Categories
Chuyện ngắn

EM ĐI…*


438300489_1157965525233482_4698067666152079683_n

*(Truyện không tựa. CGQ mạn phép đặt tựa)

Cô ấy bảo với anh muốn trồng một giàn hồng bên cửa sổ, anh nói: “Dạo này bận quá, để tuần sau rảnh anh làm cho.”

Tuần sau được nghỉ nhưng anh lại lười, câu chuyện thoáng qua trong đầu rồi bay đi mất. Anh nghĩ phụ nữ ấy mà, tuỳ hứng một lúc rồi quên nhanh thôi.
Cô ấy nằm cạnh anh lướt facebook, chỉ cho anh xem một chiếc váy rất xinh.
“Em muốn mua. Được giảm đến 50% trong ba ngày, mai là ngày cuối rồi, anh chở em đi nhé.”
“Ừ, dễ mà. Mai anh mua cho.”
Tối hôm sau bạn bè rủ đi ăn mừng dự án vừa hoàn thành, cô gọi mấy cuộc nhưng anh không nghe máy, về sau kiên quyết tắt chuông. Vài chuyện vặt vãnh của phụ nữ, sánh sao được dịp bạn bè tụ tập cùng nhau.
Nửa khuya mở điện thoại, thấy cô nhắn tin: “Em đói quá, anh về mua cho em ổ bánh mì được không?”
Anh nhìn đồng hồ, đã gần một giờ sáng, anh nhét điện thoại vào túi nghĩ rằng cô ngủ rồi. Ăn khuya cũng không tốt.
Anh mở cửa nhè nhẹ, cô nằm quay mặt vào trong thở đều, anh đặt mình nằm xuống rồi ngủ ngay, không phát hiện bờ vai người bên cạnh rung lên khe khẽ.
….
Chiều nay về nhà anh thấy mấy chậu hoa đang khoe sắc, màu hoa đỏ tươi, hương thơm thoang thoảng. Anh khen: “Hoa đẹp đấy. Em tự trồng à?”
Cô không trả lời, loay hoay bày đồ ăn lên bàn, anh cũng chẳng để tâm, giở tờ báo đọc lướt vài tin tức, bữa cơm trôi qua như cái chớp mắt, chỉ có tiếng nhạc của Lê Cát Trọng Lý văng vẳng lúc xa lúc gần:
“Thương em thương tình đa mang
Yêu trăng ba mươi quên mình…”
….
Dạo này cô ít nói hẳn, thỉnh thoảng anh thấy nhà có vài cái mới mẻ: rèm cửa được thay, đèn phòng ngủ cũng là loại khác, toả ra màu vàng ấm áp, có lúc bước vào nhà nghe mùi tinh dầu thoang thoảng dễ chịu, phòng tắm để chậu trầu bà xanh mát…
Anh nghĩ phụ nữ thật vẽ chuyện, toàn để tâm những tiểu tiết đâu đâu.
Chợt tối nay về nhà thấy chiếc vali to trước cửa, cô ngồi đợi sẵn, ngước lên nhìn anh cười.
“Đi đâu đấy?”
“Đi xa.”
“Em đùa à. Không vui đâu.” – Anh chau mày, cởi đôi giày vứt sang một bên.
“Em đi thật. Rời khỏi đây, rời khỏi anh.” – Cô lại cười, khuôn mặt yên ả như mặt hồ, thậm chí không có một nét buồn thương nào.
“Tại sao? Chẳng phải chúng ta đang sống chung rất tốt?”
“Ừ, rất tốt…” – Cô đứng dậy, vuốt lại nếp váy hơi nhàu – “Tốt với anh nhưng không phải với em. Em cần một người thương, không phải một người chỉ để sống cùng. Anh xem, hoa em có thể trồng, ống nước có thể thay, điện hư có thể sửa, đói có thể tự nấu ăn, bệnh có thể tự mua thuốc… Vậy cần anh làm gì?”
Anh đứng lặng thinh, nhớ lại những ngày đầu gặp cô: Cô mỏng manh, bé nhỏ, hét lên khi thấy một con gián, cắt miếng chanh cũng đứt tay, anh bảo:
“Em vụng về thật, không có anh thì biết làm thế nào.”
Giờ cô đứng trước anh, vẻ mặt bình lặng, khoé miệng hơi mỉm cười không có chút gì giận dỗi. Tự dưng anh thấy nghèn nghẹn.
Cô lướt qua anh, mùi nước hoa thoang thoảng quen thuộc, anh bật ra một câu lạc lõng:
“Váy đẹp lắm.”
Cô hơi dừng lại, cúi đầu:
“Chắc anh quên rồi. Là chiếc váy giảm giá em muốn mua. Lúc em mua được nó thì đã không còn giảm nữa, khá đắt nhưng em nghĩ mình xứng đáng.”
Cô khép cửa. Tiếng rất êm.
Anh nhìn ra bậu cửa, giàn hồng vẫn đỏ tươi, rung nhè nhẹ. Mâm cơm trên bàn để sẵn, chỉ có một chiếc bát, một đôi đũa…
Và nhà chỉ còn mình anh.
Anh chợt nhớ từng nghe ai đó nói: “Với người phụ nữ của mình, tốt nhất là đừng dạy cô ấy trở thành người mạnh mẽ, vì đó cũng là lúc bạn đánh mất cô ấy rồi.”
LeVanQuy sưu tầm

❤ ❤

* Tình yêu là trạng thái mà hạnh phúc của người khác là điều cần thiết cho chính bạn.

—Robert A. Heinlein

Love is that condition in which the happiness of another person is essential to your own.

Categories
Chuyện ngắn

Ngoại tình


14063990_990769971022142_6897292563052948175_n

Ngoại tình

Lê Hứa Huyền Trân

Anh ngoại tình. Việc này cả khu phố không ai là không biết nhưng chẳng hiểu sao chị vẫn dửng dưng như chẳng hề hay biết gì. Ở cái nhà này, chị là trụ cột, nên cả phố đều lạ rằng anh có cái gan tày đình nào mà dám “vượt mặt” chị nhường thế. Lạ một điều nữa là việc anh ngoại tình, tuy không dẫn về nhà nhưng điều tiếng râm ran thì cũng đã lan truyền, vì nhẽ nào chị vẫn cứ đi làm mỗi ngày, vẫn cười nói với anh mỗi ngày, vẫn cứ đối xử với anh như lũ chim câu với nhau vô thức. Người ta không biết nhưng tôi thì biết rất rõ, vì tôi là em họ của chị, hàng xóm của anh chị, ngày chị dưới quê lên phố làm, chị dẫn tôi theo cho thuê căn phòng ở tạm. Chẳng phải vì chị không muốn đối xử với anh theo cách anh đã làm với mình, mà vì chị không thể, vì chị kiêu hãnh.
Chị có một cái quán nhỏ bán xôi sáng, tuy chỉ là quán nhỏ nhưng vì đây là khu phố lao động, lại gần trường học nên người ta ăn nhiều. Lâu dần sinh lời, cũng có đồng ra đồng vào. Anh chỉ là công nhân xây dựng, ngày thầu thì đi làm, còn không thì cũng chỉ ở nhà, lân la phụ chị. Hai người có với nhau những năm mặt con, đứa lớn nhất cũng đã hai mươi, còn nhỏ thì mới lên tám. Những tưởng cuộc sống gia đình cứ êm đềm trôi qua như thế thì tất cả lại đổi thay chỉ vì một chữ tiền. Chị nhân rộng quán xôi của mình ra thành nhiều chi nhánh đồng nghĩa với việc chị ngày càng kiếm được nhiều tiền hơn. Và khi tiền chị kiếm được ngày càng nhiều, tiếng nói của anh trong gia đình lại có vị thế ít hơn. Đùng một cái chị mua nhà, căn nhà to dưới phố, tôi cũng theo chị ở nhờ một góc nhỏ. Lúc này tính tình chị bắt đầu đổi khác.
Người ta hay bảo đồng tiền có một mãnh lực mê hồn, nó dễ khiến người ta thay đổi. Nhưng tôi lại nghĩ, là đồng tiền hay bởi tại con người? Chung quy lại tôi thấy đồng tiền cũng chỉ là một cơ hội, cơ hội để xét đoán mối quan hệ giữa người và người, nếu con người đừng bị cám dỗ, đừng vì nó mà thoái hóa nhân cách, chẳng phải đồng tiền chẳng bao giờ mang tiếng xấu như vậy hay sao? Người ta lại thường bảo đàn ông mà không làm chủ gia đình thì nhục lắm, rồi cái nòi bám váy vợ thì ôi thôi đủ thứ chuyện để người ta phì vào mũi. Tôi nghĩ anh cũng biết người ta điều ra tiếng vào khi sống nhờ vào vợ, chỉ có điều anh giả lảng. Cái giả lảng của anh người tốt thì bảo “ để yên cho nó sống, nó cũng đi làm phụ vợ, chỉ là không nhiều tiền bằng vợ thôi”; kẻ nhiều chuyện thì lại buông :” thằng đó mặt dày, về bám váy vợ mà không biết nhục”. Tôi nghe tất về kể lại cho anh. Anh cười xòa:
Người ta nói gì mặc người ta, chán thì người ta không nói nữa thôi.
Nhưng anh cứ để người ta đồn sai sự thật thế à?
Cũng đâu có sai, kì thực chị làm nhiều tiền hơn anh mà.
Bỗng dưng, tôi thấy anh… nhục như người ta nói. Với chí trai của một thằng mới mười tám tuổi, tâm niệm lúc
Nào trong đầu cũng là phái mạnh phải “ thống lĩnh” phái yếu và nhục nhất của thằng đàn ông đó là để vợ nuôi. Bởi thế, tôi thấy anh nhu nhược, nhu nhược đến độ từ lúc nào trong nhà vắng bóng tiếng nói của anh. Chị quyết định mọi thứ từ việc cho con cái học trường nào đến việc mua những đồ vật dụng trong gia đình hay quyết định những việc liên quan đến gia đình như đi thăm hai bên nội ngoại ngày nào, anh chỉ răm rắp tuân theo tất cả. Anh im lặng đến độ tôi nghĩ rằng tôi nhớ tiếng nói trầm ấm của anh.
Nhưng rồi tôi nhận ra không phải anh không buồn vì những lời nói đó, chỉ là anh không thể nói. Đó là khi tôi nghe anh chị cãi nhau lần đầu tiên sau từng ấy năm. Tiếng chị át hẳn tiếng anh :” Lúc nào anh cũng vậy,.. anh mua về… hỏi ý tôi chưa… Anh thật chẳng hiểu nổi”. Thi thoảng tôi nghe tiếng yếu ớt từ anh :” Mình nói nhỏ thôi, các con nghe thì không tốt”. “ Vậy ý anh nói là tôi đang nói điều không tốt à? Tôi đang mắng anh sai đấy phải không?” rồi tôi không nghe thấy anh nói gì nữa, hoặc giả anh phản kháng lại một cách yếu ớt đến độ tôi không nhận ra. Tối, tôi thức khuya vì học ôn, tối khát nước đi lùng nước uống thấy anh ngồi hút thuốc trên ban công. Năm mươi tuổi đầu, đàn ông có cái gì mà chưa từng trải?
Anh buồn vì chị nói thế sao?
Anh buồn vì chị ấy thay đổi quá nhiều.
Nếu không thể tiếp tục sao còn gượng ép? Em thấy anh mệt mỏi quá rồi
Vợ chồng hai ba chục năm, năm mặt con cả rồi, anh không muốn con anh thành kẻ không cha
Tôi im lặng không nói gì. Tôi cảm thấy cái chí trai mà tôi nói, tôi nghĩ lúc trước bỗng trở nên quá nhỏ bé trước
Lời nói của một người cha. Anh đã hút rất nhiều thuốc trong đêm hôm đó, còn tôi, tôi chỉ biết nhìn làn khói thả trong đêm.
Chị đi học nhảy đầm. Đàn bà có của thường chuộng cái “ món đó”. Chị kết thân với mấy mụ tú rảnh rỗi dư tiền, họ thường kéo nhau đi đây đó chơi lúc cuối tuần. Cứ lúc rảnh rỗi chị lại kéo họ về căn nhà mới, rồi cả đám thi nhau đánh bài chắn, những con bài nhỏ nhỏ mà đàn bà thời xưa vẫn hay chơi, nếu dư ra hay cũ đi người ta hay gấp lại thành hình lọ hoa hay hạc. Mỗi lần các mụ kéo về tôi lại không thể nào học bài được, thể nào cũng trốn. Còn anh, có lần bị mấy mụ tú ấy nhầm là người giúp việc trong nhà, sai đi lấy nước, anh cũng lẳng lặng mà làm. Chừng sau, chị xấu hổ, cấm tiệt anh xuất hiện khi có bạn chị tới.
Chị đi nhảy đầm, ăn mặc diêm dúa, cứ hàng tuần đều có nhạc xập xình. Hội chị không chỉ các bà mà còn có vài ông “ thiếu vợ” cũng tham gia. Nhìn cảnh họ uốn éo lắc lư trước mặt đám nhỏ, anh góp ý:
Mính muốn nhảy đầm, mình qua nhà khác, đám trẻ nhìn thấy lại không hay. Những hành động đó, tôi thấy không đứng đắn.
Ý anh là sao? Y anh tôi là con đàn bà không đứng đắn? Nhà này ai mua? Ai mua mà anh có quyền lên tiếng đuổi tôi ra khỏi nhà?
Và theo sau là tiếng chửi vang động cả khu xóm của chị. Trước, hai vợ chồng còn đóng cửa bao nhau, sau mỗi
Lần chị mắng anh là dường như cả xóm đều biết. Đáp lại anh chỉ từ tốn giải thích nhưng chị cứ như bất kham, anh càng nhịn bao nhiêu, chị càng lấn tới. Hàng xóm xách dép đến coi chị càng lấy đó làm oai, mắng anh không tiếc lời, thậm chí cuối cùng còn chốt hạ :” Nhà này tôi lo tất cả, đừng nghĩ vượt mặt được tôi”. Rồi chị quay đi. Anh thấy tôi đang nhìn chỉ cười. Cái giá của một người cha đắng thế sao anh?
Rồi tôi bắt đầu nghe người ta đồn anh ngoại tình. Người ta lại được dịp xỉa xói anh, nào là đàn ông bạc nửa đầu còn ham của lạ, nào là bám váy vợ mà đòi phản bội vợ. Tôi biết hết. Có đôi lần tôi cũng thấy anh và chị ấy, một người đàn bà có gương mặt phúc hậu.
Chị ấy chưa chồng- Anh nói với tôi- Là bạn thuở nhỏ của nhau, rồi anh lấy chị của em, duyên lỡ dỡ, nay mới gặp lại.
Anh thương chị ấy sao?
Chị ấy thương anh.
Câu nói đó dường như trở nên quan trọng hơn tất thảy. Chị tôi biết tất cả nhưng chị chỉ nói với tôi:” Anh ta
không dám đâu. Chị nuôi anh ta mà.”, và cảm xúc của tôi nó ngược đời đến nỗi tôi ghét cả chị của mình. Nhưng tôi biết, cả anh cũng đang dang dở, anh vừa muốn đến với người phụ nữ kia, vừa ngần ngại khi nó trái với triết lý sống cảu mình. Rõ ràng anh vẫn đang cố gắng giữ hạnh phúc gia đình. Anh cười với tôi :” Anh vừa mua thứ này, hôm nay sinh nhật chị. Ngày trước chị thích nhất món này”. Mở ra bên trong là mớ khoai lang nóng hổi mà theo câu chuyện ngày xưa chị kể khi tôi còn nhỏ, là hai người nghèo đến nỗi chẳng có tiền mua đồ ăn,c ứ sinh nhật chị là anh mua món này là món ngon nhất, đổi bữa, xem như quý giá nhất. Tôi cười cười thế nhưng đi học về tôi thấy đám khoai lang nằm trong sọt rác, chị đang xỉa xói anh không tiếc lời :” Ý anh là sao? Sinh nhật tôi anh không mua nổi thứ gì ý nghĩa hay sao mà mua thứ này? Anh đang muốn móc tôi, cho tôi quay lại ngày cơ hàn ngày ấy hay sao?” Anh nhìn tôi thẫn thờ, tôi nhìn anh tiếc nuối.
Rồi tôi đi thực tế suốt mấy tháng, ngày tôi về, thấy chị đang khóc dưới bếp, anh thì đang xếp dọn đồ đạc, lá đơn li dị thẫn thờ nằm trên bàn. Tôi không hỏi, tôi cứ cảm thấy đó là điều tất yếu. Việc hai người không còn yêu thương nhau rồi xa nhau, việc hai người chẳng còn giành nỗi sự thấu hiểu cho nhau thì xa là điều tất yếu. Nhìn thấy tôi, anh vỗ vai:
Ráng đậu đại học, anh sẽ thưởng.
Tôi gật đầu, tôi biết anh đang nói thật. Tôi không phán xét anh, cũng không thông cảm cho anh. Chỉ như một

Người biết chuyện để anh đi thật nhẹ nhàng. Anh đẩy cửa bước đi, anh đang đến với hạnh phúc mới, ánh sáng le lói chiếu vào. Một hạnh phúc dù rất muộn.

Lê Hứa Huyền Trân

Categories
Chuyện ngắn

O Lựu


337840889_205626768739964_1935024350917529955_n

Hương Thủy

Năm tôi lên chín tuổi, mẹ mất. Chị Cả đi lấy chồng xa, chị Hai còn dại lại đang cắp sách đến trường, Ba tôi nhờ người bác tìm hộ một người giúp việc. Và o Lựu xuất hiện trong gia đình. O Lựu người làng Bồ Bản, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Nhà nghèo lại đông con, mẹ o quyết định cho o lên tỉnh “đi ở ” kiếm chút vốn và cũng để bớt một miệng ăn. Năm ấy o vừa mười sáu tuổi.

