

tl9

Qua phần huấn đức rất linh động của Cha Giảng Phòng Giuse Đỗ Quang Khang, tôi nhận ra những “bầm vập” mà tôi nghĩ sẽ ảnh hưởng đến Đức Tin, thật ra chỉ là những cơn gió thoảng, những lượn sóng nhấp nhô nhất thời làm rung rinh, chao đảo niềm tin, chứ không lung lạc được Đức Tin của tôi nơi Đức Chúa Giêsu -Đấng Toàn Năng- mà sau rốt tôi xin phó thác hết mọi sự.

tl10

Cũng qua phần huấn đức tuy vui tươi nhưng rất thâm sâu của Cha Giảng Phòng, tôi càng thêm cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói, bởi vì “một lời nói là một đọi máu”! Một phán đoán vội vã có thể tác dụng như “giết người không dao”! Một phán xét hấp tấp có thể hủy diệt danh giá, nhân cách của nạn nhân bị hồ đồ phán xét: “Là giết đời nhau đấy, biết không”!
Ngay cả đối với anh chị em lầm lỗi, tôi nghĩ mình cũng cần thận trọng trong lời nói bởi vì, như Đức Giáo Hoàng Piô X đã viết:
“Khi những sai lầm mà bị khiển trách quá nặng nề và khi những nết xấu mà bị lên án quá hấp tấp, thì thường gây hại hơn là có lợi”.

tl11

Một điều rất quan trọng mà nbt tôi ghi nhận: Ban Phục Vụ huy động được nhiều ACE cộng tác hơn những lần trước, kể cả sự cộng tác của một cựu thành viên trong BPV cũ, chuyên trách dẫn kinh và bắt giọng Thánh Ca. Nbt rất đỗi vui mừng và xin… “Hoan hô BPV!”.

tl12

Tĩnh tâm mang lại cho tôi niềm phấn chấn trong an bình. Lâu rồi tôi không có dịp lặp lại phương châm hành động theo triết gia Emmanuel Kant:
“Hai điều tràn ngập tâm hồn tôi một niềm vui sâu đậm: Bầu trời đầy sao trên tôi và luật đạo đức nơi tôi”.

Cũng khá lâu rồi tôi không quì trước bàn thờ Chúa đọc kinh tối và cầu nguyện. Trông cậy vào lòng thương sót của Chúa, xin Chúa xóa tội cho con chiên bất xứng với Tình Yêu bao la của Chúa. Amen


Như người bịnh vừa được chữa lành, tôi bồi hồi mở tờ Nội San Gia Đình Phan Sinh cũ, đọc và suy gẫm những gì tôi đã viết ra cách đây 3 năm, vào dịp Giáng Sinh 2012, mà sao giờ đây tôi vẫn thấy phản ảnh đúng tâm trạng của tôi sau lần tĩnh tâm 2015 nầy:

“Đôi khi mãi hăng say tranh luận hay bình phẩm người chung quanh, tôi lãng quên thực chất quá bé nhỏ của mình…
Đêm nay, trong “căn nhà ngoại ô” Thôn trang Rêu Phong, giờ đây hoàn toàn tĩnh mịch, thanh vắng -nơi một thuở ACE tôi yêu thương quay quần bên nhau sau Thánh Lễ Đầu Năm, tặng nhau nụ cười như tặng nhau bông hồng- tôi lặng lẽ quì trước bàn thờ dâng lời cảm tạ Chúa đã thương xót gìn giữ tôi 77 năm qua, để rồi xúc động ngút ngàn “tâm tình” với Người:
Trong trái tim Chúa yêu muôn đời
con xin được một chỗ nghỉ ngơi
nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi
như nước mưa tan trong biển khơi…
nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi
trái tim con trong trái tim Người
nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi
là tình con trong khối tìnhNgười
Tình Người…
Tình Người…
TÌNH NGƯỜI !!!