Không giống những người làm ruộng vất vả khác, o Lựu có nước da trắng xanh, đuôi mắt dài, tóc chấm vai được cặp lại bằng một cái kẹp ba lá. Vào nhà được mươi lăm phút, o đã tất tả tìm cái chổi que quét dọn bếp núc. Có o Lựu, tôi khỏi phải ăn những bát cơm nửa sống nửa chín do chị Hai nấu, anh tôi không còn nhăn mặt trước dĩa chả trứng khét lẹt và ba tôi đã có ấm nước sôi pha trà buổi sáng. O dạy chị tôi “xuốc cươi thì phải khom người xuống”, dặn tôi “đừng leo cây ổi mà bổ lọi tay.” Mất mẹ lúc còn quá nhỏ, ba luôn nghiêm nghị, ít khi biểu hiện tình cảm ra bên ngoài, tôi chỉ còn o Lựu để nhỏng nhẽo. “ O Lựu rửa chân cho em…O Lựu cõng em đi chợ…O Lựu con mèo cào em”…Tai quái hơn, tôi còn bắt o làm bò cho mình cởi và khi muốn “bò ” ngừng lại, tôi đấm thình thịch vào lưng. O lẵng lặng chiều theo ý tôi, không một lời phàn nàn. Đêm đêm khi gãi lưng cho tôi ngủ, o hay kể chuyện làng mình. Chuyện đền thờ Thần Hoàng có cây đa cao vút với con tinh áo trắng chuyên dọa người đi qua; chuyện bà lão hiền lành nhặt được cục vàng khi mò cua ngoài ruộng…Thỉnh thoảng, o lại đọc những câu ca dao mang âm điệu buồn bã “Gió đưa cây cải về trời. Rau răm ở lại chịu lời đắng cay” hoặc “Chèo đò bẻ bắp bên sông. Bắp chưa có trái bẻ bông chèo về”…Tất cả ru tôi vào giấc ngủ êm đềm không mộng mị.

An phận thủ thường như những người giúp việc khác nhưng o Lựu lại có một sở thích kỳ lạ: thích chụp ảnh. Hè năm đó, cậu tôi ở Huế ra chơi đem theo cái máy ảnh Canon và chụp cho hầu hết các thành viên trong gia đình nhằm mục đích trau dồi tay nghề tài tử.Thấy sự hiền lành của o Lựu, cậu có nhã ý chụp cho o một tấm hình dưới gốc cây ổi. Ảnh sang ra, o trang trọng đón nhận bằng cả hai tay.

O mua cho tôi một đồng kẹo Gia Địa và năn nỉ tôi viết cho hai chữ “Kỷ niệm” ngòng ngoèo đằng sau ảnh. Những ngày tiếp , o thể hiện sự biết ơn của mình một cách thầm lặng: giặt sạch bộ đồ nhà binh dày cộp , cắm cúi đánh bóng đôi giày “ trấn thủ lưu đồn” của cậu. O xin tờ giấy bóng kính, bao tấm ảnh và cẩn thận xếp nó vào đáy rương. Những buổi trưa rổi rãnh, ngồi sau hiên nhà bếp, o lôi ra ngắm nghía say sưa . Dưới đôi mắt một đứa con nít như tôi, tấm ảnh chẳng có chi xuất sắc nếu không nói là xấu bởi vì o Lựu trong hình bị xén mất một chân. O nói dưới làng chỉ có nhà giàu mới dám lên tỉnh chụp bóng để sau này có ảnh mà thờ. O ao ước phải chi có nhiều tiền sẽ ra chụp một cái hình màu ở tiệm LIDO ngoài chợ tỉnh.

Mỗi năm o Lựu được về thăm nhà một lần vào ngày hai bảy tháng Chạp. Khi đó o mặc chiếc áo dài xanh của chị Cả tôi cho, đi đôi guốc mộc, đầu đội nón lá. Tiền công xá ba tôi đưa, o gói trong chiếc khăn mùi xoa và lận vào lưng quần. O xin anh tôi mấy cuốn tạp chí Thế giới tự do về cho em dán trên vách nhà. Vắng o, tôi bần thần cả mấy ngày Tết. Năm nào o lên muộn, ngồi trong lớp tôi sốt ruột sốt gan. Và thật sung sướng khi đi học về đã thấy o Lựu trong nhà bếp. O đem lên làm quà những củ khoai từ đầy bột, mớ khoai lang tươm mật và những trái khế vàng ươm.Trước vẻ mặt phụng phịu của tôi, o hứa lần sau sẽ lên nhanh, sẽ xin cho tôi về Bồ Bản, một làng quê nghèo có lũy tre xanh, có động cát trắng với bao nhiêu là sim, móc và những bông hoa chạc chìu thơm ngát.

Một hôm, tôi nằm ở nhà trên, say sưa dán mắt vào cuốn “Lửa cháy thành Phiên Ngung” thì o Lựu đi chợ về. Đã hơi trưa, o gọi vọng lên nhờ tôi lấy giúp cái kéo cắt râu tôm kịp nấu canh cho ba tôi về ăn. Mê mải với chàng trai Hoàng Anh Kiệt hào hùng, o giục giã vài ba lượt tôi mới nhỏm dậy làu bàu rồi vơ cây kéo chạy vội xuống nhà bếp ném đại về phía o đang lúi húi. Cây kéo không rơi xuống đất mà lại phi thẳng một đường vào trán, dòng máu đỏ tuôn ra. O cúi xuống, gục mặt vào đầu gối để cầm máu.Tôi hoảng hồn đứng lặng. Anh tôi vội vã lấy bông và thuốc đỏ rịt vết thương.Trưa hôm ấy khi thấy trán o bị băng, ba tôi hỏi nguyên do, o nói trớ là bị va đầu vào cột nhà. O đã giúp tôi thoát khỏi trận đòn chắc chắn sẽ xảy ra. Sau đó trên trán o có một vết sẹo khoảng khoảng ba phân vắt ngang.

O Lựu ở với chúng tôi được 4 năm. Khi tôi vừa lên lớp đệ lục thì mạ o lên xin cho o về làng để “lấy dôông”. Ở nhà quê, hai mươi mà chưa có “dôông”là coi như ế. Tôi nằng nặc không cho o về. Mặc kệ cây roi mây và lời dậm dọa của ba, mặc kệ lời dụ dỗ và những trái khế ngọt của mạ o, tôi ôm o chặt cứng. Đêm ấy, trước khi đi ngủ tôi lấy cái khăn buộc chặt tay tôi vào tay o nhưng sáng mai thức dậy o đã đi từ lúc nào. O để lại cho tôi năm đồng bạc mới trên gối. Tôi khóc tỉ tê suốt cả buổi và nhất định sẽ nhờ ai đó chở về làng tìm o. Chị Hai cứ chế diễu tôi vô duyên, không để o Lựu đi lấy chồng.

Nhưng đứa bé 12 tuổi không dễ dàng thực hiện được dự tính. Làng Bồ Bản quá xa so với đôi chân bé nhỏ của tôi. Chiều chiều tôi ngẩn ngơ ra sân ngóng đợi. Có lần, chị tôi đi sinh hoạt Hội Hồng Thập Tự Thị xã đem về tập san Đan Tay, trong đó có một bài thơ của thầy Lê Văn Mãn dạy Sử Địa nói về Bồ Bản. Bài thơ có lẽ không có chi xuất sắc nhưng tôi thuộc nằm lòng vì nó nhắc đến làng o Lựu.

Đường về Bồ Bản không xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Chưa đi những ngóng cùng trông
Khi về chỉ thấy đồng không tre già
*
Đường về Bồ Bản xa không
Muốn về nơi ấy mà lòng phân vân
Quê nhà vắng vẻ. Trong sân
Hàng cây không lá muôn phần nhớ thương.
Phải chi có o Lựu ở đây, nghe tôi đọc chắc o thích lắm. Rồi thời gian qua… Trường lớp, bạn bè và những cuộc vui cuốn hút tôi. Tôi đã lớn, đã biết đi xe đạp rồi Honda nhưng làng o Lựu trở thành vùng xôi đậu, mất an ninh. Đôi lần nhớ về o Lựu tôi ngậm ngùi. Chắc o đã có một gia đình êm ấm.
Năm 1972 mùa hè chinh chiến, gia đình tôi cũng bỏ Quảng Trị mà đi. Và từ đó tôi không còn dịp quay lại tỉnh lỵ nhỏ bé này.
Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm nhưng với cái lý lịch không mấy “sạch sẽ”: Ba “ngụy quyền”; anh trai, anh rể đi “cải tạo”; với cái nhìn không mấy thiện cảm của loại Sinh viên “Cách mạng 30” về một cô gái trước 75 hay mặc váy lên giảng đường; đi “lao động Xã hội chủ nghĩa ”vẫn áo Pull quần Jean “tàn dư Mỹ Ngụy ”, tôi không được bổ nhiệm. Buồn tình tôi bỏ về Đà Lạt.
Thành phố cao nguyên. Những ngày nằm dài ủ ê nghe thông reo. Chị Cả tôi, từ một mệnh phụ đã bước xuống cuộc đời. Đồ đạc trong nhà bán dần hết. Một nách ba con với gánh hàng trên vai, chị tôi vào bán trong Hồ Than Thở. Đây là một thắng cảnh của Đà Lạt. Cạnh đó là Trường Võ Bị Quốc Gia nay đã đổi tên thành Học Viện Lục Quân. Hàng ngày tôi nhìn sang mà lòng ngậm ngùi. Anh rể và anh trai tôi đều xuất thân từ ngôi trường quân sự danh giá này và bây giờ cả hai đều bị lưu đày ở nơi thâm sơn cùng cốc. Cả hai anh đều bị xếp vào loại “ác ôn” khi chọn lựa binh chủng Biệt Động quân với chiếc mũ nâu, cháu tôi khi chơi đánh nhau vẫn quen mồm “Ranger ranger, kill…kill ”…Khách hàng phần đông là những bộ đội “ cách mạng” các miền; thỉnh thoảng có những chuyến xe Saigon của các du khách lãng mạn đi tìm dấu tích của Đồi thông hai mộ một thuở . Sang hơn hết là xe của những cán bộ cao cấp, những đoàn chuyên gia nước ngoài đi ngoạn cảnh mà họ dùng bằng hai từ tối nghĩa “ Tham quan”. Hàng họ ngoài thuốc lá, bánh kẹo thông thường, chị tôi bày thêm tranh khắc bút lửa, những con cù lần bằng gốc cây… Mặt hàng này du khách hay mua làm kỷ niệm.Tôi thường giúp chị trong khâu bán hàng.
Buổi trưa, úp mặt vào cuốn “Người xa lạ” của A.Camus, tôi lơ mơ buồn bã. Đang miên man nhớ câu thơ của Vũ Hoàng Chương “Đời tàn trong ngõ hẹp”, tôi giật mình với tiếng reo hớn hở của người bán hàng bên cạnh: “A, khách Tây, khách Tây”. Hầu như các quán hàng đều tỉnh ngủ. Mối “sộp” đây rồi!
Tính sĩ diện vẫn còn khiến tôi không thể chạy theo chèo kéo khách như những người khác.Thôi thì ngồi yên ngâm nga thơ Nguyễn Công Trứ: “ Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất. Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh Sằn”. Các cháu ơi! Dì chịu thôi. Chiều nay chúng ta ăn khoai tây vừa mót được dưới Trại Hầm hôm qua chấm với muối vậy.
Gạt những người xúm quanh, một ông Tây bước về gian hàng bé nhỏ của tôi, chăm chú nhìn những bức tranh rồi cúi xuống chọn lựa…
Lạy Chúa, lạy Phật phù hộ! Chị tôi đang đi thăm nuôi anh rể ở trại cải tạo Sông Mao. Gạo trong nhà đã hết. Trống ngực tôi đập nhanh. Bất ngờ, ông Tây hướng về phía nhóm du khách và reo vang như vừa phát hiện một điều gì kỳ thú:
-Honey, come here. I saw your village in the picture… Người phụ nữ tóc vàng váy đỏ, dáng dấp Á Đông bước tới. Bà ta có vẻ bồi hồi khi ngắm bức tranh có mái tranh với đụn rơm, cánh đồng, con trâu đang gặm cỏ. Bà ngước lên nhìn tôi chăm chú rồi thảng thốt kêu lên…bằng tiếng Việt:
-Bé Ti, bé Ti phải không? O Lựu nì!
Tôi há hốc miệng. O Lựu, người giúp việc năm xưa? Như sợ tôi không tin, người phụ nữ vén tóc trán:
-Vết sẹo nì. O đây, o đây…
Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Sự nhớ thương pha chút tủi hổ làm tôi nghẹn ngào.Tôi gục đầu vào mái tóc o như muốn tìm lại mùi hương thời thơ ấu…
Phút xúc động lắng xuống, o giới thiệu: “Đây là Tim John, chồng o.”
Để mặc ông chồng đứng cười hiền ngơ ngác, o kéo tôi ngồi xuống kể chuyện tháng ngày qua…
Từ giã nhà tôi, o Lựu về làng lấy chồng theo sự sắp xếp của cha mẹ. Chồng o là một anh nông dân hiền lành và chăm chỉ làm ăn. Được hai năm, chưa kịp có con, anh đã chết do một phát đạn ngu ngơ không biết của phe nào khi đang cày bừa trên mảnh ruộng nhà. Rồi làng Bồ Bản chìm ngập trong lửa đạn. Ban ngày lính cộng hòa hành quân bố ráp, ban đêm du kích bò ra hoạt động, dân chúng toàn phải chui hầm.
Trong một trận pháo kích của Cộng quân, nhà o bị sập. Gia đình chết hết, o bị thương nặng được máy bay trực thăng của tổ chức Hồng thập tự đưa ra Hạm đội cứu chữa. Không còn gia đình, làng mạc tan hoang sau trận chiến mùa hè 1972, o Lựu không còn nơi để trở về. Số phận đưa đẩy, Tim John là người phụ tá bác sỹ điều trị cho o đưa o qua Mỹ và họ trở thành vợ chồng…Năm nay,Tim đại diện cho một tổ chức nhân đạo sang giúp đỡ trẻ em khuyết tật Việt Nam do chiến tranh, o theo chồng về thăm quê hương và tình cờ gặp tôi.
Vẫn là sự thương yêu chân tình đối với “ cô chủ nhỏ” của mười năm trước, o Lựu vuốt ve mái tóc tôi, xuýt xoa khi nắn bóp cơ thể gầy guộc thiếu ăn của “bé Ti ” , chảy nước mắt khi nghe anh tôi đi “cải tạo” tận miền núi Hoàng Liên Sơn rừng sâu nước độc và thở dài khi biết chị tôi đang lặn lội đi thăm chồng tù tội. Ôi! Vẫn là một o Lựu chơn chất, hiền lành của ngôi làng Bồ Bản xa xưa.
Lúc chia tay, o tế nhị dúi vào túi áo tôi một cuộn tiền rồi tất tả lên xe. Vẫy tay chào theo tôi không biết là mình đang mơ hay tỉnh. Lần đầu tiên, tôi nhìn thấy những tờ 100 đô la Mỹ.
Nhờ số tiền của o Lựu , chị tôi từ giã nghề buôn gánh bán bưng. Chị sang một sạp hàng tạp hóa ở chợ Đa lạt, nuôi 3 đứa con ăn học chờ chồng trở về từ trại giam.
Sáu năm sau anh chị cũng ra nước ngoài theo diện HO. Trên đất khách quê người những ngày đầu tiên, anh chị được vợ chồng o Lựu tận tình giúp đỡ.Tiếc rằng do vết thương chiến tranh, o Lựu không thể có con. Vợ chồng o nhận đứa con trai của anh chị tôi làm con đỡ đầu.
Năm ngoái tôi lặng người khi nghe chị tôi gọi điện thoại báo tin o Lựu đã qua đời sau một cơn đột quỵ. Ôi ! O Lựu, bóng mát trên thiên đường ký ức của tôi, ân nhân của gia đình tôi trong cơn khốn cùng…Tôi khóc o như khóc một người thân yêu nhất.
O Lựu
Truyện ngắn: Hương Thủy

Chú thích:

• xuốc cươi: quét sân

• bổ : té

• lọi tay: gãy tay

Categories
Chuyện ngắn

CÚNG CHỒNG


x9a56e532a0ab90d3371fa9f506d707ed.jpg,qrt=20220902163539.pagespeed.ic.qOUlLYDjis

CÚNG CHỒNG

Chồng chị mất sớm. Đêm đêm, chị nằm mơ thấy chồng về báo mộng… Đêm ấy, chị thấy anh về, thân hình tiều tuỵ, ốm đói. Anh vừa khóc vừa nói với chị là ở dưới ấy, anh nghèo lắm, không có gì ăn và không có tiền xài…

Hôm sau, dù chưa đến ngày giỗ, chị chạy ra chợ mua đồ về làm mâm cơm thịnh soạn cúng chồng. Chị cũng mua rất nhiều tiền vàng mã để đốt cho anh…
Đêm hôm đó, và những đêm sau, chị lại mơ thấy anh. Lần này, trông anh khoẻ mạnh hơn. Trong giấc mơ, chị hỏi anh sao lâu quá anh không gọi cho chị… Anh cười bảo với chị “Dưới này anh đâu có phone mà gọi về cho em được!” Chị và anh tâm sự mãi đến khi con gà trống cất tiếng gáy làm chị giật mình. Chị với tay xuống đất nhặt cái iphone, rồi như nhớ ra điều gì, chị dậy sớm, mặc đồ, chạy ra chợ huyện. Đến chợ thì vừa có mấy tiệm mở cửa. Chị mua một cái iphone bằng giấy và một ít vàng mã, đem thẳng ra mộ anh. Chị đốt cho anh cái iphone, để anh có cái mà gọi về…
Đêm, chị lại nằm mơ anh gọi về cho chị… Chị khóc:
– “Sao hôm nay anh không về thăm em mà lại gọi?”
– “Anh vừa phải dọn đến chổ mới, hơi xa… ” Anh bảo với chị. “May mà có cái phone em mới gửi xuống, nên anh tranh thủ gọi về thăm em…”
Hôm ấy ra chợ, chị buồn buồn, đang lẩn thơ, lẩn thẩn thì có tiếng còi xe làm chị giật thót. Chị chạy vội vào lề khi chiếc xe con phóng qua ngay chổ chị vừa đứng. Hú hồn! Chị toát mồ hôi, rồi tỉnh hẳn. Chị như nhớ ra điều gì… Chị vào tiệm bán đồ hàng mã ông Lợi, hỏi mua một chiếc xe hơi…
Chiều ấy chị lại nhang đèn khấn vái và đốt gửi cho anh chiếc xe hơi… để anh có xe chạy về thăm chị mỗi đêm…
Đêm hôm ấy, anh về thăm chị… bằng chiếc xe hơi chị mới đốt cho anh khi chiều. Vợ chồng lại thủ thỉ cả đêm…
… Chiều hôm nay, vô tình chị gặp lại một người bạn trai cũ. Hai người yêu nhau trước khi chị đến với chồng chị. Anh ấy vẫn còn đẹp trai và lãng tử như ngày nào… Nếu ngày ấy, cha mẹ đừng cấm chị yêu anh ấy, thì có lẽ họ đã cưới nhau rồi. Bây giờ, anh ấy cũng độc thân vì vợ anh ấy mới vừa ly dị và dẫn con vào Nam sinh sống.
Trái tim đang đau thương dịu đi phần nào… Rồi chuyện gì đến, phải đến. Giữa anh và chị đã không còn rào cản nào cả… Tình yêu mới, nhưng cũ, nồng nàn và mãnh liệt ngay từ những ngày đầu tiên. Chị dường như quên hẳn chồng mình. Khá lâu…
Đêm ấy, người tình không đến. Chị ngủ một mình, thì chồng chị lại về. Anh khóc năn nỉ xin chị đừng bỏ anh… Chị tỉnh dậy sau cơn ác mộng. Cả ngày hôm đó chị buồn, không muốn làm gì, thẩn thẩn thờ thờ. Chị vừa thương chồng chị, lại vừa thương người tình mới gặp lại sau bao năm xa cách… Chị không dám bỏ người tình cũ vì anh là người duy nhất chị có thể bám víu vào lúc này. Nhưng chị cũng sợ anh chồng dưới suối vàng buồn, cô đơn tội nghiệp.
Hôm ấy ra chợ, chị lại đi ngang tiệm hàng mã ông Lợi. Nhìn vào trong tiệm, chị thấy hàng mới mua về, còn chất đống, chưa chưng ra kệ. Có đủ loại hàng mã, từ nhà lầu, xe hơi. Lại có cả hình phụ nữ mặc áo tứ thân… Chị dừng lại ngắm… Một ý tưởng loé lên trong đầu chị. Chị hỏi mua một toà nhà lầu và một hình nhân nữ.
Chiều hôm ấy, chị lại làm cơm cúng chồng, mặc dù cũng chưa đến ngày giỗ. Chị đốt gửi cho anh một căn nhà ba tầng, và một người con gái…
Chị thở phào như vừa làm tròn trách nhiệm với anh. Vậy là từ đó về sau, anh sẽ có người bầu bạn dưới chốn suối vàng. Anh sẽ không phải về khóc lóc với chị nữa. Chị được rảnh rang ôn lại mối tình xưa với người yêu cũ…

Đoản Kiếm

Categories
Chuyện ngắn

LY HÔN XẾ CHIỀU


unnamed - 2021-09-18T191938.107

LY HÔN XẾ CHIỀU

Trần Thị Linh Miêu

“ Vậy ai đang và chuẩn bị đi trông cháu, để ông ở nhà một mình nên xem bài này …”
Tháng trước, thấy cán bộ địa chính xã đến nhà ông Phượng hàng xóm đo đạc, ghi chép, tôi nghĩ chắc ông Phượng chuẩn bị bán đất. Hôm qua, thấy bà Phượng về, tất tả thu dọn hành lý cho một chiếc xe tải nhỏ chở đi, tôi và cả xóm mới hay ông bà đã hoàn tất thủ tục ly hôn.
Tài sản cũng đã phân chia xong. Mảnh đất của gia đình ông chia 4. Ông, bà, 2 cô con gái – mỗi người một suất. Bà đang làm thủ tục bán suất đất của mình để chia cho 2 con gái, rồi dọn đi sống cùng 1 trong 2 cô ấy.
Tin tức loang ra quanh xóm nhanh chóng. Một cuộc ly hôn khi cả hai vợ chồng đã ở tuổi sáu, bảy mươi ư?
Thật ra cũng không quá lạ. Nhiều cặp vợ chồng già đã chia tay nhau ở chặng cuối cuộc đời, vì nhiều nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân ông bà Phượng ly hôn thì tôi vô cùng ngạc nhiên: Ông không thể chịu đựng được cái tình yêu quá lớn lao mà bà Phượng dành cho hai cô con gái cùng đám cháu ngoại. Cái tình yêu khiến nghĩa vợ chồng của ông bà bị đẩy sang bên lề.
Xưa các cụ vẫn bảo “Con chăm cha không bằng bà chăm ông”. Chính vì cái nghĩa tình của các cặp vợ chồng khi về già với nhau mà hiếm có người con nào thay thế được đó, nên nhiều cụ ông góa vợ, nhiều cụ bà góa chồng khi tuổi đã chấp chới thế giới bên kia đã tìm kiếm gá nghĩa. Còn gì tốt đẹp hơn việc hai người già tựa nương vào nhau lúc cô đơn, đau ốm cuối đời. Thế mà vợ chồng ông bà Phượng lại rời xa nhau, mỗi người một ngả.
Cay đắng với cuộc hôn nhân đứt gánh cuối đường đời, ông chia sẻ: Ông bà yêu thương và đến với nhau là tự nguyện, không ai cấm cản, cuộc sống cũng đủ đầy, hạnh phúc. Chỉ là, từ khi có con, bản năng yêu thương con cái của một người mẹ trong bà quá lớn, khiến cho ông ngay lập tức bị gạt ra bên lề.
Mọi ưu tiên cả về vật chất và tình cảm đều phải dành cho con trước hết. Ban đầu ông nghĩ các con còn nhỏ nên bà dồn hết tình yêu cho chúng là dễ hiểu. Khi chúng trưởng thành, có cuộc sống mới, bà không phải lo toan cho chúng, ông nghĩ tình cảm và thời gian của bà sẽ lại dồn cho ông.
Nhưng ông đã nhầm. Các con càng lớn lên, ông càng lép vế. Con gái lớn không thích nuôi chó, con gái nhỏ không thích nuôi mèo, thế là ông không bao giờ được nuôi và bầu bạn với hai loài vật mà ông rất yêu thích. Ngay cả khi chúng đã rời khỏi gia đình và có cuộc sống riêng, bà cũng không cho ông được thỏa mãn mong muốn nuôi chó mèo của mình.
Khi cô con gái lớn lập gia đình riêng, bà vẫn không ngừng chăm lo cho gia đình nhỏ của cô. Từ con gà, quả trứng, mớ rau sạch mà tự trồng tự nuôi được gửi cho con, cho cháu, đến những cuộc điện thoại dài hàng tiếng đồng hồ kể lể những chuyện chẳng đâu vào đâu.
Con gái út kết hôn cũng vậy, bà bắt đầu trường kỳ đi chăm sóc cháu ngoại thứ nhất, cháu ngoại thứ 2, rồi cháu ngoại… thứ 4. Gần 10 năm trời ông vò võ một mình, vì quanh năm ngày tháng bà ở hết nhà con gái lớn lại ở nhà con gái nhỏ.
Nhiều khi ông vờ ốm để mong bà về với ông vài ngày, vài tuần. Nhưng lần nào, kể cả khi ông ốm giả vờ hay ốm thật, bà cũng chỉ về thăm qua quýt một đôi ngày, rồi lấy cớ sốt ruột không có ai lo cho “nhà chúng nó” bà lại tất tả bỏ đi.
Nhiều ông bà bạn hiến kế, rằng ông cứ thử dọa ly hôn xem bà có sợ không, mấy đứa con có cuống lên không. Ông đã dọa, và cuối cùng là ly hôn thật.
Khi bà ký vào đơn ly hôn, cầm số tiền chia đi tính toán của đứa này, đứa nọ… Ông choáng váng và hụt hẫng, ngẫm nghĩ ông chưa làm gì sai để bà và các con xa lánh, chỉ hỏi được chia bao nhiêu tiền. Mấy chục năm cùng bà xây tổ ấm, để rồi cuối đời ông mới nhận ra đó là cái tổ lạnh, một cái tổ rỗng.
Những người bạn già của ông bảo, có lẽ hai cô con gái của ông bà đã quá ích kỷ. Chúng dường như lên kế hoạch rất chặt chẽ để lợi dụng cha mẹ già chăm lo, biến thành người ở không công cho chúng. Lẽ ra, chúng phải hiểu được nỗi cô đơn của bố, và “nhường mẹ”cho bố, để họ chăm nom quây quần bên nhau. Có lẽ vì sẽ có mấy trăm triệu mà giục bà ly hôn chia tài sản gấp …

Dù thế nào, ai sai, ai đúng, thì bà cũng đã dọn đi rồi. Sáng nay tôi thấy ông vui vẻ bế một con cún nhỏ lông vàng trong tay. Có lẽ ông hy vọng từ nay nó sẽ bầu bạn cùng ông trong những ngày cô đơn cuối đời…

… …

Mới hai năm sau khi tất cả các cháu đi học thì bà sẽ là người thừa bên nhà con gái, khi rể tuyên bố :

“ Mẹ ruột tôi chưa nuôi, sao phải nuôi mẹ vợ …”

Ông nghe vậy thở dài …

Trần Thị Linh Miêu

Categories
Chuyện ngắn

VỢ TAO


VỢ TAO ❤️
332044998_1696625967402010_4141652079997850020_n

Từ hồi đẻ cho tao hai đứa con, không hiểu vì sao như người mất não. Quên quên nhớ nhớ, bán hàng nhầm lẫn, quên đơn là chuyện bình thường. May khách toàn khách hiền khách thương, thấy vợ tao quên thì nhắn, thấy vợ tao tính toán nhầm thì cười bảo tính lại.

Đi ra đến chợ quên mất định mua gì. Mua xong trả tiền không thèm cầm đồ về. Người ta lại mang về tận nhà cho. “Trất” lắm!

Hôm trước, bả tranh việc đi nộp tiền điện. Hồi lâu xong không thấy về, lấy máy gọi thì thấy máy nó vứt lăn lóc ở nhà. Xong cảm giác không ổn nên gọi cho ông anh chỗ trụ sở thì ông ý mừng như vớ được vàng:

– May quá mày đây rồi. Mày ra nộp tiền điện đi! Vợ mày quên mang ví quên điện thoại! Mang cả chìa khoá dự phòng ra nhé. Vợ mày vứt khóa xe trong cốp xong đóng rồi.

Nghe xong chả lấy gì làm lạ, bảo ông kia anh hỏi vợ em xem nó để khóa dự phòng ở đâu?
Ông ý:
– Ừ
Nó bảo không nhớ mày ạ!
Thế thôi tao thua.
Tìm được khóa ra đấy nộp tiền. Đèo nó về nó ngồi sau ôm ôm hít hít.
Hỏi sao không đi bộ về? Sao không gọi tao ra đón?
Nó bảo tự nhiên không nhớ được số. Đang ngồi nhẩm số thì chồng gọi đến. Yêu chồng lắm! Chỉ có chồng mới xuất hiện như ông bụt trong chuyện cổ tích đời em.
Pẹ! Tuy mất não nhưng vẫn không quên cách nịnh chồng.
Hôm qua! Sau một giấc ngủ trưa. Dậy nó khóc lóc gọi, anh ơi em làm mất xe rồi! Anh đi báo công an đi. Mình hoảng hồn đi hỏi han hàng xóm hết hơi xem có thấy đối tượng khả nghi, họ bảo đến xe của công an phường còn bị mất, vợ mày chuyên gia không khóa cổ khóa càng, mất không sớm thì muộn.
Nghĩ tháng cô hồn nên cũng chán chả buồn báo vội. 2 đứa lên ôm nhau tiếc của khóc lóc rồi đến tối ông ngoài ngõ gọi vào quát “Mày có ra lấy xe không cho tao đóng cửa”.
Xong con vợ mình vẫn ngơ ra: “xe gì đấy anh?”. Bị người ta chửi cho “xe sáng mày đem ra rửa thây. Không định mang về à?”.
Thế mà nó vẫn nhất quyết cãi không phải nó mang đi rửa. Chắc ông nhà rửa xe tự vào dắt ra rửa cho nó???
Tao sợ nó quá😂😂😂

Bọn mày ạ! Tao nhận ra đàn ông chúng ta phải yêu thương vợ nhiều hơn. Bởi từ một cô gái thông minh nhanh nhẹn, đẻ con cho mình xong nó như bà lão, tay nó vừa cầm bút viết, lúc sau nó có thể mang ngay vào cắm bánh cắm thịt cho lên mồm ăn vì “ôi em cứ nghĩ đang cầm cái đũa”.

Phải để ý chúng nó nhiều vào, nói yêu thương nhiều vào để tình yêu của mình ngấm sâu vào não nó. Bởi tao sợ rằng nếu vô tâm, không biết một lúc nào đấy, nó quên luôn cả mình. Một sáng nào thức giấc nó sẽ tát mình một phát rồi che ngực hoảng hốt: “Anh là ai? Sao tôi lại ở đây?? Anh đã làm gì tôi? Anh đi ra đi”.

Tao không nói đùa đâu. Bọn mất não này nguy hiểm lắm. ❤

Sưu tầm
Categories
Chuyện ngắn

Dưới những gốc nho biển


Dưới những gốc nho biển

Trịnh Y Thư

1.

Hôm cô tự kết liễu đời mình, cô mặc chiếc áo lụa trắng ra chợ huyện như một thói quen. Ra chợ nhưng cô không mua thức ăn như mọi lần về nấu cho cô và gã bác sĩ bộ đội ăn tối. Đầu óc cô hoàn toàn trống rỗng như tờ giấy trắng tinh, hai chân cô như bị vô thức sai khiến, mắt cô nhìn nhưng chẳng hình ảnh nào đập vào trí óc, và các thứ âm thanh hỗn độn của một buổi họp chợ sáng nghe như những nhiễu âm không qua máy lọc.

Cái chợ huyện thời trước chiến tranh là bãi đất trống, mùa nóng bụi đỏ mịt mù, mùa mưa bùn ngập quá mắt cá chân. Thời cải cách ruộng đất nó trở thành nơi đấu tố địa chủ. Thời chiến tranh là chỗ cán bộ tụ họp dân các làng xung quanh đến nghe thông tư, nghị quyết của nhà nước. Sau chiến tranh, dần dà mọc lên vài túp lều bạt rồi hàng quán không biết từ đâu tự động bò đến bày bát đũa, nồi niêu, thúng mủng la liệt, biến bãi đất thành một cái chợ vô tổ chức và vô cùng nhếch nhác. Bây giờ nó là cái chợ lớn nhất huyện nhưng sự vô tổ chức thì vẫn như cũ.

Hôm cô tự kết liễu đời mình, trước chợ có một vụ đâm chém nhau. Hai gã nông dân trong làng thù oán nhau chuyện gì đấy, chạm mặt nhau ngoài chợ và chỉ cần gã này chửi đổng gã kia một tiếng là nổ ngay vụ đấm đá kịch liệt và gã này rút dao đâm gã kia đến lòi ruột. Gã bị đâm giãy đành đạch vài cái đoạn tắt thở. Gã kia bỏ chạy. Có người kêu lên vài tiếng gì đó nhưng hầu hết chẳng ai buồn quan tâm, họ ngẩng đầu lên, vểnh hai tai như thể nghe ngóng xem có gì xảy ra nữa không, nhưng rồi ai nấy lại cắm cúi tiếp tục công việc đang bỏ dở. Chiếc xe công nông kéo lê đằng sau một đống cây mới đẵn hồi sáng xình xịch chạy với tốc độ sên bò. Vài chiếc xe đạp phóng vội qua, người trên xe ném cái nhìn như thắc mắc về đám người đứng lố nhố trước chợ. Một đám hiếu kỳ chừng hơn chục người xúm lại xem gã bị đâm nằm chết. Họ quan sát gã như quan sát một hiện vật trong viện bảo tàng. Bình thường có lẽ chẳng ai thèm nhìn gã vì gã xấu lắm. Xấu nhất là hàm răng vẩu. Bốn chiếc răng cửa hàm trên của gã dài quá khổ mọc chìa ra, cọc cạch khiến bộ mặt lưỡi cày của gã càng thêm méo mó, dị dạng. Người gã quắt queo như xác ướp và bây giờ gã nằm bất động dưới đất, mồm há rộng, trông như một cái xác ướp thật với tất cả sự kinh khiếp, ghê rợn của một xác ướp khô. Với cái chết gã nông dân xấu xí biến thành món vật lạ cho mọi người thưởng thức. Đám đông say sưa nhìn cái xác ướp ấn tượng nhất lịch sử văn minh loài người với cảm giác lâng lâng nhẹ nhõm bởi, địt mẹ nó, may quá mình không phải là cái xác đó. Họ chẳng thấy xót thương cho gã tí nào. Mạng người rẻ hơn bèo nhất là mạng người ở vùng đất nghèo khổ này.

Bỗng một người bỏ đi, đám đông tự động giãn ra đoạn tản mát hết. Chẳng ai muốn bị công an quấy rầy. Trước khi bỏ đi có người tìm đâu được chiếc chiếu rách che cái xác. Nhưng chiếc chiếu bé quá lại rách bươm nên chỉ đủ che vừa kín đống ruột vàng khè lòi ra bầy nhầy trên vũng máu đỏ lòm chứ khuôn mặt kinh dị của gã vẫn ngửa lên trời như thách đố với ông Xanh. Cái xác nằm trơ trọi trên mặt đất bẩn thỉu cùng với rác rưởi, giấy vụn và lá khô. Ruồi nhặng bắt đầu đánh hơi mùi xác chết bay lại bu đen kín khuôn mặt gã. Hai ba con chó hoang gầy trơ xương cũng chạy lại đứng hít hít như tìm xem có cái gì ăn được không. Cảnh tượng hãi hùng như trong cuốn phim kinh dị. Lạ lùng nữa. Lạ lùng ở chỗ không ai thèm quan tâm đến một con người vừa nhắm mắt.

2.

Bây giờ cô đi trên con đường đất đỏ dọc theo bờ sông. Nước sông đỏ lờ lợ chảy nhẹ, thao thiết. Sương sớm trên mặt sông chưa tan hết, vẫn lù mù dưới ánh dương quang sáng bạc. Cô thấy người đàn ông già lập cập từng bước chậm chạp xuống mép sông giăng vó. Ông mặc chiếc quần vải cộc, ngực áo phanh trần lộ nửa tấm thân đen đủi dày dạn gió sương, xương quai xanh lồi lõm trên ức. Ông giăng vó thành bốn góc thành thạo như thể công việc này quá dễ dàng đối với ông, như thể từ lúc còn là cậu trai mười bốn mười lăm tuổi trong làng mỗi ngày ông chỉ làm công việc duy nhất là giăng vó bắt cá. Giăng xong, ông đứng đó, mặt nước mấp mé dưới chân đất, người im phăng phắc như pho tượng, tay cầm sào vó.