Thôn trang Rêu Phong, chớm thu 2015
-nhỏ bé thôi lê tấn lộc-

Trở về đầu trang

HOME

=================================================

Vài mẩu chuyện đưa tới nhận định về

VIỆN ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
VÀ CÁC CỰU SINH VIÊN … “ THỤ NHÂN ”

ban do

Lời mở đầu

Bài viết nầy trình bày quan điểm của người viết về :

1- bối cảnh đưa tới sự ra đời của Hội Cựu Sinh Viên Viện Đại Học Đà lạt Việt Nam Tự Do
(AEUDVNL ),

2- sự ra đời của Viện Đại Học Đà Lạt ,

3- nghi lễ và nghi thức khai mạc các Đại Hội hay Hội Ngộ của các Hội Đoàn Người Việt Quốc Gia ở hải ngoại .

Tác giả hoan nghinh mọi góp ý xây dựng trong tinh thần tương kính và lịch sự .

LTL

Câu chuyện khởi đầu cũng khá ly kỳ , khi tình cờ, hết sức tình cờ , tôi nhận điện thư của một thân hữu cho biết một Đại Hội Thụ Nhân Thế Giới sẽ được tổ chức tại Paris vào đầu tháng sáu 2012 . Và Ban Tổ Chức Đại Hội đương nhiệm quyết định từ chức vì có sự bất đồng chính kiến với các ý kiến từ các nơi gửi tới, liên quan tới nghi thức khai mạc Đại Hội mà quan trọng nhất là vấn đề treo hay không treo Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ , quốc kỳ của VNCH mà VĐHĐL với các Cựu Sinh Viên -được quảng bá dưới danh xưng Thụ Nhân -đã từng được hưởng mọi quyền lợi của một công dân trong một thể chế tự do , thể chế đã mất dạng trên quê hương ngày 30.4.1975 vì bị bức tử bởi bọn xâm lược từ phương Bắc , như giặc châu chấu , tràn vào miền Nam Việt Nam … cưỡng chiếm !
Do đó , một BTC mới được ra đời , BTC cũ chính thức tuyên bố tự giải tán .

dien hanh

Trong danh sách BTC mới nầy tôi thấy tên một người quen biết từ lâu , mà tôi rất đỗi ngạc nhiên vì đã không biết người quen nầy là một Thụ Nhân . Nên tôi gửi liền điện thư hỏi người quen đó , lúc bấy giờ là 1 trong 4 người sáng lập Hội Cựu Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt ( AEUD ) tại Paris , được lập ra để yểm trợ cho Đại Hội nói trên , với sự cam kết sẽ có đầy đủ các nghi lễ nghi thức khai mạc đại hội : chào quốc kỳ , hát quốc ca và một phút mặc niệm ( tôi sẽ trở lại nghi thức nầy sau ) .

  • Quá đỗi ngạc nhiên biết chị từng theo học ở Viện Đại Học Đà Lạt . Tôi cũng đã từng… như chị đấy! Nhưng tôi không là Thụ Nhân . Vậy tôi có thể gia nhập Hội của quý vị chăng ? Tôi hỏi .
  • Tôi cũng chẳng ngờ anh cũng từng…như thế ! Lâu nay tôi và các bạn chúng ta chỉ biết anh là một sorbonnard ( sinh viên Sorbonne-Paris ). Người quen tôi trả lời . Được chứ anh ! Hội là Hội Cựu Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt mà ! Nào phải chỉ là Hội Thụ Nhân thôi đâu !

Câu giải thích của người quen nầy khiến tôi chưa hết thắc mắc vì xem qua các đại hội cựu sinh viên VĐHĐL được tổ chức trước đó và sau đó , như đại hội 2014 tại Montréal chẳng hạn , cũng đều xưng danh là Đại Hội Thụ Nhân Thế Giới ! Cho nên lúc tôi được mời đến dự phiên họp đầu tiên chuẩn bị bầu Ban Tổ Chức cho Đại Hội nầy , tôi cũng lặp lại câu hỏi tương tợ với một “ thụ nhân ” khác , người đứng ra triệu tập phiên họp sơ khởi :