Cô nhìn ông không chớp mắt. Hiện ra trong trí cô, ông là hiện thân của cuộc sống nơi đây. Nó chẳng giống tí nào với cuộc sống cô hằng tưởng tượng, và mặc dù đã một năm trời trôi qua từ ngày cô theo gã bác sĩ bộ đội về sống trên mảnh đất này, cô vẫn thấy cô không hề dính dáng gì đến nó, cô vẫn là kẻ đứng ngoài, cô vẫn dửng dưng với tất cả những sinh hoạt của nó, kể cả những sinh hoạt mà người ta gán ghép lên nó những hình dung từ văn hoa. Tất cả đối với cô chỉ là những trò thô lậu bỉ ổi, mà mục đích là che giấu những hành vi đê tiện, xấu xa đối với nhau. Người nhà quê lúc nào ngoài mặt cũng thưa bẩm lễ độ, nhưng sau lưng họ chửi nhau bằng những lời lẽ tục tằn, dơ dáy nhất ngôn ngữ loài người có thể nghĩ ra. Từ gã đảng ủy bộ mặt lúc nào cũng nghiêm trang, ăn nói từ tốn, dáng người bệ vệ, cho đến thằng bé con năm tuổi, tóc cứng như chổi xể, mặt mũi lem lấm, tinh ranh như con cáo. Tất cả như sắm một vai trò nào đó trong tiết kịch vớ vẩn do Thượng đế ném xuống trần gian mà không hề có một kịch bản nào cho các diễn viên. Có thật đây là đời sống con người hay chẳng qua chỉ là những diễn biến của những cỗ máy được sắp sẵn theo một quy trình nhất định nào đó, và những thứ gọi là sinh vật nằm trong đó chẳng hề sở hữu một đời sống đích thực nào.

Cô đứng đó cách người đàn ông giăng vó chừng mười thước, cô nhìn ông như nhìn một sinh vật lạ nhất trên đời. Ông bất giác quay lại, thấy cô, ông nở nụ cuời để lộ hàm răng vàng xỉn. “Bà bác sĩ ạ, mới sớm tinh mơ mà bà đi đâu thế?” Ông nói to, giọng thân thiện.

Cô không thể bảo ông cô đang đi tìm cái chết.

Cô nói gì đó với người đàn ông rồi quay lưng tiếp tục đi về hướng Cống Liệp. Người đàn ông cũng không nói gì thêm, ông ta quay lại với công việc cầm sào vó, thân hình vẫn im như pho tượng. Từ chỗ này ra đến Cống Liệp khoảng cách nếu đi dọc theo bờ sông thì có lẽ đến hơn ba cây, bởi thế cô đi đường tắt bằng cách trèo qua ngọn đồi dốc thoai thoải. Chân đồi toàn cỏ lác không một bóng cây nhưng lên đến đỉnh đồi cô đã trông thấy biển. Đại dương phía xa xa toàn màu xanh đen, ngọt ngào, êm ái. Cô như muốn được nó cuốn hút vào, vỗ về, ấp ủ. Cô đi xuống đồi, cách bờ biển chừng trăm thước thì dừng lại, tại đây có những gốc nho biển cao chừng bẩy tám mét, thân cây vặn vẹo, mọc trên cát thành đám. Cô tìm một gốc cây rồi ngồi bệt xuống cát, hình như đúng ngay nơi gã bác sĩ bộ đội hay đưa cô ra ngắm cảnh hoàng hôn dạo cô mới về đây.

3.

Gã bác sĩ bộ đội yêu cô lắm. Không, gã si mê cô thì đúng hơn. Cô chỉ bắt đầu để ý gã sau khi nhận ra gã đến quán uống cà phê thường xuyên, ít nhất hai ba lần mỗi tuần, đôi khi mỗi ngày. Đó là cái quán cà phê vườn nằm trước ngôi biệt thự thuộc khu sang trọng của thành phố mà gia đình người chủ cũ đã bỏ chạy di tản sang Mỹ hôm 30 tháng Tư, người chủ hiện tại là một tay cán bộ nằm vùng có thế lực trong guồng máy cai trị của chế độ mới. Thành phố mới được tiếp quản, tình hình kinh tế còn lộn xộn lắm, nhưng bà vợ tay cán bộ có máu kinh doanh, bà lợi dụng thế lực của chồng biến khoảng vườn cây cối um tùm kín đáo trước biệt thự thành một quán cà phê. Lối đi trải sỏi trắng bà để nguyên, trên bãi cỏ xanh bà cho đặt những bộ bàn ghế thâm thấp bằng gỗ xinh xinh, mỗi bộ vừa đủ cho từ hai đến bốn người ngồi. Quầy cà phê đặt trên hiên nhà, ngoài cà phê nhà bếp còn nấu vài món ăn nhẹ cho khách.

Thoạt đầu bà thuê hai ba cô gái be bé xinh xinh phục vụ, nhưng bà để ý các cô không giỏi chiều khách. Khách của bà phần nhiều là cán bộ trung cấp hoặc bộ đội mới trong rừng ra. Hai hạng người này không cảm thấy thân mật với các cô còn trong lứa tuổi học trò chỉ đáng con cháu họ. Họ thích các cô không còn trẻ trung nhưng chưa già để họ ăn nói sàm sỡ, nhả nhớt mà không thấy ngượng mồm ngượng miệng. Bà chủ quán vợ tay cựu nằm vùng giỏi tâm lý đàn ông. Sau một thời gian quán ế ẩm vì khách tới một đôi lần rồi không bao giờ trở lại, bà sa thải hết các cô be bé xinh xinh để thay vào là một ê-kíp toàn các cô các bà lỡ vận, phần nhiều là vợ sĩ quan chế độ cũ đi cải tạo không biết ngày về. Các cô các bà này cách đây mười năm là hoa khôi các trường trung học, đại học thành phố, giờ thất thế họ phải lăn xả ra xã hội kiếm sống, kiếm bằng đủ cách, may mắn lắm mới có việc làm bưng cà phê, và dĩ nhiên kể cả “đi khách.”

Quán trở thành tụ điểm cho các cuộc tìm hoa của các thành phần có máu mặt trong chế độ mới. Bà chủ quán chẳng cần quảng cáo cho dịch vụ này của bà. Một đồn năm, năm đồn mười, mười đồn trăm, và một hôm tiền chui vào két của bà nhiều đến nỗi bà đếm không kịp.

Cô chẳng còn gì để giữ, chồng cô học tập cải tạo chết mất xác trên rừng, cô cần tiền nuôi con, và đó là cách dễ dàng nhất cho cô kiếm tiền. Gã bác sĩ bộ đội ngồi ở quán cà phê cả ba tháng trời, một hôm gã thu hết can đảm ấp úng hỏi cô lúc cô ra chào: “Cô… cô… cho tôi gặp riêng cô… được không?” Cô không trả lời gã. Lúc bưng tách cà phê ra, cô để trên khay một mảnh giấy nhỏ.

Đúng giờ hẹn gã tìm đến địa chỉ căn nhà. Đó là một khu xóm tồi tàn nằm ở miệt Khánh Hội quận Tư thành phố. Căn nhà nằm cuối xóm, ngồi ngay ngạch cửa là một thằng bé trạc mười tuổi. Vừa thấy gã, nó vội vàng đứng lên, gật đầu chào, nhường chỗ cho gã lách vào nhà. Gã chưa khuất vào trong thì nó đã ngồi lại xuống ngạch cửa, mắt nhìn ra đầu xóm, như thể công việc này quá quen thuộc đối với nó. Gã bước vào, bên trong nhà ánh sáng lù mù vàng chạch từ một ngọn đèn dầu lạc leo lét cho thấy một gian phòng đủ thứ đồ đạc cũ kỹ ngổn ngang, và một chiếc giường nhỏ kê nơi góc. Vén mùng ra là một người đàn bà già nua gầy guộc. Gã khựng lại, định mở miệng xin lỗi thối lui thì bà già đã nói: “Mời thầy Hai vô lối đó.” Bà chỉ về hướng có cửa vào phòng trong. Sau ba giây đồng hồ lưỡng lự, gã tiến về phía cửa, vén bức màn trúc hình con công con phượng, bước vào. Gã thấy cô ngồi trên một chiếc giường con. Thấy gã, cô nằm xuống nhường chỗ ngoài mép giường cho gã. Gã lại ngồi lên giường bên cạnh cô. Gã phải ngồi gượng nhẹ lắm vì tiếng cót két của chiếc giường cũ ọp ẹp cứ kêu lên liên hồi. Gã rút trong túi ra một xấp giấy bạc còn thơm mùi tiền mới nhét dưới gối cô nằm. Cô bảo gã:

“Anh đi tắt đèn.”

“Không, tôi thích để đèn.” Giọng gã từ tốn, êm nhu.

Cô đưa tay lên lần cởi khuy áo nhưng gã giơ tay cản lại. Cô nhìn gã ra vẻ thắc mắc, gã bảo cô:

“Cô cứ để nguyên quần áo. Tôi chỉ ngồi đây ngắm cô thôi.”

Cô không nói gì nữa, thấy hơi lạ về trò chơi này của gã bác sĩ bộ đội, nhưng cô từng gặp những gã làng chơi có sở thích tình dục kỳ quặc, thậm chí quái đản, nên cô chẳng lấy gì làm kinh ngạc, cô nằm yên cho gã ngắm mình. Gã ngồi ngang đùi cô, từ vị trí đó, gã có thể ngắm mặt cô rồi đến bộ ngực vun tròn, và xuống dần hạ thể nơi cặp đùi đàn bà săn chắc hiện rõ dưới lớp vải mỏng của chiếc quần tây màu đen. Gã ngồi nhìn cô như thế cả nửa giờ đồng hồ, hai người không nói gì với nhau. Cô nhắm mắt lại, lim dim, như tránh cặp mắt u buồn của gã. Cái nhìn của gã không phải để tìm kiếm hưng phấn nhục cảm. Nó chẳng biểu hiện tí gì lòng say đắm ngây dại của người đàn ông bình thường trước thân thể một người nữ đang nằm chờ đợi mình đi vào. Nhưng nói nó vô cảm phẳng lì cũng không đúng. Nó xa vắng buồn bã đến lạ lùng như có điều gì u uẩn chất chứa nhiều năm tháng trong tâm tư. Cô phải công nhận gã có đôi mắt đẹp, hiếm thấy ở một người đàn ông. Đen sâu, long lanh như hai hạt nhãn. Da mặt gã trắng xanh như tất cả những anh bộ đội mới ở trong rừng ra, nhưng đó là khuôn mặt của một người hiểu biết và nhạy cảm. Khó đoán gã bao nhiêu tuổi, có thể ngoài ba mươi, nhưng có lẽ gần bốn mươi, thân hình gã dong dỏng cao, dáng đi nhanh nhẹn, quả quyết.

Sau nửa tiếng đồng hồ nhìn ngắm cô, mà cô hoàn toàn không hiểu gã đang nghĩ gì, hai hạt nhãn bỗng khép lại như cố nén một tiếng thở dài. Gã đột ngột đứng dậy, thốt một tiếng chào nhỏ rồi hấp tấp bỏ đi như chạy trốn.

Gã yêu cô. Từ đó cho đến hết đời, gã không yêu ai khác.

4.

Một năm sau khi chồng cô đi học tập cải tạo và chết mất xác trên rừng trong lúc lao động, cô phải trả lại căn nhà thuê của hai người. Đồ đạc trong nhà, thậm chí chiếc nhẫn cưới, theo nhau ra chợ trời. Cô đành ôm đứa con gái mới một tuổi chưa biết đi, cùng một ít quần áo về nhà người anh chồng tạm trú qua ngày. Hai mẹ con ôm nhau ngủ trên căn gác xép ban ngày nóng như lò thiêu, ban đêm gió thổi lùng bùng, vật vã. Nhưng cô biết cô ở đây không lâu vì bà vợ ông anh chồng xem cô như một thứ cùi hủi, nhất là từ khi biết cô có quan hệ với gã bác sĩ bộ đội. Và bà quyết định đuổi cô ra khỏi nhà sau khi nghe ai đó mách lại với bà rằng trước khi cặp anh bác sĩ bộ đội, cô từng “đi khách” hằng đêm sau giờ làm việc ở quán cà phê. Bà không muốn cô làm gương xấu cho hai đứa con gái vị thành niên của bà. Quan trọng hơn, bà không muốn người quen chòm xóm xấu miệng nói trong nhà bà có chứa một con đĩ.

Người anh chồng chờ lúc nhà vắng người, nói chuyện riêng với cô, Đúng ra, bà dắt hai đứa con ra khỏi nhà sau khi dặn dò chồng những điều cần nói. Ông mời cô ra phòng khách nói chuyện.

“Chẳng giấu gì thím, tôi bây giờ không có quyền hạn gì cả trong căn nhà này. Thím thấy đó, tôi là kẻ ăn bám trong gia đình, mọi việc trong nhà ngoài ngõ bây giờ là do bà ấy xoay xở và quyết định. Chú nó chẳng may mất sớm, tôi thì thế cô, ngay cái nghề gõ đầu trẻ bao năm, tôi cũng không giữ được. Nhà mình vô phúc. Thôi thì thím cứ ra đi, tôi chẳng giúp đỡ thím được, nhưng con bé con thím, cứ để nó lại đây chúng tôi nuôi, năm nay nó cũng lên ba rồi, thím ra ngoài đi làm có đồng nào gửi về, chúng tôi lo cho nó ăn học, khi nào thím khá giả hơn về đón nó đi chứ bây giờ thím thân một mình không nhà không cửa như thế này đem nó theo, sao tiện.”

Ông còn nói nhiều nữa và cô hiểu. “… Thím thân một mình không nhà không cửa như thế này” chỉ có nghĩa là cô nay trong tay người đàn ông này, mai người đàn ông khác, đem con còn bé đi theo thì làm sao “tiện” được. Cô nói với người anh chồng qua hai hàng nước mắt giàn giụa trên má:

“Thân em thì coi như bỏ đi rồi, nhưng con em thì làm sao em yên tâm bỏ nó lại đây được.” Sự tủi nhục cay đắng khiến cô không nói gì được nữa. Cô chỉ biết khóc. Cô có cảm giác như mình lâm vào bước đường cùng.

“Tôi đã nói chuyện trước với nhà tôi, bà ấy cũng đồng ý như thế. Chúng tôi thấy đó là giải pháp tốt nhất cho thím.” Người anh chồng nói tiếp.

Lúc đó trong thoáng chốc cô cũng nghĩ như ông anh chồng. Thật ra ông là người tốt. Nhưng bỏ con lại không người săn sóc khi nó còn quá bé thơ, lòng cô đau xót lắm. Làm sao cô chịu đựng nổi? Làm sao cô sống được với nỗi nhớ thương con?

Sau một lúc suy nghĩ, cô bảo người anh chồng:

“Thôi được, em sẽ để con em lại cho anh chị nuôi hộ trong thời gian nhiều lắm là sáu tháng. Chỉ sáu tháng, thu xếp được chỗ ở là em về ngay đón nó đi… Em đội ơn anh chị đã cứu vớt mẹ con em thời gian hai năm qua.”

“Thím đừng nói chuyện ân nghĩa. Tôi áy náy lắm vì không giúp thím được gì hơn.”

“Vâng, em sẽ đi ngay tối nay.” Nước mắt cô có lẽ đã khô cạn, cô nói với giọng quả quyết.

Tối đó cô đón xe đi ra khỏi nhà trước khi bà vợ ông anh chồng về.

Tôi nghĩ lúc đó cô đã có quyết định sai lầm, một quyết định thiếu suy xét bởi một xung lực khó hiểu nào đó thúc đẩy. Cô có nhiều quyết định sai lầm trong cuộc đời cô, và quyết định bỏ đứa con lại nhà ông anh chồng là sai lầm lớn nhất. Vào thời điểm những năm hậu chiến, ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, cuộc sống ở mảnh đất tang thương đó đầy dẫy bất trắc, không có gì bảo đảm ngày mai dòng đời diễn ra đúng y như dự liệu của mình, mọi chuyện có thể xảy ra đột ngột, không hề dự báo trước, và cái nặng khôn kham của định mệnh sẵn sàng đè bẹp bất cứ kẻ nào.

Gia đình ông anh chồng có ý định vượt biên từ lâu. Họ có tên trong danh sách của chủ tầu, họ cũng đã đặt cọc vàng. Cô vừa đi được hơn tháng thì một hôm người nhà chủ tầu đến bí mật báo tin tối hôm đó có tầu. Mọi chuyện xong xuôi, êm thắm. Mua bãi, thực phẩm đầy đủ, chỉ chờ người ra đi. Cả nhà như lên cơn sốt. Làm gì với con bé cháu ba tuổi bây giờ! Mẹ nó đi đâu, không ai biết. A, lá thư cuối cùng cô viết cách đây ba tuần, trong đó cô có nói đến chuyện cô sắp có mối làm ăn kiểu buôn chuyến Bắc-Nam. Ông anh chồng lục tìm lá thư đoạn ông ôm con bé thuê tắc xi tìm đến địa chỉ căn nhà ghi trên phong bì. Mất cả giờ đồng hồ chạy xe mới tìm đến nơi, nhưng khi gõ cửa, một người đàn bà lạ xuất hiện, và sau khi hiểu ra mục đích đi tìm người của ông, bà ta bảo ông cô ở đây chỉ có hai đêm, sau đó không biết đi đâu, hình như cô vẫn chưa có chỗ ở nhất định. Ông anh chồng hỏi thăm thêm nhưng bà ta chỉ biết có bấy nhiêu. Thất vọng ngao ngán, ông đành ôm con bé thất thểu về nhà. Ngồi trên xe, nó khóc. Có lúc nó gào lên thảm thiết nhưng khi hết hơi thì tiếng khóc nó trở nên khản đặc và nấc lên từng hồi. Tiếng khóc của đứa con mất mẹ. Nó vẫn khóc như thế từ hôm cô bỏ đi.

Cô mất tất cả, và cuối cùng cô mất luôn đứa con.

Giả sử lúc bỏ đi cô nhất quyết ôm con theo, nếu thế, có thể nào cô sẽ không đi tìm cái chết khi cô rơi xuống tận cùng tuyệt vọng? Có thể đứa con bắt cô không được chết, cô còn trách nhiệm với nó chứ! Cô không được quyền chết. Tình mẫu tử thiêng liêng sẽ giúp cô tăng thêm sức mạnh để chống chõi với nghịch cảnh. Đứa con giúp cô bớt trầm cảm vì có nó ít ra cô còn tìm thấy đôi ba niềm vui. Nghĩ thế thôi chứ tôi không biết nếu cô đem theo đứa bé con mình lúc đó thì cuộc sống cô có hạnh phúc hơn không, và cô có đi tìm cái chết vào buổi sáng sớm hôm cô ra chợ huyện tình cờ chứng kiến cảnh hai gã nông dân giết nhau không.

Tôi hoàn toàn không có câu trả lời, bởi chuyện gì xảy ra, xảy ra chỉ một lần. Ta sống chỉ một lần. Cuộc sống không phải ván cờ cho ta xóa đi làm lại nếu đang thua. Cuộc sống là ván cờ duy nhất, không bao giờ có lần thứ hai cho ta đi lại nước cờ sai.

Trịnh Y Thư

Categories
Chuyện ngắn

Người Đưa Thư


Người Đưa Thư

(Nguyên Nhung)

unnamed - 2023-02-17T183545.245

Thời gian mới định cư ở Hoa Kỳ, khi đến cư ngụ khu chung cư nhiều người Việt tôi đã thấy ông ta! Đó là người đưa thư, có bộ râu hung hung xồm xoàm viền quanh miệng, khiến thoạt nhìn người ta thấy ông có nét một ông già Santa Claus mỗi mùa Giáng-sinh!!! Nụ cười hiền, đôi mắt xanh mông mênh màu biển, ông là người đều đặn mang niềm vui cho đám cư dân sống ở chung cư, đa số mới từ Việt-Nam sang, thường ngóng những cánh thư ở quê nhà!
Ông ta trạc độ ngoài năm mươi, dáng dấp khỏe mạnh, khó đoán tuổi cho chính xác vì bộ râu xồm xoàm đó! Mỗi buổi chiều, khi chiếc xe của Bưu-Điện chạy vào con dốc đầy ổ gà, nơi đặt mấy thùng thư đã thấy có người đứng đợi. Đa số là người già, không biết làm gì cho hết ngày, đi lấy thư cũng là một cái thú!!! Ông ta bỏ thư vào từng hộp thư của mỗi nhà trong xóm, xong lái xe đi, không quên giơ tay vẫy mấy đứa trẻ đang chơi đùa trên khoảng sân trống.
Mãi cho đến một hôm, trời mùa đông lại mưa tầm tã, tôi thấy người đưa thư ngừng xe trước cửa căn chung cư, rồi chạy ào vào hiên gõ cửa, đưa cho tôi một lá thư. Lá thư của người bạn học từ Việt-Nam gửi sang, đề trúng tên người gửi và địa chỉ “zip-code”, nhưng thiếu số nhà của căn chung cư, không hiểu sao ông ta lại biết là của tôi. Chính vì thế mà tôi biết ông đọc được tiếng Việt, lại còn quen cả tên của người nhận thư, rồi vì sợ thư không đến tay người nhận, thay vì trả lại cho Bưu-Điện, ông mang thư đến thẳng nhà tôi!
Hôm ấy trời bão rớt, mưa suốt từ sáng đến chiều chưa ngớt, bầu trời xám xịt khiến mùa Đông càng có vẻ rét mướt. Tôi cảm động nhận lá thư từ tay ông, nhìn ông ướt át trong chiếc áo mưa màu vàng, những bụi mưa còn đọng trên mái tóc đã ngả bạc với bộ râu hung hung viền quanh miệng. Ông hỏi, bằng tiếng Việt:
“Xin lỗi, có phải tên cô không?”
Tôi ngạc nhiên, vì lần đầu nghe ông ta nói tiếng Việt, chực nhớ lại bà con trong khu chung cư, gặp nhau ngoài thùng thư vẫn hay nói chuyện này nọ về xứ Mỹ và người Mỹ, có lẽ ông đã nghe được cả. Tôi nhận đúng là tên mình, rất cảm kích vì tấm lòng của người đưa thư. Ái ngại khi thấy mưa vẫn như trút nước, rặng cây ven đường như mờ mịt đi dưới màn mưa trắng xóa. Tôi hỏi ông, bằng tiếng Anh:
“Ông có vội lắm không? Mời ông vào nhà chơi, mưa lớn quá!”
Ông nheo đôi mắt xanh nhìn trời, cười hiền hậu, nói một câu thành ngữ tiếng Anh:
“It’s raining. . . cats and dogs…”
Đoạn ông ta nói bằng tiếng Việt:
” Mưa lớn quá, giống như mưa ở Việt-Nam!”
Tôi mở to mắt nhìn ông thán phục:
“Ông nói tiếng Việt giỏi quá, ông học ở đâu vậy?”
Người đưa thư giơ tay vuốt những giọt mưa trên tóc, trên mặt, giọng thoáng một niềm vui, thật xa vời:
“Từ Việt-Nam. Tôi đã từng ở Việt-Nam, cách đây ba mươi năm. Việt-Nam luôn ở trong trái tim tôi!”
Tôi mỉm cười, một câu xã giao mà người Mỹ nào cũng học qua, nhưng sao ở người đàn ông này, tôi không thấy sự giả dối! Một lần nữa, tôi mời ông vào nhà, không khách sáo, trước khi bước vào căn phòng ấm, ông tháo đôi giày để ngoài cửa, giọng dí dỏm:
“Người Việt thường cởi giày trước khi vào nhà, có phải vậy không?”
Ngạc nhiên vì câu hỏi của ông, một người Mỹ hiểu cả thói quen của người Việt, thật là hiếm, như vậy ông ta chắc phải tha thiết với xứ sở của tôi nhiều lắm, tự nhiên tôi thấy có cảm tình với ông! Như hai người đồng hương đã lâu không gặp nhau, ông thổ lộ:
“Tôi nhớ Việt-Nam nhiều lắm, nhớ ‘người’ Việt-Nam lắm!!!”
“Người Việt-Nam” ở đây thì nhiều lắm, sao ông lại nói câu ấy với nhiều cảm xúc trong ánh mắt mà tôi có thể nhìn được. Rồi đưa mắt nhìn khắp căn phòng được bài trí theo kiểu Á-Đông, ông dừng lại một bức tranh trên tường vẽ cảnh mùa Xuân, con ngõ nhỏ với hai hàng mai nở vàng thật đẹp. Ông thảng thốt reo lên, giọng lơ lớ:
“Đấy có phải là hoa mai?”
Tôi gật đầu, cảm phục một người Mỹ biết nhiều về xứ sở của mình:
“Ồ! Ông cũng biết hoa mai? Nó là loại hoa biểu-tượng cho mùa Xuân ở quê-hương tôi, và chỉ nở vào mùa Xuân!”
Ông gật đầu, đôi mắt xanh thoáng một nét bâng khuâng, nhìn theo những sợi mưa nghiêng nghiêng đan nhau trong khung trời mờ tối:
“Tôi biết, vì cô ấy tên Mai, Mai là tên người yêu của tôi, cô học-trò bé nhỏ!”
Hình như ông xúc động, yên lặng để dấu đi nỗi buồn. Tôi cũng ngạc nhiên không ít, khi khám phá ra mối tình của người đưa thư, một mối tình có lẽ rất đẹp mấy chục năm trước vẫn ấp ủ trong trái tim ông, từ những ngày trẻ tuổi!
Buổi chiều mưa hôm đó, một chiều mưa trên xứ người, nghe câu chuyện tình của người đưa thư, tự nhiên tôi cảm thấy dâng lên trong lòng một nỗi buồn rất Việt-Nam, cả cái không-khí lãng-đãng một chút ngậm-ngùi theo từng giọt mưa rớt xuống hàng hiên ẩm-ướt! Trong khi chờ mưa ngớt hạt, người đưa thư bồi-hồi kể tôi nghe chuyện tình của ông ba mươi năm trước…
* * *
David sinh trưởng ở Sacramento, thủ phủ của tiểu bang California. Vùng đất phì nhiêu màu mỡ có rất nhiều cánh đồng trồng rau và trái cây, đủ cung cấp cho hầu hết các tiểu bang của Hoa-Kỳ. Sinh ra trong một gia đình đông anh em, cả nhà sống trong một trang trại trồng hoa quả vùng ngoại ô, David có bản chất một người đồng quê rất hiền lành và thật thà, yêu thiên nhiên!
Học hết Trung Học, David rời gia đình đến Nam Cali để tiếp tục việc học. Sau bốn năm Đại Học, vốn bản tính hiền lành, thích làm việc thiện, David tình nguyện sang Việt-Nam làm công tác giáo dục và thiện nguyện! Do đấy, chàng có một thời gian dài đến gần bốn năm phục vụ trong các trung tâm Việt Mỹ, dạy tiếng Anh cho những người Việt trẻ tuổi!
Lúc ấy David còn trẻ lắm, mới hai mươi hai tuổi. Trước khi sang Việt-Nam, chàng được học tiếng Việt sáu tháng, cho nên lúc đến Việt-Nam chàng đã bập bẹ nói được những câu xã giao thông thường với người bản xứ.! Năm David tới Việt-Nam, chiến tranh đang thời kỳ leo thang, nhưng ở thành phố tương đối người dân vẫn sống trong yên bình, chưa nhìn thấy bao nhiêu sự đe dọa của chiến tranh. David chỉ ở Sài-Gòn một thời gian ngắn, sau đó được đưa về Cần Thơ. Chính nơi này, thành phố thơ mộng ven bờ sông Hậu, đã khiến David lúc quay về Mỹ, mang theo một vết thương lòng!
David đã có dịp đi lại mấy lần trên nẻo đường mang nhiều sắc thái miền Tây Nam Phần, đó là quốc lộ 4. Những cánh đồng lúa bát ngát, những vườn cây xanh, những mái tranh nghèo khuất sau hàng dừa rủ bóng trên giòng sông đục ngầu phù sa, lắc lẻo nhịp cầu tre bắc ngang sông rạch. Chàng thích nhất những chuyến phà qua sông Hậu-Giang, nhất là khi chiều về, vài cọng hoa lục bình màu tím lênh đênh trên sóng nước. Phong cảnh Việt-Nam thật lạ lẫm, mới mẻ nhưng gần gụi biết bao, không hiểu sao khi nhìn thấy miền đồng bằng sông Cửu-Long lần đầu tiên, David đã cảm thấy yêu mến vùng đồng bằng, êm ả như vùng quê nơi chàng sinh trưởng, dù mỗi nơi đều có nét khác biệt nhau!
Vì là nhân viên dân sự, David may mắn chỉ ở thành phố, không đối diện với chiến tranh như những người lính Hoa-Kỳ tham chiến ở Việt-Nam, và cũng không hề giao tiếp với giai cấp phụ nữ bám theo đoàn quân viễn chinh! Cho nên, những ngày dạy học tại Trung Tâm Việt Mỹ, David thật thơ ngây khi lần đầu tiên trong đời, chàng đã trao trái tim mình cho cô bé Việt-Nam, Mai là một cô học trò rất chăm chỉ, ngoan hiền trong lớp học căn bản của Trung Tâm này!!!
Mai đẹp lắm, ít là dưới mắt của David, một vẻ đẹp Á-Đông rất ưa nhìn. Mái tóc đen mượt, đôi mắt đen láy như hai hạt nhãn, nét ngây thơ dịu dàng của cô con gái Á-Đông khiến con tim chàng trai Mỹ mới biết yêu lần đầu, đã thổn thức vì nhớ thương! Như câu ca dao Việt-Nam,”Yêu ai yêu cả đường đi lối về”, David cũng yêu cái mênh mông của dòng sông Cửu-Long, yêu hàng dừa lơi lả nơi bến sông, nhìn những đợt sóng nhấp nhô vào những buổi hoàng hôn, David tưởng như nó chuyên chở bao nhiêu tình tự dân tộc, hiền hòa, vui tươi và đầy thiện cảm! Mỗi buổi sáng, David say sưa ngắm nhìn những tà áo trắng bay bay như những cánh bướm, trên chiếc xe đạp thong thả của đám nữ sinh mỗi buổi đến trường. Cả thành phố dậy lên sức sống, người ta đi lại đông đảo, đàn bà xách giỏ đi chợ, vài chiếc xe chất đầy rau quả, những đứa trẻ con ngoan ngoãn đi học với nhau, chiến tranh hình như chưa hiện diện nơi đây. David có được những tháng ngày thật tuyệt vời với công việc của mình, một biệt thự xinh đẹp tọa lạc trên con đường trung tâm thành phố.
Năm ấy Mai độ mười bảy tuổi, tư chất thông minh cộng thêm nét ngây thơ của cô bé mới lớn, đã chinh phục trái tim ông thầy trẻ tuổi. Cách biểu lộ tình cảm của mỗi dân tộc có khác nhau, David không hề dấu diếm tình yêu của mình với cô gái trẻ, trong khi Mai cố tình né tránh, dù nàng rất có cảm tình với ông thầy vừa đẹp trai, lại rất hiền hậu nữa! Sau nhiều lớp ở Trung tâm Việt Mỹ, Mai là một học sinh xuất sắc được chọn là người phụ giáo cho những lớp học vỡ lòng, trong thời gian này hai người cùng làm việc chung, David càng thấy gần gũi nàng hơn!!!
Với bản tính thẳng thắn của người Mỹ, David tỏ tình và đề cập với Mai về chuyện hôn nhân, chàng nghĩ nó rất đơn giản như bao cuộc hôn nhân trên xứ sở chàng. Nhưng điều làm cho David đớn đau hơn cả, không ngờ Mai đã từ chối kết hôn với chàng, nguyên nhân chỉ giản dị là không cùng chủng tộc, cha mẹ nàng coi đấy là điều không thể chấp nhận, dù David là một chàng trai học thức! David không hiểu tại sao Mai không quyết định được chuyện hôn nhân của mình, dù rằng Mai cũng cảm thấy mình yêu thương chàng trai Mỹ tóc vàng, mắt xanh hiền lành ấy!!! David thắc mắc thì Mai chỉ im lặng thở dài, rồi cho chàng biết những gia đình Việt-Nam bảo thủ, không bao giờ chấp nhận chuyện con cái kết hôn với người ngoại quốc!
Sống ở Việt-Nam khá lâu, ăn những món ăn Việt-Nam, học được cách cư xử của người Việt, David hoàn toàn chấp nhận tất cả những đòi hỏi theo phong tục, tập quán người Việt; nhưng vẫn bị từ chối! Thật sự chàng không thể nào hiểu nổi dân tộc này, trong cái thân thiện bên ngoài hình như họ vẫn dấu kín những thành kiến bí ẩn, có lẽ đã ăn sâu vào gốc rễ trong tâm hồn họ. Không lấy được Mai, nhiều lúc thất vọng đến chán chường, David còn muốn tìm cái chết để quên đi hình bóng diễm kiều của cô gái Việt! Cuối cùng, bị khủng hoảng tinh thần, David không thể tiếp tục làm việc, với ý nghĩ một ngày nào đó Mai thuộc về người khác!!! David được hồi hương trước thời gian ấn định, lúc chia tay, lần cuối cùng gặp nhau, Mai đã khóc và nói với chàng:
“Nếu không được kết-hôn với anh, em sẽ không bao giờ lấy ai nữa!”