  • Tôi có đủ tư cách dự phiên họp dù không phải là Thụ nhân…chăng ?
  • Được chứ ! Vì anh cũng là CSV/VĐHĐL mà ! Thụ nhân nầy trả lời .

vien dai hoc Da Lat 1957

( VIỆN ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT, 1957 )

  • À ra thế ! Các bạn đồng môn và tôi -có mặt tại Viện từ lúc Viện khởi sự chính thức hoạt động, năm 1958 , cho tới năm 1964- chẳng có chút khái niệm gì về hai chữ “ thụ nhân ” . Danh xưng “Thụ Nhân” nầy chắc chắn chỉ xuất hiện vào năm 1964 , khi khoa Chính Trị Kinh Doanh được chính thức khai giảng trong khuông viên VĐHĐL . Mãi sau nầy , khi thoát khỏi địa ngục trần gian cải tạo của CSBV, vượt biển tìm tự do , định cư tại Montréal tôi mới biết -qua một thụ nhân khác nữa- rằng hai tiếng Thụ Nhân phát xuất từ Đức Ông Simon Nguyễn Văn Lập , người Cha được các CSV ( dưới danh xưng “ Thụ Nhân ” ) -thời ngài làm Viện Trưởng- vô cùng mến yêu , quí trọng . Vậy tôi có nên hiểu tất cả CSV/VĐHĐL đều phải được coi là Thụ nhân chăng ?

Mới đây thôi , một Thụ Nhân ( X ) -Thụ Nhân chót của VĐHĐL , một Thụ Nhân chưa đủ một niên học khi Viện bị CSBV bức tử- viết cho tôi :

“ Tuy hoàn cảnh địa lý cách biệt , nhưng đối với ( X ) , chúng ta cùng là một ” gia đình Thụ Nhân ” của Cha chung Đức Ông Simon Nguyễn văn Lập ” .

Tôi đã trả lời :

“ (…) xin (X) chớ quá “ hăng say ” mà đâm ra hồ đồ và cường điệu đấy !
Tôi sẽ có một bài viết về danh xưng “ Thụ Nhân ” sau khi Hội Ngộ Paris 2015 kết thúc .
Trong khi chờ đợi , ( X ) nên biết VĐHĐL chính thức hoạt động vào năm 1958 , sau khi được phép thành lập năm 1957 . Khoa CTKD chỉ ra đời năm 1964 . Danh xưng Thụ Nhân có từ đó và thịnh hành vào thời LM Simon Nguyễn Văn Lập làm Viện Trưởng .
Thời tôi vào Viện chưa có Cha Lập . Thời (X) thì Cha Lập hết làm Viện Trưởng , mà Viện Trưởng là Cha Lý .
Cho nên danh xưng Cựu Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt bao gồm tất cả CSV/VĐHĐL, kể cả Thụ Nhân . Nhưng danh xưng Thụ Nhân không thể bao gồm tất cả CSV/VĐHĐL . Dù không được vinh hạnh tiếp xúc hay diện kiến Cha Lập , tôi vẫn nghe tiếng Ngài là bậc chân tu , rất mực yêu thương “ các con ” sinh viên của Ngài .
Nhưng võ đoán Đức Ông Simon Nguyễn Văn Lập là Cha chung của tất cả CSV/VĐHĐL thì không hoàn toàn chính xác đâu !
Cũng như nhóm chữ một “gia đình Thụ Nhân” không bao gồm tất cả CSV/VĐHĐL !
Do đó , danh xưng “ Thụ Nhân ” có tính cách chuyên biệt ( spécifique ) , thường ứng dụng với các sinh viên Chính Trị Kinh Doanh -một khoa như các khoa khác ( Sư Phạm , Khoa Học , Văn Khoa ) mà thôi ” .
{ Thụ nhân X nầy mới lên 3 tuổi khi VĐHĐL chính thức hoạt động với 3 phân khoa Sư Phạm, Văn Khoa và Khoa Học }