* * *
Câu chuyện tình của người đưa thư tưởng đến đấy là hết, bất ngờ David hỏi tôi:
“Tại sao dân-tộc cô lại có cái nhìn khe-khắt như thế? Một tình yêu khác chủng-tộc có phải là điều tội-lỗi?”
Tôi bối rối nhìn ông, không làm sao cắt nghĩa cho ông hiểu. Đúng, tình yêu tự nó đâu có gì tội lỗi, nhưng dưới con mắt lệch lạc của những người có nhiều thành kiến, họ vẫn không chấp nhận! David lại nói tiếp:
“Ba mươi năm nay tôi vẫn không quên điều đó, vẫn tìm-tòi văn-hóa Việt, và tôi hiểu tại sao dân-tộc Việt-Nam không tiến lên được! Trong một vấn-đề giản-dị đó, họ đã không có cái nhìn rộng-rãi, thì những vấn-đề lớn hơn, họ cũng khó mà thay-đổi!!!”
Tôi thở dài nói với David:
“Tôi nghĩ không chỉ người Việt-Nam chúng tôi mới có quan-niệm thiển-cận như thế, ngay những người Mỹ, cũng đâu có thích con cái họ lấy một người không cùng sắc-tộc với mình! Hơn nữa người Việt-Nam lấy chữ hiếu làm đầu, cho nên ít khi chống đối lại Cha Mẹ, và họ chấp nhận điều ấy như là một thứ định-mệnh đã đặt để, ông thông-cảm cho! Nhưng thưa ông, đấy chỉ là những suy-nghĩ của thời-gian đó, bây giờ mọi điều đã thay-đổi!!!”
Giọng David đều đều như tiếng mưa rơi ngoài hiên, ông nói:
“Cô có biết tôi đã đau-khổ biết bao nhiêu khi không lấy được Mai, tôi đâm ác-cảm với tất cả người Việt vì lối suy-nghĩ của họ! Khi về nước, lâu lắm tôi vẫn không quên được người con gái ấy, rồi lại nhớ đến câu nói cuối cùng của Mai nói với tôi, tôi không nghĩ rằng Mai đã thực-hiện được. Khi đất nước cô bị rơi vào tay Cộng-Sản, tôi vẫn hy-vọng là sẽ gặp Mai trong đám người Việt di-tản sang Hoa-Kỳ, nếu cô ấy chưa lấy ai thì trên xứ sở này, không ai cấm cản Mai kết-hôn với tôi cả!!!”.
Tôi ngắt lời David:
“Ông có gặp lại cô ta không?”
David gật đầu, đôi mắt xanh chợt buồn, để rồi lại toát ra một tia nhìn ấm áp:
“Có, tôi đã gặp lại Mai, nhưng bấy giờ tôi là người dừng lại, vì Mai đã là một nữ tu đang săn-sóc cho đám trẻ mồ-côi đem từ Việt-Nam sang! Lần này tôi thực sự cảm thấy mình không có quyền theo đuổi con người cao-quý đó! Mai đã hy-sinh tình yêu, tuổi xuân để phục-vụ cho một nghĩa-vụ cao cả hơn, đấy là tình nhân-loại! Tôi vẫn yêu Mai, nhưng không có quyền giữ lấy nàng làm của riêng, khi nhìn thấy bản-chất cao đẹp trong tâm-hồn nàng!!!”
Giọng ông ta chợt bùi ngùi:
“Đồng thời, tôi cũng hiểu được ý-nghĩa lời nói của Mai, khi đã khóc và nói với tôi câu nói cuối cùng trước khi chia tay nhau! Nàng là người con gái Việt-Nam thuần- túy có những suy-nghĩ theo tính-cách của dân-tộc nàng! Nhưng trong tình yêu, tôi hiểu nàng cũng yêu tôi, thích-hợp với đời sống và việc làm của tôi, nhưng vẫn không dám chống đối lại Cha Mẹ! Để rồi cuối cùng, cô đã chọn con đường ấy; con đường phục-vụ cho tha-nhân!!!”
Đôi mắt xanh buồn buồn của người đưa thư lại hướng về bức tranh có những bông mai vàng óng ả treo trên tường, thật dịu dàng ông nói tiếp:
“Từ đấy, tôi muốn mình cũng như Mai, làm một điều gì đem lại niềm vui cho mọi người, dù rất nhỏ nhoi! Nếu không hỏi cô, có lẽ lá thư này sẽ bị trả lại cho người gửi, bạn cô mất đi một niềm hy-vọng, và ngay cả cô cũng mất niềm vui được đọc một lá thư! Bao nhiêu năm rồi tôi có nhiều cơ-hội để tìm một việc làm tốt hơn, nhưng tôi vẫn vui thích với nghề-nghiệp hiện-tại, khi nghĩ mình đã đem đến cho mọi người những gì họ chờ đợi, nhất là trong những mùa Lễ, Tết! Tôi cũng hiểu rằng từ miền đất xa-xăm nghèo khổ kia, họ đã phải tiết-kiệm như thế nào mới có đủ tiền để gửi một lá thư cho người phương xa!!!”
Tôi cảm động nghe ông ta nói, tự thấy xấu hổ với mình khi chính tôi có lúc đã rất hững hờ với những lá thư từ bên nhà gửi sang, cũng chỉ vì sợ phải giúp đỡ! Ngược giòng thời gian, tôi như nhìn thấy mình trong quá khứ, trong lúc cùng cực vẫn trông chờ một niềm hy vọng, vậy tại sao tôi lại không có được tấm lòng như người đưa thư này! Lúc ấy, nhìn đôi mắt xanh của ông ta, chòm râu hung hung viền quanh mặt, trông ông hiền hậu và dễ thương như ông già Noel đem niềm vui cho trẻ con mỗi mùa Giáng-Sinh! Tôi nói với ông rất thành thật:
“Tôi cám ơn ông, một người Mỹ rất có tình với quê- hương tôi, dân-tộc tôi! Dù trước kia ông đã bị đau-khổ vì sự suy-nghĩ của họ!!!”
Mưa đã ngớt, chưa tới sáu giờ mà trời mùa Đông đã tối xầm lại. David đứng dậy, ông còn phải trở về Bưu điện, đem theo những lá thư người trong chung cư nhờ ông gửi giùm. Ông chào tôi rồi mang đôi giày vào chân, mỉm cười nhìn những bóng đèn màu chớp tắt trên cây Giáng-Sinh ở góc phòng. Tôi nhìn theo người đưa thư bước ra đường, lòng dâng lên một niềm ấm áp cho dù đang là mùa Đông ở xứ người! Câu chuyện của David đã làm tôi suy nghĩ. Tình yêu muôn thuở vẫn chỉ là Tình yêu, nhưng vượt lên trên đó, nó có một sứ mệnh thật cao cả khi người ta nhìn ra cái đẹp của nó, và sống với cái đẹp của tình yêu!!!
Giờ này, ở một nơi nào đó trên đất Mỹ, Mai, cô gái Việt-Nam năm xưa, có lẽ nay đã đứng tuổi, vẫn hăng say phục vụ tha nhân trong lãnh vực của cô! Không biết cô có hiểu rằng, chính tình yêu của cô đã làm cho David, người đưa thư quen thuộc của khu chung cư, cũng đang đi con đường của người ông yêu tha thiết năm xưa, cũng với mục đích đem niềm vui đến cho mọi người! Giá tất cả thế-nhân đều nghĩ đến nhau với một tấm lòng như thế, thì có lẽ chiến-tranh đã chấm dứt từ lâu trên trái đất!!!

(Nguyên Nhung)

Categories
6 - Trang giải trí Chuyện ngắn

Cuộc phiêu lưu ngày 23 tháng Chạp: Câu chuyện của một chú cá chép hóa rồng


ntdvn_etv-mona-tao-quan-cuoi-ca-chep

Cuộc phiêu lưu ngày 23 tháng Chạp: Câu chuyện của một chú cá chép hóa rồng

Nguyên Phong • 16:30, 13/01/23

Câu chuyện phiêu lưu của một chú cá chép từ ngày lễ cúng Táo quân để lại bao suy ngẫm thú vị về ý nghĩa của sinh mệnh và cuộc sống

(Mến tặng hết thảy những chú cá chép vẫn bơi ngược dòng!)

Trong hồ nước gặp được quý nhân

Bộp!

Một vật lạ từ thành cầu rơi xuống mặt hồ. Nước bắn tóe lên. Cái vật lạ màu cam kia nằm đờ ra trên mặt nước vài giây rồi sau đó cong mình cựa quậy, rồi cái mang phập phồng, vây và đuôi ve vẩy. Hóa ra là một chú cá chép vàng to cỡ bàn tay người lớn với thân hình mảnh dẻ.

Qua cơn choáng váng, chú nhìn ra xung quanh. Và rùng mình. Có những chú cá vàng khác cũng bị ném xuống nước nhưng giờ nằm ngửa bụng ngáp ngáp vì bị va đập mạnh. Có chú mắc mãi trong túi bóng không ra được đành chờ chết.

Thì ra hôm nay là ngày 23 tháng Chạp, ngày con người cúng Táo quân. Chép vàng bị người ta ném từ trên thành cầu xuống hồ nước, rồi họ lên xe phóng đi. Lẽ ra phóng sinh đúng cách phải là nâng cá bằng hai bàn tay, rồi nhẹ nhàng thả xuống nước cho cá bơi đi. Nhưng cuộc sống nay khác rồi, con người mới vội vàng làm sao.

Nên có nhiều chú cá xấu số đã không tránh khỏi cái chết.

ca-chep-sai-s-1517236492644734922671-1517825423-width640height466-550x330Chép vàng bị người ta ném từ trên thành cầu xuống hồ nước, rồi họ lên xe phóng đi

Một khối đen sì xô đến, có tiếng gọi giật giọng: “Nhanh. Trốn đi. Đứng đây để chờ bị bắt lại à?”

Trước mặt chép vàng là một chú cá chép đen to lớn, khỏe mạnh. Chép vàng nhìn lên bờ, có mấy người cầm vợt đứng gần mép nước, họ chỉ chờ người trên cầu vứt cá xuống sẽ vợt lại đem bán cho người mua phóng sinh. Chần chừ là sẽ bị bắt lại.
Vả lại gần bờ nước bẩn và nhiều rác, không thở được.

Chép vàng búng nước lấy đà, vọt lẹ cùng chép đen.

Bơi đã xa khỏi bờ, chép vàng mới cất lời:

– Chào đằng ấy, tớ tên Chép Vàng. Còn đằng ấy?

– Dĩ nhiên tớ là Chép Đen. Hì hì

– Đằng ấy ở đâu tới?

Chép Đen vểnh râu, có vẻ đắc ý:

– Tớ ở trong cái hồ này thôi. Cũng được thả phóng sinh như đằng ấy, nhưng lâu rồi. Hình như ngày 23 tháng Chạp của hai năm trước.

– Vậy sao đằng ấy vẫn ở đây?

– Thì đi đâu mà chả thế. Chỗ nào sống được thì tớ ở. Trong cái hồ này có đủ thức ăn, dù tớ bị con người lùng bắt suốt, nhưng tớ tránh được.

Chép Vàng thở dài:

– Còn tớ thì phải làm tròn sứ mệnh của mình.

– “Sứ mệnh gì?” Chép Đen hỏi.

– Tớ đưa các vị Táo quân lên chầu Đức Ngọc đế. Họ phải cưỡi lên lưng tớ để thăng thiên.

– Tớ có thấy ai đâu?

– Họ ở không gian khác, đằng ấy hiểu không. Có hai ông và một bà. Nhưng giờ ở trong cái hồ nước tù đọng này thì biết thăng thiên làm sao. Chép Vàng chép miệng, bần thần.

Chép Đen tò mò:

– Vậy thì phải ra đâu mới thăng thiên được?

– Ra sông lớn, nơi dòng nước cuộn chảy từ thượng lưu xuống hạ nguồn, như dòng chảy liên tục của thời gian, cũng là đường đi lên thượng giới.

Chép Đen nháy mắt tinh nghịch:

– Ở hồ này có một lối thông ra sông.

– “Thật không?” Chép Vàng háo hức. “Đằng ấy có thể dẫn tớ ra đó được không?”

– “Được thôi, để tớ dẫn đi”. Chép Đen trả lời.

không khí thơm phức mùi sen, gió hây hẩy thổi khiến cánh hoa rung rinh, càng đưa hương sen đi xa bát ngát.
Hồ nước khá rộng. Nước giữa hồ trong xanh hơn ở gần bờ, làm nền cho sắc đỏ của những bông hoa súng đang nở rộ. (Ảnh: Shutterstock)

Hồ nước khá rộng. Nước giữa hồ trong xanh hơn ở gần bờ, làm nền cho sắc đỏ của những bông hoa súng đang nở rộ. Hai chú cá vừa bơi vừa trò chuyện:

– “Sông đó rộng, nước chảy xiết. Tớ đã có lần ra đến đó rồi lại quay về đây. Nói thật, sức vóc như đằng ấy, chẳng biết sẽ bơi thế nào”. Chép Đen nói và ái ngại nhìn thân hình mảnh dẻ của bạn.

– “Tớ cũng không biết. Nhưng đã là sứ mệnh thì tớ sẽ phải làm. Tớ còn phải bơi ngược dòng ấy chứ”. Chép Vàng cũng không giấu được vẻ lo lắng.

– Để làm gì?

Chép Vàng mơ màng:

– Mẹ tớ kể cho tớ câu chuyện từ tổ tiên xa xưa của họ nhà cá chép. Một con cá chép ngoài nhiệm vụ chở các Táo quân lên chầu Đức Ngọc đế vào ngày 23 tháng Chạp thì cũng phải tìm đường quay về với cội nguồn sinh mệnh của mình.

– “Bằng cách nào?” Chép Đen hỏi.

– Bơi ngược dòng một con sông lớn, rồi vượt thác. Xưa kia tổ tiên cá chép chúng ta đã từng có vị bơi vượt thác Long Môn trên sông Hoàng Hà để hóa rồng và bay lên trời. Đã lâu lắm rồi, từ thời vua Đại Vũ trị thủy.

– Nghe hay nhỉ. Nhưng không biết có thật không?

– “Tớ tin là có thật”, Chép Vàng cả quyết. Ánh mắt nó ngời lên đầy tin tưởng, cứ như linh hồn những cụ tổ oai hùng của loài cá chép đã quay về nhập vào trong nó, lúc ấy thân hình mảnh dẻ của nó toát lên một sức mạnh không ngờ khiến Chép Đen cảm thấy kính nể. Chép Đen nghĩ đến hình ảnh một ngọn thác hùng vĩ, nước đổ sầm sập từ trên cao xuống, một chú cá chép tung mình nhảy lên thật cao hết lần này đến lần khác…

– Được, tớ sẽ đi cùng đằng ấy. Tớ không nghĩ đến hóa rồng, nhưng hẳn sẽ là một chuyến đi thú vị.

Chép Vàng mừng lắm. Nó chưa từng đi đâu ra khỏi ao nuôi cá. Giờ có Chép Đen, một tay tháo vát thế này đi cùng, cơ hội thành công sẽ cao hơn.

So với Chép Vàng trầm lặng mơ mộng, Chép Đen hơi thiếu óc tưởng tượng nhưng giỏi xoay sở, thạo đời, lại hoạt ngôn, đặc biệt là rất nghĩa khí. Trên đường đi, Chép Đen dạy cho Chép Vàng cách kiếm mồi từ phù du trôi ngang dòng nước, từ việc tóm những con tép nhỏ hay thậm chí cả châu chấu, cào cào sa xuống mặt nước. Chép Đen cũng dạy cho Chép Vàng cách tránh những mồi câu, những lưỡi lục của dân câu, những vó, nơm… của vô số những người bắt cá. Chép Đen quả là sự bổ sung tuyệt vời cho Chép Vàng.

“Đằng ấy phải trải nghiệm, va chạm nhiều hơn, đời giờ nhiều cạm bẫy lắm”. Chép Đen thường dặn Chép Vàng như vậy trên đường đi. Và Chép Vàng cũng cố gắng ghi vào lòng những bài học ấy.

Màu nước bắt đầu thay đổi, đôi bạn sắp đi tới lối thông từ hồ ra sông. Chép Đen hào hứng:

– Tớ sẽ thi vượt thác với đằng ấy. Chắc chắn tớ sẽ nhảy lên thật cao, cao hơn đằng ấy cho mà xem.

– Tớ tin là thế, Chép Đen ạ. Đằng ấy sẽ làm tốt hơn tớ.

– “Biết đâu tớ cũng hóa rồng nhỉ”, Chép Đen cười vang trêu chọc. “Lối thông ra sông kia rồi, nước xiết quá, ta lấy đà chuẩn bị nhé. Một, hai… Ối, thả tôi ra, thả tôi ra”.

shutterstock_1234109923-550x330“Biết đâu tớ cũng hóa rồng nhỉ”, Chép Đen cười vang trêu chọc. (Ảnh: Shutterstock)

Chép Đen đã mắc vào một tấm vó, người ta kéo vó lên, Chép Đen vùng vẫy nhưng không thoát ra được. Chép Vàng cuống quýt bơi loanh quanh ở dưới mà không nghĩ ra cách nào để giúp bạn.

– “Trốn đi, trốn đi Chép Vàng, họ bắt đấyyy”… Chép Đen gào to.

– “Tớ không đi đâu, tớ phải cứu đằng ấy”. Chép Vàng bật khóc và bất lực nhìn bạn. Chép Đen đã bị kéo lên cao.

– Đằng ấy không cứu được tớ đâu. Đi và làm tròn sứ mệnh của đằng ấy đi. Hãy vượt thác cả phần của tớ nữa. Đi ngay đi, ở đây nguy hiểm lắm.

Một chiếc lưới được ném vù xuống. Chép Vàng chợt động linh cơ tránh được. Rồi ngoảnh nhìn Chép Đen lần cuối, Chép Vàng gạt nước mắt, phóng ra sông.

Trưởng thành nơi sông lớn

Không ai có thể nhìn thấy nước mắt của một con cá, nhưng ai dám bảo đảm rằng cá không biết khóc? Còn chúng tôi thì biết rằng Chép Vàng đã khóc thảm thiết vì thương bạn. Vả lại, chú còn lo lắng từ nay mất đi sự hỗ trợ của Chép Đen, chú biết xoay sở thế nào nơi sông lớn?

Nhưng rồi Chép Vàng cũng dần bình tĩnh lại. Chú đã bắt đầu chuyến đi một mình, giờ đây chú lại có thêm những kinh nghiệm mà Chép Đen đã dạy chú. Chép Vàng thấy mình cần tự tin hơn.

Phải tiếp tục lên đường.

Ban đầu, nước sông chảy xiết, lại bơi ngược dòng nên chú rất mệt. Cứ bơi một quãng chú lại phải tìm chỗ nghỉ. Thức ăn ở đây cũng khó kiếm hơn, vì nước chảy mạnh nên thức ăn trôi qua rất nhanh, chú phải đớp mồi khẩn trương hơn. Về sau chú cũng biết tìm đến nơi nước lặng hơn một chút, thường là sau những tảng đá lớn ở lòng sông, vừa để kiếm cái ăn, vừa tìm chỗ nghỉ. Dần dần, chú cũng biết kiếm ăn dưới bùn hay bắt con tôm con tép.

ntdvn_hukouwaterfall4-550x330Ban đầu, nước sông chảy xiết, lại bơi ngược dòng nên chú rất mệt. (Ảnh: Wikipedia-CC BY 2.5)

Cuộc sống luôn vận động mạnh khiến thân thể chú cường tráng hơn, mạnh mẽ hơn, đôi râu cũng mọc dài ngạo nghễ. Nếu Chép Đen còn sống mà nhìn thấy chú, chắc sẽ rất tự hào.

Chú cũng gặp nhiều loài cá khác và cả cá chép, nhưng phần lớn họ chỉ bơi xuôi dòng. Đôi khi, chú cũng làm quen với những chú cá chép khác để tìm kiếm bạn đồng hành. Nhưng hầu như ai cũng cười nhạo ý tưởng “viển vông” của chú.

Chú chỉ biết một mực ngược dòng tiến lên.

Đã qua Tết Nguyên Đán, có lẽ các vị Táo quân đã rời lưng chú để thăng thiên chầu Đức Ngọc đế và tâu bày kết quả một năm làm việc ở cõi trần này. Giờ này có lẽ họ đã được tạm nghỉ ngơi, nhưng chú Chép Vàng của chúng ta vẫn hàng ngày phải đối mặt với sóng dữ. Và không chỉ có thế, ở trên sông lớn, Chép Vàng dù ít gặp con người hơn, nhưng kẻ thù trong tự nhiên lại nhiều hơn. Chẳng hạn như con giải, rắn và các loài cá lớn.

Mới hôm qua, chú bị một con giải đớp hụt. Nó nằm im ở lòng sông trông như một tảng đá lớn. Chép Vàng định nép vào đó nghỉ ngơi thì con giải thò cái đầu ra táp. Chép Vàng lanh lẹ né được. Hú hồn. Những con giải – loại baba cực lớn ở vùng này có cái mai to như cái chiếu con và có thể cắn đứt gân chân của trâu mộng.

Một hôm, Chép Vàng lọt vào một vùng nước lặng hơn và nông dần đi. Ở đây, đáy sông ít bùn và cứng hơn, hầu như chỉ có cát và đá. Cá tôm cũng thưa thớt. Chép Vàng cảm thấy lo ngại, chú chưa biết chuyện gì đang xảy ra, bèn tới bắt chuyện với một cụ cá nheo đang sửa soạn lên đường:

– Cụ ơi, cụ sắp đi đâu vậy? Cho cháu hỏi thăm đường ạ.

– Chào anh. Anh muốn đi đâu?

– Cháu muốn lên thượng nguồn cụ ạ.

Cụ cá nheo già, da bạc phếch nheo mắt nhìn Chép Vàng tò mò:

– Anh muốn lên thượng nguồn làm gì? Đi làm sao được. Đã lâu lắm rồi có ai đi lên thượng nguồn được đâu.

– Vì sao vậy hả cụ?

Cụ cá nheo thở dài:

– Anh bơi ngược lên một quãng nữa sẽ gặp một con đập cực lớn, đó là đập thủy điện. Vì cái đập ấy mà nhiều năm nay, tôi không thể đi lên thượng nguồn. Tôi cũng bị chia cắt với gia đình mình. Họ ở lại phía lòng hồ nằm sau cái đập thủy điện này. Trầm tích, phù sa cũng bị giữ lại phía bên ấy. Anh xem, đáy sông ở đây trơ ra toàn sỏi với đá thôi, sống làm sao được. Ăn gì bây giờ? Khi nào có lũ về hay mùa mưa thì còn đỡ. Còn bây giờ nước cạn thế này, chúng tôi phải bơi về xuôi.

ntdvn_1159px-threegorgesdam-china2009-550x330Anh bơi ngược lên một quãng nữa sẽ gặp một con đập cực lớn, đó là đập thủy điện. Vì cái đập ấy mà nhiều năm nay, tôi không thể đi lên thượng nguồn. (Ảnh: Getty Images)

Ngừng lại một lát, cụ cá nheo nhìn chú nói tiếp:

– Mà anh cũng nên về xuôi thôi. Đợi đến mùa lũ rồi quay trở lại. Nhưng kể cả vậy thì làm sao anh vượt qua được con đập cao ngất kia. Thôi, về đi. Muốn vượt qua được phải có thần tích. Thời nay làm gì còn thần tích.

Dứt lời, cụ cá nheo quay lưng, lầm lũi bơi về xuôi.

“Thời nay làm gì còn thần tích”. Câu nói đầy chán nản ấy của cụ cá nheo còn làm chú Chép Vàng hụt hẫng, đau khổ hơn hết thảy những bầm dập trên thân xác cho đến lúc này. Chú đã bắt đầu chuyến đi với lòng tin vào truyền thống xa xưa của họ nhà cá chép, về thần tích hóa rồng. Dọc đường, chú đã gặp được Chép Đen, người bạn duy nhất ủng hộ chú. Nhưng liệu Chép Đen có tin vào chuyện hóa rồng hay không? Chú cũng nhớ đến tiếng cười nhạo của các bạn cá dọc đường, trong đó có không ít đồng loại cá chép của chú. Giờ lại thêm lời này.

Nhưng nghĩ lại, chú sẽ không bỏ cuộc. Mẹ vẫn dạy chú: “Trên đời này không mất thì không được. Được thì phải mất.” Và thần tích sẽ chẳng bao giờ xảy ra cho một kẻ lười nhác và thiếu lòng tin. Vả lại, đằng nào cũng sẽ chết, thà là chết trong dòng nước xiết vì đã sống một cuộc đời có ý nghĩa còn hơn một cuộc sống vô vị nhạt nhẽo trong bùn lầy của ao tù nước đọng.

Chép Vàng vượt vũ môn

Đêm hôm ấy Chép Vàng nhịn đói đi ngủ. Trong giấc mơ, chú mơ thấy mẹ mình và lời ru êm êm của mẹ, lời ru đưa chú về với những tổ tiên oai hùng xa xưa của họ cá chép – những bậc đã hóa rồng. Chú cũng mơ thấy Chép Đen và bạn có hỏi chú rằng đã vượt thác chưa. Chú mơ thấy cả ba vị Táo quân đang chầu Đức Ngọc đế và họ nói rằng: “thần tích sẽ xảy ra với những kẻ mạnh mẽ có đủ lòng tin.”

Chép Vàng bỗng choàng tỉnh dậy vì trời bắt đầu mưa.
Mưa? Giữa tiết hanh khô tháng Giêng này? Ồ! và mưa ngày càng lớn chứ không phải mưa phùn. Một trận mưa rào cực lớn.

Mưa suốt cả mấy ngày, nước dềnh lên nhanh chóng. Nước mưa cuốn theo thảm mục trên rừng chảy xuống dòng sông, phù du lại nhiều lên. Các loài cá tôm lại quay trở lại. Chép Vàng cũng có thể tiến sát đập thủy điện.

Lúc này, lũ trên thượng nguồn đã đổ về sầm sập. Đập thủy điện mở cửa xả mặt khiến nước đổ xuống như một dòng thác cực lớn. Chép Vàng thầm nghĩ: “Cứ như lời kể, xưa kia vua Đại Vũ phải xẻ núi Long Môn cho nước sông Hoàng Hà thoát đi, đó là thuận theo tự nhiên để trị thủy. Còn ngày nay người ta làm ngược lại, xây những con đập cực kỳ to lớn để chắn nước. Nhưng liệu họ có thể chặn được sức mạnh của thiên nhiên không nhỉ?”

Nhưng giờ chú cũng không nghĩ lâu về việc đó nữa. Chú phải chuẩn bị cho việc vượt thác. Ai biết cơn lũ sẽ còn kéo dài đến lúc nào. Chú không thể bỏ lỡ cơ hội Trời cho này được.

Chép Vàng kiếm mồi thật nhanh và dự trữ dưới khe một tảng đá lớn bên bờ nước. Chú ăn đến no nê và bắt đầu tập nhảy.

Rồi tiến đến gần dòng thác nước đang chảy xuống dữ dội, chú bật nhảy thật cao vào dòng thác. Ngày càng cao hơn. Nhưng con đập cao vút thế kia, chú làm sao nhảy tới?

Chép Vàng không nản, chú quay về chỗ cất thức ăn, ăn một bữa no, nghỉ một lúc rồi quay trở lại chỗ thác nước. “Mình phải nhanh lên”, chú thầm nghĩ.

Chép Vàng liên tục nhảy, hết lần này đến lần khác. Chú vừa nhảy vừa rạch thân mình như một chú cá rô, đè lên dòng nước khổng lồ đang ầm ào đổ xuống. 1000, 1001, 1002… chú thầm đếm. “Mình sẽ không bỏ cuộc đâu. Sẽ nhảy đến khi không còn hơi sức. Cùng lắm thì ta lại được gặp Chép Đen ở dưới âm kia”.

Trong đôi mắt đã mờ dần đi của chú hiện lên hình ảnh tinh nghịch thân thương của Chép Đen và lời trăng trối của bạn: “Hãy vượt thác cả phần của tớ nữa nhé”. Chép Vàng thu hết tàn lực, nhảy lên một cú thật cao…

Quả đúng là:

“Cá thần vùng vẫy vượt qua đăng,
Được nước, nào ai dám rỉ răng?
Cưỡi gió giương vây lên cửa Vũ,
Xông mây rẽ sóng động vừng trăng,
Giếc, rô ngứa vẩy khôn tìm lối,
Trê, chuối theo đuôi dễ mấy thằng!
Gặp hội hoá rồng nơi chót vót
Đã lên, bay bổng tít bao chừng?” (1)

Ở trên Thiên đình, Đức Ngọc đế đang dõi theo chú Chép Vàng, và Ngài đã mỉm cười.

shutterstock_120805945-550x330Từ trong thác nước, một chú rồng vàng cực lớn gầm vang, cuộn mình nhe nanh múa vuốt và bay vượt lên trên đập nước trước sự sững sờ của muôn loài thủy tộc. (Ảnh: Shutterstock)

Từ trong thác nước, một chú rồng vàng cực lớn gầm vang, cuộn mình nhe nanh múa vuốt và bay vượt lên trên đập nước trước sự sững sờ của muôn loài thủy tộc. Chú rồng có thân mình dài và lớn như một cây đại thụ, vàng rực như được dát những chiếc vảy vàng khổng lồ lấp lánh có hình dạng như vảy cá chép; cặp râu dài mềm tung bay oai vệ; cặp mắt sáng rực nhìn thấu cả trần gian và âm giới… cùng đôi sừng dài và bộ vuốt to lớn sắc nhọn. Bên cạnh chú rồng vàng đó là hào quang của một chú cá chép đen quấn quýt như một người hộ vệ trung thành. Cả hai song song bay thẳng lên cửa Nam Thiên nơi thượng giới.

Cửa Trời mở ra, quần tiên hoan hỉ chào đón sinh mệnh đã trở về nguồn cội.

Nguyên Phong
(1): Thơ “Cá chép vượt đăng” (Lý ngư bạt hỗ) của thi hào Nguyễn Khuyến

Categories
Chuyện ngắn

MẸ CHỒNG – NÀNG DÂU!


unnamed (100)

MẸ CHỒNG – NÀNG DÂU !

– Minh Nguyễn –

“Tao đi từ Nam ra Bắc tao không thấy có đứa con dâu nào như mày.”

“Con đi khắp cái gầm trời này cũng không có người mẹ chồng nào như mẹ.”

“Tao thì làm sao?”

“Thế con thì làm sao?”

“Mày chả làm sao, mày là nhất. Đi ra ruộng thì đi luôn đi. Ban ngày thì mải đi chơi, tối tắt mặt trời đổ lúa vào xay. Làm việc không khoa học chỉ có nghèo suốt đời con ạ.”

“Con nghèo thì mẹ cũng nghèo theo, nên đừng có mà trù ẻo.”

Ngày nào bọn tôi cũng được nghe “dân ca và nhạc cổ truyền” miễn phí từ hai mẹ con nhà bà cụ Thao.

Cụ năm nay tám mươi tuổi rồi, con dâu cụ thì hơn bốn mươi tuổi. Nghe đâu bảo ngày xưa cụ sức yếu, sảy mấy lần mới sinh được chú Tự. Vì là con cầu tự nên bà chiều chú lắm, từ nhỏ tới lớn muốn gì được nấy. Ngày chú Tự cưới cô Tin bà cụ cũng chẳng thích lắm, vì cô Tin học hết cấp một là nghỉ rồi. Nhưng chú Tự kiên quyết nên cụ phải cắn răng tổ chức lễ cưới. Cưới xong cô Tin sinh liền tù tì ba đứa con gái, cụ cứ bĩu môi mãi là đồ không biết đẻ.

Cụ bảo cô Tin, liệu mà sinh thêm thằng cu nối dõi, kẻo lúc bố chúng nó đi gái lại ngồi mà khóc. Con gái là con người ta. Cô Tin nghe thế bực mình bảo, “con gái là con người ta, con dâu đích thực mẹ cha mua về, thế sao mẹ không đối xử tốt với con đi, con nào chả là con, con trai mẹ có ở nhà chăm mẹ đâu, toàn thân con hầu hạ.” Bà cụ hừ một cái rõ dài rồi quay mặt vào tường, chẳng nói gì thêm.

Mỗi ngày đều nghe thấy mẹ chồng con dâu nhà cụ kẻ xướng người tùy, hay hơn cả xem kịch nói trên VTV1 mỗi tối thứ bảy. Hôm nào không thấy hai mẹ con cụ cãi nhau, là thấy xóm hiu hắt hẳn.

Có một sớm, tôi vừa cho kem đánh răng vào miệng, thấy bà cụ nhà bên hậm hực gào toáng lên:

“Tay tao bưng trầu, đầu tao đội lễ, tao rước mày về cái nhà này, chứ không phải con giun cái kiến nó tha mày về mà mày không biết lớn biết bé, đi không thưa về không gửi.”

“Mẹ ngủ ngáy o o, đấm bảy ngày chả hự, con thưa gửi kiểu gì? Mà con đi bừa chứ đi đâu mà thưa với gửi, mẹ bớt bớt cái tính cổ hủ đi.”

“A, tao cổ hủ, mày chê bà già này cổ hủ, để tao gọi chồng mày về xem nó có cho mày một trận không, mày dám chê mẹ nó à?!”

“Mẹ đi mà gọi, con chả ngán. Mẹ chửi xong rồi thì ra ăn bánh quấn đi không nguội.”

“Tao không ăn.”

“Không ăn tận trưa mới có cơm đấy, lát bọn trẻ về nó ăn hết lại chả kêu. Bà Tư bún làm riêng cho mẹ đấy.”

“Hừ, cái con mụ Tư bún chỉ khéo mồm, bán thì đắt, mày chỉ khéo vẽ vời tốn tiền.”

“Thế mẹ có ăn không?”

“Chả ăn thì sao?”

“…”

Tôi cười nuốt cả kem đánh răng.

Cả làng tôi đều biết bà cụ Thao là địa chủ hết thời, ai cũng sợ cụ. Ngày cụ còn trẻ còn khỏe, đanh đá nhất làng, chẳng ai dám động đến cụ. Thế mà không hiểu sao cô Tin chịu được những gần hai mươi năm. Nghe đâu ngày cô Tin mới về làm dâu, làm bà cụ tăng huyết áp mấy lần, cụ còn dọa thắt cổ tự tử. Thế là cô cắt ngay cái màn tuyn, nối thành cái dây dài treo thòng lòng từ nóc nhà xuống, rồi bảo cụ leo lên. Cụ tức quá chửi ầm lên, nói cô muốn giết cụ. Cô phì cười bảo là cụ tự muốn chết, nếu không muốn chết thì xuống bếp ăn cháo cá đi không nguội nó tanh. Cụ chọn cháo cá. Vừa ăn vừa hừ, hừ, hừ.

Chú Tự đi làm xây dựng mãi dưới Quảng Ninh, một năm chẳng về được mấy lần. Bà cụ tuổi già hay ốm, hay nũng, hay giận. Chỉ có cô Tin mới trị được cụ. Mỗi lần hàng xóm nói cô khổ, vớ được mẹ chồng ghê gớm, cô cười hi ha, “người già với trẻ con là một, dỗ dành một tí là ngoan như bống ấy mà.” Ban đầu mọi người nghĩ cô khôn khéo ý tứ, cho là cô ba phải, sau rồi phát hiện ra cô chẳng bao giờ đi nói xấu mẹ chồng ở bất cứ đâu. Thành ra mỗi ngày thấy mẹ con cô “hát tuồng”, ai cũng dỏng tai lên nghe rồi đem đi buôn bán trong những vụ dưa lê ngoài ruộng. Mà bà cụ gắt gỏng là thế, nhưng đi đâu cũng một câu con Tin nhà tôi, hai câu con Tin nhà tôi. Sau hàng xóm cũng quen, lại nghĩ chắc cô Tin và bà cụ kiếp trước là nghiệt duyên, kiếp này phải trả nợ, cả đời dính vào nhau.

Hàng ngày hai người tranh chấp toàn chuyện lông gà vỏ tỏi. Từ việc hát ru con tới việc tắm cho lợn, mà cuối cùng toàn bà cụ thua. Vừa ăn vừa thua, vừa phơi lưng cho con dâu bóp thuốc vừa lầm bầm chửi biết thế ngày xưa tao ép thằng Tự lấy đứa nhiều chữ hơn. Học nhiều nó mới ngoan. Cô Tin cười ha hả, làm gì có ai nhiều chữ bằng mẹ, văn thơ mẹ cả cái chuồng trâu nhà mình chứa không hết.

“Cha tiên sư bố mày…”

Một hôm, cô Tin cuống lên đi tìm bà cụ. Chả là không biết bà cụ nghe ai nói chú Tự có bồ. Thế là cụ bỏ ăn, nằm liệt hai ngày. Cô Tin gọi chú Tự về gấp, chú bảo bận chưa về được. Sáng hôm sau cô đi chợ, về thì không thấy cụ đâu. Cô tìm nhà trên xóm dưới, rồi hoảng hốt chạy ra ao, ra giếng, không thấy bóng người. Cô cuống lên gọi điện thoại, “mẹ anh chết rồi anh có về không hả? Không thấy mẹ anh đâu, anh về ngay còn kịp tìm xác.”

Chú Tự về nhanh như một cơn gió, bốn giờ chiều đã có mặt ở nhà, hàng xóm hỗ trợ tìm cụ từ trưa không nghỉ. Thấy chú về cô khóc toáng lên, đánh chú thùm thụp, miệng liên tục sao giờ anh mới về, không thấy mẹ đâu cả, không thấy mẹ đâu cả. Thiu hết cả bánh giò rồi.

“Mới có từ trưa thiu thế nào được?”

Cả nhà: “…”

Không biết cụ chui từ đâu ra, cả người lấm lem.  Cô Tin nín bặt cả khóc. Cả xóm trắng mắt. Ai nấy đều thở phào. Chưa kịp phào xong thì cụ ngã lăn quay ra đất, mọi người lại tán loạn đưa cụ đi trạm xá cấp cứu. Bác sĩ bảo cụ bị tụt huyết áp do quá đói. Rồi bác sĩ nguýt cô Tin một cái rõ dài, “đúng là một mẹ nuôi được mười con chứ mười con không nuôi nổi một mẹ.”

Cô Tin: “…”

Truyền được nửa chai đường thì bà cụ tỉnh lại, thấy con dâu khóc thút thít cụ xì mặt ra: “mày định khóc bây giờ cho đủ để lúc tao chết mày không khóc nữa phải không?”

Cô Tin: “…”

“Bánh giò có mang theo không?”

Cô Tin: “…”

“Biết ngay mà, chỉ có giả bộ thảo hiền là giỏi.”

Chú Tự, cô Tin: “…”

Có mẹ chồng giỏi ăn nói nó khổ thế đấy.

Cô hỏi cụ, mẹ trốn ở đâu cả ngày mà tìm mãi không thấy. Bà cụ hừ một cái, trốn trên cái hố mối bãi chè sau nhà chứ đâu. Mày cứ động tí là đầu óc lú lẫn, bã đậu.

“…”

Trưa hôm sau bà cụ được về nhà. Sau khi ăn xong bát cháo gà tần thuốc bắc, cụ gõ cái gậy xuống đất, bắt chú Tự quỳ xuống trước bàn thờ ông cụ Thao. Chưa kịp nói gì cụ đã phang túi bụi.

“Con chó có đuôi, con người có ý thức. Vợ anh ở nhà bán mặt cho đất, bán lưng cho giời, để anh ra ngoài ăn chơi đàng điếm hả?”

“Con không có.”

“Tôi quản anh có hay không hả? Tôi là tôi biết hết, anh chê tôi già mắt kém anh định qua mặt tôi phỏng? Đường đường là thằng đàn ông, văn chương chữ nghĩa bề bề, thần l… nó ám thì mê mặc lòng. Tôi nói anh biết, nhà tôi chỉ có mình con Tin được có tên trong gia phả. Mấy con yêu tinh quạ cái kia đừng hòng bước chân vào. Anh khôn hồn thì biết đường mà về nhà hối lỗi với vợ con. Tôi chỉ có ba đứa cháu, tôi không cần cháu trai, anh thích đi kiếm con hoang con ở thì cút khỏi cái nhà này. Hừ, hừ, hừ.”