Do cách nhìn phiến diện của X kể trên , tôi thiết nghĩ : để giúp cho các CSV vào Viện trước 1964 , nếu dùng danh xưng Cựu Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt thì dễ dàng cho họ nhận ra đồng môn hơn . Tôi thấy các hội ái hữu cựu sinh viên hay cựu học sinh đều dùng đích danh Trường Mẹ ( như Cựu Sinh Viên Đại Học Luật Khoa , Văn Khoa , Sư Phạm , Cao Đẳng Phú Thọ , Quốc Gia Hành Chánh , Võ Bị Quốc Gia , Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức…Cựu Học Sinh Trung học Petrus Ký , Gia Long , Trưng Vương , Chu Văn An , Jean-Jacques Rousseau , v.v…) mỗi lần tổ chức họp mặt . Ngay khi tổ chức Đại Hội các hội đoàn nầy cũng ra thông báo dưới danh xưng Trường Mẹ .

Không có câu trả lời thích đáng cho tôi từ những “ thụ nhân ” được hỏi lúc đó và sau nầy… về việc tôi nêu lên ngộ nhận phát xuất từ các “Thụ Nhân” theo học khoa ChínhTrị Kinh Doanh, hầu như nghĩ rằng chỉ có các CSV/CTKD mới là “Thụ Nhân” thôi! Điều nầy khiến các CSV theo học các khoa Sư Phạm, Văn Khoa, Khoa Học phần nào cũng buồn lòng , vì họ cũng là Thụ Nhân , khi sinh viên các khoa thuộc VĐHĐL được gọi là Thụ Nhân từ năm 1964 trở về sau !


Trong một điện thư gửi Y , một Thụ Nhân Văn Khoa sau 1964 , tôi viết:
“ (…) Viện Đại Học Đà Lạt chính thức hoạt động như một VĐH tư thục từ năm 1958 , dù đã được cấp giấy phép từ 1957 ( do Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục đứng đơn xin ) sau khi các sinh viên ban Triết 1 của Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn được chuyển lên VĐHĐL tiếp tục học trình .
( Khởi đầu , năm 1957 , VĐHĐL chỉ có 49 sinh viên theo học lớp Dự bị Đại Học , theo cách thức của Viện Đại Học Louvain – Belgique ).
Lúc bấy giờ , sau khi trường ĐHSP Sài Gòn đã hình thành , do GS Trương Công Cừu làm Khoa Trưởng , Bộ Giáo Dục đã tổ chức thi tuyển thêm sinh viên cho 3 ban Triết , Pháp Văn và Anh Văn nhằm mục đích lập thêm một trường ĐHSP nữa ( cùng lúc với trường ĐHSP/Viện Đại Học Huế ) , giao phó cho VĐHĐL huấn luyện : Trường Đại Học Sư Phạm Đà Lạt ra đời từ đó , Ban Anh Văn vì quá ít tuyển sinh nên được gửi về sáp nhập với Ban Anh Văn trường ĐHSP Sài Gòn ( từ đó trở đi trường nầy hoàn toàn không có Ban Triết nữa ) , trong số có anh Trần Cảnh Xuân , sau nầy là giới chức cao cấp của Bộ Giáo Dục ) . Cùng lúc , Trường ĐHKH và ĐHVK/VĐHĐL cũng đã thu nhận sinh viên . ( KH có Nguyễn Tử Quốc Hùng -PV1- đậu chứng chỉ Toán Đại Cương . VK có Lê Tấn Lộc đậu chứng chỉ Đạo Đức Học và Xã Hội Học và Nguyễn Văn Tốt -Triết 1- đậu chứng chỉ Lịch Sử Triết Học Tây Phương ) . Các chứng chỉ nầy đều được giảng dạy bằng tiếng Pháp .

Từ năm 1957 , Cha Joseph Trần Văn Thiện là Viện Trưởng ; Ông Trần Quang Diệu là Tổng Thư Ký từ 1959 , thay thế ông Lê Đình Tuế đựợc gửi đi du học ( hậu đại học ) tại Canada . Sư Huynh Pierre dạy Sư Phạm ( pédagogie ) , Cha Bửu Dưỡng dạy Tâm lý học , Cha Alesis Cras ( Đỗ Minh Vọng ) dạy Triết học Đông Phương , Cha Albert-Marie Bernard Pineau dạy Đạo đức học , Cha Boyer dạy Xã hội học , Cha Gauthier dạy Lịch sử Triết học Tây Phương , Mr Piclin dạy Luận lý học và Triết học Tổng quát ( Siêu hình học ) , Mme Etiennette Poirson , Mr Cabrière , Mr Damoineau , Mr Bornecque…dạy Văn chương Pháp , GS Trương Bửu Lâm dạy Latin , Mr Rioux dạy Lịch sử cho chứng chỉ Dự Bị Văn Khoa , v.v…Cha Debrook , Quản thủ thư viện.
Tôi không còn nhớ tên các GS dạy ĐHKH…

Nêu lên những chi tiết trên đây , tôi muốn cho thấy một số tài liệu về văn kiện pháp lý hay lịch sử liên quan đến VĐHĐL được phổ biến và đăng tải trên vài website Thụ Nhân là không hoàn toàn đúng như những gì anh chị em sinh viên đầu tiên của Viện đã rõ biết với tư cách là nhân chứng sống mà anh Nguyễn Sanh Biên-PV1, cùng thời với tôi , ( định cư tại Florida ) là một. Chưa kể các nhân chứng khác , như ông cựu TTK/VĐHĐL Trần Quang Diệu ( định cư tại Montréal ), chị cựu sinh viên Chu Kim Long -Triết 1 ( định cư tại Washington DC ) , các anh cựu sinh viên Vĩnh Đễ -Triết1 ( định cư tại Ottawa ) , Nguyễn Ngọc Thọ-Triết 1 ( định cư tại Chicago ), Võ Doãn Nhẫn-Triết 1 , Trần Quang Minh-Triết 1 ( định cư tại San Diego ) , Bùi Phong Quang-Triết 1 , Nguyễn Lộc Thọ-Triết 2 ( định cư tại Nam California ) ; Nguyễn Văn Tốt-Triết 1 , chị Lữ Thị Hoài Pháp Văn 1, anh Nguyễn Thành Công , KH 57 ( định cư tại Florida ), anh Huỳnh Hồng Cẩm , Triết 1 (còn ở lại quê nhà), các anh Nguyễn Tử Quốc Hùng -Pháp Văn 1 , Lâm Võ Huỳnh -Pháp Văn 1 , Bửu Toại-Pháp Văn 1 ( định cư tại Montréal ), Trần Ngọc Thái -Pháp Văn 1, Hoàng Ngọc Biên-Pháp Văn 1 (định cư tại San Jose ) , Hoàng Lý Phúc, Triết 1 ( định cư ở đâu hay còn ở quê nhà , không rõ ) , v.v…
{ Đó là chưa nói tới một số rất đáng kể các nhân chứng sống khác hiện định cư tại Pháp, như anh Phạm Xuân Ái ( PV1 ) , chị Đỗ Tuyết Sương hay Đỗ Cao Jeanne ( PV1 ) , anh Phan Như Khuê ( PV1 ), các chị Trương Thị Cúc , Nguyễn Thị Thảo ( PV1 ), các anh chị Nguyễn Thị Lệ Quyên , Triết 1 ( định cư tại Pháp ) , các anh chị Phạm Duy Khiêm , Trần Hữu Đức , Nguyễn Văn Hữu , Chu Trọng Thuyết , Nguyễn Duy Diệm , Trần Đức An , Công Tôn Nữ Tri Chỉ ( Triết 1), hai anh Lê Thành Châu , Trần Xuân Tiên , Triết 1 ( đã qua đời ); các anh chị Nguyễn Văn Sáu , Nguyễn Hoàng Sanh , chị Cécile Nguyễn Thị Bạch Tuyết , chị Đặng Thiên Chi, Pháp Văn 1 ; các anh chị đã qua đời : Phạm Ngọc Đảnh, Triết 1 , Nguyễn Xuân Hoàng , Triết 2 , Ngô Thị Tám , Kiều Văn Chương , Đoàn Thị Mỹ Dung PV1, v.v… và một số ở các nước thuộc Liên Hiệp Âu Châu , tại Hoa Kỳ , tại Úc , v.v…có thể lên tiếng xác nhận những gì tôi viết trong điện thư nầy . Tất cả đều có thể xác nhận Cha Joseph Trần Văn Thiện là VIỆN TRƯỞNG ( chứ không như một số tài liệu “ quả quyết ” Cha chỉ là “ Giám đốc Học vụ – Directeur d’études ) ” ! Đức TGM Ngô Đình Thục là Chưởng Ấn ; sau nầy Đức Cha Nguyễn Ngọc Quang tiếp nối làm Chưởng Ấn….

Tôi xin bổ túc thêm phần nói về Cha Viện Trưởng đầu tiên của VĐHĐL :
Cha Joseph Trần Văn Thiện , cựu “sorbonnard” về Văn Chương Pháp , trước khi nhận chức vụ Viện Trưởng -do Đức TGM Ngô Đình Thục địa phận Vĩnh Long yêu cầu- đã là Giám Đốc Tiểu Chủng Viện Vĩnh Long .
Ngài rời VĐHĐL khi được Giáo Hội bổ nhậm Giám Mục địa phận Mỹ Tho } .

Riêng Trường Đại Học Chính Trị Kinh Doanh thì… chỉ ra đời vào năm 1964 ! Và từ đó cho tới ngày 30.4-1975 chỉ võn vẹn có 11 khóa ! ”
(…)


Như thế cũng đủ biết, người trong cuộc như tôi mà còn lạc hướng , nói chi đến những ai không am tường về các giai đoạn phát triển của Viện Đại Học Đà Lạt , trước ngày 30.4.1975 !
Nguy hiểm hơn nữa là mới đây một số Thụ Nhân lại tung lên mạng rằng họ muốn tổ chức Ngày truyền thống (?!) tại VN dưới sự chỉ đạo và chủ đạo của…CSVN ! Tôi viết tiếp cho Thụ Nhân Y quen biết nói trên :

“ Và từ đó cho tới ngày 30.4-1975 chỉ võn vẹn có 11 khóa ! Có nghĩa là CTKD chỉ tồn tại 11 năm ! (Riêng VĐHĐL chỉ tồn tại 17 năm , từ 1958 tới 1975 ) . Thế thì “ nhóm truyền thống ” nầy lại kỷ niệm 50 năm VĐHĐL ( poster ghi rõ như thế ) là nghĩa lý gì nhỉ ? Phải chăng đám “ thụ nhân trở cờ ” nầy cho rằng VĐHĐL chỉ bắt đầu từ khóa 1 CTKD , năm 1964 : chúng cột thêm số tuổi của Trường Đại Học Đà Lạt / XHCNVN ( từ 1975 tới 2014 ) để “ kỷ niệm ” 50 năm thành lập VĐHĐL !
Rồi chúng cột thêm 39 năm “ khoa ” Quản Trị Kinh Doanh của Trường Đại Học Đà Lạt do một “ Hiệu Trưởng ” VC điều hành để cho là … “ truyền thống ”của VĐHĐL ! Lại còn gắn lễ giỗ Đức Ông Simon Nguyễn Văn Lập -Cha chung của các “ Thụ Nhân-cựu sinh viên VĐHĐL ”, theo sự cả quyết của TN X , trước 30.4-75- vào để cho có…“ chính nghĩa ” thì quả thật là thiếu sự ngay thẳng tinh thần ( honnêteté intellectuelle ), nếu không muốn nói là bất lương đến độ không chút hổ thẹn ( éhonté, sans scrupules ) .
Không “ CHÍNH DANH ” thì quả là có tà ý lươn lẹo . Y như treo đầu dê bán thịt chó ( sự kiện “ lươn lẹo ” nầy hiện nay rất phổ quát trong các hội đoàn người Việt hải ngoại bị Nghị quyết 36 thâm nhập ) ”.

Nhân tiện, tôi cũng tâm sự với Thụ Nhân Y nầy lý do vì sao nhóm sáng lập Hội mới thay thế cho Hội cũ -lập ra để yểm trợ cho ĐH 2012 tại Paris- đã chấp thuận đề nghị của tôi về danh xưng đầy đủ của Hội :

co VNCH

“ Do đó , khi một số anh chị em cựu sinh viên đề nghị giải thể Hội CSVVĐHĐL tại Paris ( AEUD ) cũ để khai sinh một hội mới , với danh xưng Hội Cựu Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt , tôi đề nghị -và được sự đồng thuận của anh chị em- thêm “ Việt Nam Tự Do ” ( AEUDVNL ) , như yếu tính cơ bản của Hội .
Vậy mà tôi vẫn phải giải thích và xác định lập trường với hai vị thân hữu cùng lập trường tuyệt đối không hòa hợp hòa giải với VC , dưới bất cứ hình thức nào !

1-Thư trả lời Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại :

Thưa Niên Trưởng ,

Xin Niên Trưởng và quí bạn cứ yên tâm .
Tarzan_VNCH LTL đã chứng kiến nhiều màn gọi là “ phi chính trị ” , sau rốt lòi cái đuôi hồ ly …. phi chính trị rập theo khuôn mẫu ( hay theo chỉ thị ) của XHCNVN , qua hàng loạt “ nhiêu khê ” trong các hội ái hữu cựu học sinh hay cựu sinh viên ở hải ngoại .
Cho nên khi tái phục hồi sinh hoạt cho Hội Cựu Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt cũ , ngoài việc minh xác “ Thụ Nhân ” CHỈ là những cựu sinh viên của VĐHĐL TRƯỚC 30.4.1975 , chúng tôi còn cẩn thận hơn thêm danh xưng VIỆT NAM TỰ DO , cho chẳng ai có thể nhầm lẫn hay cố tình nhầm lẫn rằng các sinh viên của Đại Học Đà Lạt CHXHCNVN có thể là hội viên của Hội Cựu Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt-Việt Nam Tự Do , chính thức ra đời ngày 16 tháng 7 năm 2013 mà tôi được hân hạnh đảm trách chức vụ Hội Trưởng đầu tiên .

2- Trả lời ” thắc mắc ” của Luật Sư Lê Duy San :
( Rất tiếc tôi lưu giữ nơi nào mà chưa tìm ra…)

Đại khái LS Lê Duy San hiểu lầm AEUDVNL là Hội do “ TN ” XXX bên Paris lập trước khi Hội AEUD ra đời để yểm trợ cho ĐHTN 2012 , nên hỏi tôi có phải Hội “ do anh làm Chủ tịch (…) trở cờ ” chăng khi “ tổ chức ĐHTN 2012 tại Paris ” !
Tôi đã đính chính nói rõ sự “ nhầm lẫn ” đó . Và khẳng định “ Hội chúng tôi không có Chủ tịch Ban Chấp Hành , mà chỉ có Hội Trưởng . Nhưng có Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị . Và nhóm chữ Việt Nam Tự Do đã tỏ rõ lập trường chính trị của chúng tôi ” . LS Lê Duy San trả lời như thế thì ông rất yên lòng !

Hôm nay được dịp bộc lộ tâm tình cùng anh , tôi cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng.
Rất mong gặp lại anh chị trong Đêm Hội Ngộ Paris 2015 -trọng điểm thiết yếu của Hội CSVVĐHĐLVNTD, khơi mào cho các chuyến landtour và cruise ( như là phần phụ diễn văn nghệ , để ACE tiếp tục hàn huyên khi du lịch và du ngoạn )”.

Bây giờ tôi nghĩ nhóm anh em sáng lập nhận ra vì sao tôi đã hết sức thuyết phục được anh em cần phải có nhóm chữ Việt Nam Tự Do để xác định ngay từ khởi điểm lập trường dứt khoát của Hội đối với nhóm Thụ Nhân trở cờ mưu toan lấy điểm với bọn CSVN -mafia đỏ- bằng chiêu bài xảo quyệt đến mức tinh vi : nối kết VĐHĐL/VNCH với Trường Đại Học Đà Lạt/XHCNVN , xuyên qua thủ thuật quỷ quyệt hòa hợp hòa giải dân tộc , độc kế bẫy sập của Nghị quyết 36 nhằm phá nát các hội đoàn Người Việt Quốc Gia tại hải ngoại…


Để tạm kết bài viết, tôi xin được phép trình bày nhận định nghi thức ( rites ) chào quốc kỳ , quốc ca và phút mặc niệm , khi các cuộc tổ chức họp mặt CSV/VĐHĐL ( thường với danh xưng Thụ Nhân ) có nghi lễ ( protocole ) chào quốc kỳ :

Về nghi lễ chào quốc kỳ và hát quốc ca, tôi nghĩ rằng hầu hết anh chị em CSV đã có đầy đủ kinh nghiệm , hoặc với tư cách cá nhân ( đã đứng ra tổ chức ) , hoặc đã tham dự những buổi tổ chức của các đoàn thể có cử hành các nghi thức ( rites ) nầy . Cho nên tôi chỉ muốn nói rõ hơn về Phút mặc niệm .

VNCH

1-Nếu không có nghi lễ chào quốc kỳ và hát quốc ca thì chúng ta chỉ tưởng niệm quí vị tu sĩ , thầy cô , đồng môn , thân hữu , v.v… đã vĩnh viễn ra đi .
Nhưng nếu có tiếng hát quốc ca vang lên khi chúng ta chào quốc kỳ thì phút mặc niệm chỉ dành để mặc niệm những ai đã bỏ mình ( hy sinh ) vì Tổ Quốc , trong đó các chiến sĩ đã góp xương máu và mạng sống để bảo vệ quê hương cần được xướng lên trước nhất, ( bao gồm cả quí tu sĩ, giáo sư, đồng môn, thân hữu, v.v…) , vì danh từ chiến sĩ (combatants) không chỉ hạn chế trong hai chữ quân nhân ( soldats, militaires ). Chúng ta chắc hẳn đã nghe qua gọi phục vụ dưới cờ ( appelés sous les drapeaux ) và chết dưới cờ hay gục ngã trên bãi chiến danh dự ( morts sous les drapeaux ou tombés au champ d’honneur ) . Kế đến là quí đồng bào đã vĩnh viễn nằm xuống vì tranh đấu cho lý tưởng tự do, kể cả đồng bào qua đời khi lên đường tìm tự do…
( Chứ nào phải mặc niệm những quí vị qua đời vì lý do bịnh tật hay già yếu ! ) .

co VNCH 2

Các nghi thức nầy có tính cách quốc tế -ít là đối với thế giới tự do- vì liên quan đến sỉ diện các quốc gia . Làm không đúng cách là lẫn lộn sở thích cá nhân chuyên biệt với các nguyên tắc cơ bản khi cử hành nghi lễ trọng đại chào quốc kỳ .
2-Theo thiển ý , sau các phần nghi thức bắt buộc tuân thủ kể trên , chúng ta có thể du di thêm phần một phút tưởng niệm như đã nêu trên .
Người viết mong những ý kiến thô thiển của mình được quí anh chị em CSV/VĐHĐL trước 30.4-1975 quãng đại đón nhận .
Thôn trang Rêu Phong, Xứ Tuyết Canada, chớm thu 2015

LTL

Lê Tấn Lộc

Triết 1, ĐHSP/VĐHĐL (1958)

*Source: Hội Cựu Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt Việt Nam Tự Do ( AEUDVNL ) http://hcsvvdhdalat.com/

*Link bài viết: http://ttv211.free.fr/FilesPDF/VaiMauChuyen.pdf

Trở về đầu trang GS Lê Tấn Lộc

Trở về trang Thầy Cô

HOME

Leave a comment