Sợ bà cụ tăng huyết áp, cô Tin đuổi chú ra nhà ngoài, tối đó cô ngủ cùng bà. Sáng hôm sau cô bảo chú: “mẹ bảo tay mẹ bưng trầu đầu mẹ đội lễ mẹ rước tôi về, nên nhà này của tôi. Anh cứ chọn đi, bà cụ chả sống được mấy nữa, bà chỉ có mình anh, anh sống sao thì sống.”

Nửa tháng sau người ta thấy chú Tự xách ba lô về, sau đó đi theo mấy ông thợ cả ở làng nhận mấy công trình nhà văn hoa thôn bản.

Còn bà cụ và cô Tin ở nhà vẫn cất bài ca đi cùng năm tháng.

“Thế gian được vợ hỏng chồng. Nhà mày thì hỏng cả ông lẫn bà.”

“Không phải đều là con mẹ à?”

“Tao mà đẻ ra cái loại chúng bay à?”

“Thế chồng con chui ra từ cái lỗ nẻ nào?”

“Cái loại rạch giời rơi xuống chứ sao.”

“Rồi rồi, con thần con thánh, sét đánh không chết. Mẹ ngồi im con kỳ lưng, trơn là ngã gãy cổ bây giờ.”

“Hừ. Hừ. Hừ.”

Categories
Chuyện ngắn

MIỆNG THIÊN HẠ


unnamed - 2022-12-27T182259.094

MIỆNG THIÊN HẠ

Ông M ngoài 80, vợ chết đã 10 năm còn bà N đã qua một lần đò, ngoài 70. Hai người cô đơn trong hai căn nhà vắng đôi. Họ là đôi bạn trên sàn khiêu vũ của hội Người cao tuổi quận H đã 3 năm. Tâm đầu ý hợp, hai người có ý định dọn về chung nhà, chung nồi, chung mọi thứ…

Bà có người em gái sống cách nhà bà 100 mét. Nhà ông cách nhà con trai 5 căn. Ông hỏi ý kiến con trai, con dâu; bà thăm dò ý kiến em gái, em rể.
Sau 3 ngày các con ông, các em bà không bàn mà có ý kiến giống nhau: Ông bà đang cô đơn tình cảm lứa đôi, nói theo luật pháp là đang không vợ, không chồng đến với nhau là chính đáng. Chỉ hiềm tuổi ông bà đã cao, sức đã xuống. Ý kiến là: Ông bà cứ đi khiêu vũ thường xuyên, đi lại như người một nhà; con ông, em bà tổ chức ăn uống mời cả bà, cả ông cùng vui. Ông bà cứ đến với nhau khi cần. Coi nhau là tình nhân chứ không là vợ chồng. Chẳng có câu “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở”, hay “ Tình yêu thú vị hơn hôn nhân”…. đó sao.
Ông bà đồng ý.
Các con ông và các em bà tổ chức một bữa ăn thân mật bốn nhà, họ cùng vui vẻ nâng chén mừng cho ông bà.
Từ hôm đó mọi người thấy ông bà dắt tay nhau đi khiêu vũ, đi ăn sáng, đi chợ, đi chơi. Lúc thì ông đến nhà bà, khi thì bà đến nhà ông. Họ chào ông bà, ông bà vui vẻ chào lại. Hai người ở hai nhà mà hạnh phúc.
Sáng hôm ấy người ta nhìn thấy ông bà chở nhau đi ăn sáng.
Một người nói: “Nhìn kìa…”
Người khác nói: “Già rồi mà còn rửng mỡ”
Lại người nữa: “Chẳng biết tháng có được một cái không”
Người nữa: “Sống được bao nhiêu nữa mà…”
Đúng là miệng thiên hạ.
Họ có gì phạm pháp không? Không! Trai không vợ, gái không chồng đang yêu nhau. Chiểu theo “Luật Tình yêu”. Làm gì có “Luật Tình yêu”.
Hai trái tim đang cô đơn đến với nhau, yêu nhau thắm thiết, lúc cần đến với nhau, chẳng có luật nào cấm, cũng chẳng có luật nào cấm họ không được sex. Với họ sex là tự do, thích thì sex. Vâng họ không sống được bao lâu nữa, nhưng họ yêu cuộc sống. Họ là con người, ngoài sex ra họ còn bao nhiêu thứ cần có nhau: Tình cảm, tâm tình, nụ cười, ánh mắt,…

Xin các vị hãy nhìn đời với ánh mắt nhân văn, đừng khắt khe với người, hãy khắt khe với mình, hãy đặt mình vào hoàn cảnh của họ.

ST.

Categories
Chuyện ngắn

SẢN PHỤ BỆNH AIDS


81924223_468660684049666_2179119329130315776_n

SẢN PHỤ BỆNH AIDS

Thông tin bệnh nhân AIDS chuẩn bị nhập viện sinh con đã khiến cả khoa sản náo loạn. Các y tá đồng thanh nói:

– “Ai sẽ chịu trách nhiệm trong trường hợp bị lây nhiễm?”

Ngay cả một số bác sĩ cũng phản đối :

– “Nếu bệnh nhân khác bị lây nhiễm qua dụng cụ phẫu thuật và giường chiếu thì phải làm thế nào?”.

Sau một hồi tranh luận, cuối cùng bệnh nhân cũng được sắp xếp vào chiếc giường số 13, phòng cách ly đặc biệt của khoa sản. Khi trưởng khoa phân công trực ban, không ai muốn nhận vào trong đó. Cuối cùng chỉ còn lại tôi – một y tá vừa tốt nghiệp ba tháng, nơm nớp lo sợ bước vào căn phòng.

Vừa vào tới phòng, người mẹ sắp sinh mỉm cười với tôi. Tôi cứ nghĩ rằng những phụ nữ mắc loại bệnh này hẳn sẽ phấn son trang điểm lòe loẹt. Nhưng không phải vậy, cô cũng như những người phụ nữ bình thường khác, khuôn mặt hiền từ, mái tóc dài ngang vai, chân đi đôi giày búp bê…

“Cảm ơn cô!”

Một giọng nói trong veo và nhẹ nhàng, cô là một phụ nữ bình thường nhưng lại mắc căn bệnh không hề bình thường chút nào.

Thì ra người mẹ trẻ tại giường số 13 này là một cô giáo trung học phổ thông. Một hôm trên đường từ trường về nhà, cô bị tai nạn xe hơi. Vì mất quá nhiều máu nên cô phải truyền máu gấp và không may bị nhiễm HIV.

Đến tận khi cô đi khám thai, bác sĩ mới phát hiện cô đã mắc phải căn bệnh thế kỷ. Cuộc đời cô đã bước sang một ngã rẽ mới, ảm đạm và mờ mịt với kết cục buồn phía trước.

Đáng thương nhất là đứa bé trong bụng, nguy cơ bị lây nhiễm cũng rất cao, xác suất không dưới 20% đến 40%. Người mẹ không còn hệ thống miễn dịch, vì thế các biến chứng trong quá trình sinh là vô cùng nguy hiểm.

Khi chồng cô đến đã khiến cho cả khoa một phen kinh ngạc. Chồng của một phụ nữ bị AIDS thì trông thế nào nhỉ? Khác xa với tưởng tượng của chúng tôi, chồng cô là một nhân viên văn phòng giỏi máy tính, đeo kính cận, cao ráo, lịch sự, và có phong thái rất đĩnh đạc.

– “Anh à, anh đoán xem con chúng ta sẽ giống em hay giống anh hơn?”

Tôi đang trải ga giường, nghe thấy những câu nói nhỏ nhẹ nỉ non của đôi vợ chồng trẻ thì sống mũi cay cay, nước mắt bắt đầu rơm rớm. Thì ra họ là một gia đình hạnh phúc.

– “Tất nhiên là giống anh rồi, nếu là con gái thì mới giống em chứ!”

Cô vợ nghe vậy còn phụng phịu làm nũng ra điều không chịu.

Khi tôi bước ra khỏi phòng bệnh, nước mắt tôi chảy dài, trái tim tôi chua xót vô cùng.

Hàng ngày cô ấy phải uống nhiều loại thuốc khác nhau để kiểm soát lượng virus HIV, hầu như ngày nào cũng phải lấy máu và truyền dịch. Hai cánh tay đầy đặn, nõn nà nay đã chi chít những vết kim tiêm.

Tôi là y tá mới ra trường, vốn sống còn ít ỏi lại khá “nhát gan”. Nhất là những lúc lấy máu, tôi vẫn thường làm cô ấy đau đến chảy nước mắt, nhưng cô chưa bao giờ nổi cáu với tôi, chỉ âm thầm cắn răng chịu đựng, thỉnh thoảng còn mỉm cười nói “không sao”.

Chỉ vài ngày sau khi cô nhập viện, tôi dần dần rất thích cô ấy.

Tuy còn vài ngày nữa mới đến ngày sinh, nhưng cả khoa đã chuẩn bị sẵn sàng.

Cô năm nay đã 31 tuổi lại mang trong mình căn bệnh AIDS, nên bệnh viện cả trên lẫn dưới đều trong trạng thái đề phòng cao độ. Nhưng bản thân cô lại rất bình tĩnh, hàng ngày đều đọc sách và nghe nhạc, còn viết thư tình hoặc vẽ tranh tặng con yêu.

Một hôm tôi đánh bạo hỏi:

– “Tại sao cô lại sinh đứa bé ra, rằng cô có biết nguy cơ lây nhiễm là rất cao?”

Cô vừa mỉm cười vừa trả lời tôi:

– “Con tôi đã đến với tôi, đó là duyên nợ, hơn nữa tôi không có quyền cướp đi sinh mệnh của bất kì ai.”

Tôi do dự, nhưng vẫn quyết định hỏi:

– “Nếu cháu bị nhiễm HIV thì sao?”

Cô ấy im lặng một lúc, sau đó tiếp tục nói:

– “Nếu không thử thì con tôi sẽ không có cơ hội sống nào.”

Tâm trạng tôi vừa buồn vừa xót xa, không khí trong căn phòng trở nên ngột ngạt. Khi tôi chuẩn bị ra ngoài, cô đã nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi, đôi mắt rưng rưng và nói:

– “Tôi muốn nhờ cô một việc, khi tôi sinh con dù có xảy ra chuyện gì, chồng tôi nhất định sẽ cứu lấy tôi. Nhưng tình trạng của tôi cô cũng biết rồi đó, vì thế nếu thực sự xảy ra chuyện xấu, xin hãy cứu lấy con tôi.”

Tôi cảm động ôm cô và khóc, cô đúng là một người mẹ thực sự.

Dưới ánh đèn huỳnh quang nhạt màu, cô nằm yên lặng trên bàn mổ, thân dưới không ngừng chảy máu, nước ối vẩn đục đã ộc ra. Điều này có nghĩa là thai nhi đang lâm vào tình trạng nguy hiểm vì thiếu oxy.

Thể chất của cô vô cùng đặc thù, không hề có phản ứng với thuốc tê, chỉ có thể chọn mổ sống để lấy thai nhi ra và chấp nhận hy sinh người mẹ. Hai là tiêm thuốc gây mê, nhưng đợi khi thuốc có tác dụng thì em bé trong bụng đã bị ngạt thở hoặc bị sốc vì liều gây mê quá cao, nhưng chỉ như vậy mới có hy vọng cứu được người mẹ.

Cả hai trường hợp đều khiến bệnh viện và gia đình lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan.

Cô nắm chặt tay tôi, đôi mắt nhìn tôi như van nài, giọng nói yếu ớt nhưng rất kiên quyết:

– “Cứu lấy con tôi, nhanh cứu lấy con tôi, không cần phải quan tâm đến tôi…!”

Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến cái nhìn tuyệt vọng đến vậy, trong một căn phòng cũng tuyệt vọng như thế. Một người phụ nữ không thể gây tê, cũng không thể gây mê khi mổ đẻ, bao nhiêu bác sĩ đứng đó đều bất lực.

Con dao phẫu thuật nhanh chóng được đưa xuống bụng dưới, lớp da, lớp mỡ, lớp cơ, niêm mạc rồi tử cung… Người mẹ co giật từng cơn, toàn thân giãy giụa, quằn quại, mắt trợn ngược, khuôn mặt biến dạng vì đau đớn, miệng cắn chặt chiếc khăn trắng và rên lên từng cơn xé lòng.

Tôi không thể chịu nổi khi chứng kiến những giọt nước mắt của cô rơi xuống lã chã. Và tôi biết, đó không chỉ là đau đớn mà còn là tình yêu của người mẹ.

Đến tận hôm nay tôi mới hiểu vì sao làm con phải hiếu thảo với cha mẹ. Bởi mỗi đứa con chào đời là biết bao nhiêu đau đớn, biết bao nhiêu nhọc nhằn, thậm chí là hy sinh cả tính mạng của mẹ.

Cuối cùng, thai nhi đỏ hỏn cũng được đưa ra và khóc lên tiếng khóc yếu ớt đầu đời. Người mẹ vừa ngất lịm đi, đột nhiên nghe thấy tiếng khóc của con nên cô cố gắng hé mở đôi mắt liếc nhìn về phía con yêu, nhưng rồi mí mắt sưng húp nặng trịch lại vội vã cụp lại.

Tôi vội vàng tháo đai cố định ở chân và tay cho cô, vì gồng mình vật lộn với cơn đau, cổ tay cổ chân cô đều rớm máu. Hai mắt tôi đẫm lệ, trái tim tôi cũng như thắt lại…

Thật khó để tin rằng đây là một người mẹ AIDS, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng nhìn thấy con trai của mình. Đôi mắt cô nhắm lại và sẽ không bao giờ còn mở ra được nữa. Cô bị nhiễm trùng nặng và không thể cầm được máu nên đã mãi mãi ra đi.

May mắn là em bé âm tính với virus HIV. Tôi tin rằng ở trên cao kia, cô cũng đang mỉm cười mãn nguyện.

Khi làm vệ sinh phòng bệnh, tôi đã tìm thấy một lá thư dưới gối của cô, bên trong còn vẽ một bức tranh ông mặt trời, bên dưới mặt trời là một đôi tay nhỏ. Cô viết cho con trai rằng:

– “Con yêu, cuộc sống giống như mặt trời, hôm nay lặn xuống ngày mai nhất định sẽ lại lên.”

Tôi không thể ngăn những giọt nước mắt, cuộc sống thật quá mong manh và cũng thật mạnh mẽ. Người mẹ nào mà chẳng thương con? Vậy cớ sao chúng ta lại phải phân biệt đối xử?

Cuối cùng tôi đã hiểu, cô cũng như những người mẹ bình thường khác, dũng cảm để giành lấy sự sống cho con.

Khi đứa bé được xuất viện, cháu nằm yên bình trong vòng tay cha. Ban đầu đứa trẻ khóc rất to, giống như biết mẹ nó sẽ không bao giờ còn quay về nữa. Nhưng nó chợt ngừng khóc khi tôi đặt bức thư lên ngực. Dường như trong lòng bé cũng đang mỉm cười khi nhận lấy cuộc sống vĩnh cửu này.

Mai này lớn lên em sẽ biết rằng, mẹ của em là người mẹ vĩ đại nhất trên đời.

Nguyễn Quang

Categories
Chuyện ngắn

Câu chuyện đêm Giáng Sinh.


67960159_168041234354863_8385796754926206976_n

Câu chuyện đêm Giáng sinh.

Buổi chiều ngày 24 tháng 12 năm 2004, Wendy, cô sinh viên năm thứ hai đại học Dược khoa đang đứng đợi chuyến xe lửa dưới subway của thành phố New York để trở về nhà.
Tất cả các anh chị em của cô đều hẹn là sẽ về nhà trước 7 giờ tối để đoàn tụ trong buổi cơm chiều thân mật cùng cha mẹ theo truyền thống của gia đình họ
Bỗng Wendy để ý đến một cặp nam nữ đứng cách cô vài bước, họ đang ra dấu bằng tay để “nói chuyện” với nhau. Wendy hiểu được thuật ngữ ra dấu bằng tay, vì trong những năm đầu đại học cô đã tình nguyện làm việc trong trường tiểu học dành cho người khuyết tật, nên cô đã học được cách ra dấu tay để trò truyện với những người câm điếc.
Vốn tính ham học hỏi, Wendy đã khá thông thạo thuật ngữ này. Nhìn vào cách ra dấu của hai người khuyết tật ở trạm subway, Wendy đã “nghe lóm” được câu chuyện của hai người. Thì ra, cô gái câm hỏi thăm đường đến một nơi nào đó, nhưng chàng thanh niên câm thì “trả lời” là anh không biết nơi chốn đó.
Wendy rất thông thạo đường xá trong khu vực nầy nên cô mạnh dạn đứng ra chỉ dẫn cho cô gái. Dĩ nhiên cả ba đều dùng cách ra dấu bằng tay để “nói” trong câu chuyện của họ. Khi xe lửa đến trạm thì Wendy và hai người bạn mới quen đã kịp thời trao đổi emails cho nhau.
Những ngày sau đó, ba người tiếp tục trò chuyện dùng phương tiện nhắn tin của mobile phone rồi dần dà họ trở thành bạn thần giao cách cảm với nhau. Chàng trai kia tên là Jack và cô gái tên là Debbie. Jack cho biết anh đang làm việc cho một hãng xuất nhập khẩu và ở cách nhà Wendy không xa lắm.
Từ những tin nhắn, emails thăm hỏi xã giao lúc đầu, cả hai trở thành bạn thân lúc nào không hay. Đôi khi Jack đến trường đón và mời cô đi ăn. Cả hai thích khung cảnh êm đềm trong Central Park nên thường yên lặng đi bên nhau trong những giờ phút nghĩ ngơi. Tuy phải ra dấu để trò chuyện nhưng Wendy không cảm thấy bất tiện mà cô lại có dịp trau dồi “thủ thuật” để nghệ thuật ra dấu của cô càng lúc càng tinh xảo hơn.
Đến mùa thu năm đó thì hai người đã thân thiết như một cặp tình nhân. Wendy đã quên hẳn Jack là một người khuyết tật, cho nên lần đầu tiên khi Jack ra dấu “I Love You” thì Wendy đã nhẹ nhàng ngả đầu vào vai anh.
Sau những giờ học, thỉnh thoảng Wendy cũng vào chatroom đấu láo với bạn bè, mỗi khi Wendy đặt câu hỏi “Bạn có thể fall in love với một người câm điếc hay không?” thì hình như không có bạn bè nào của cô có được câu trả lời dứt khoát. Điều này đã khiến cho Wendy bị dày vò không ít.
Vào dịp lễ Thanksgiving năm đó, Jack tặng cho Wendy một bó hoa hồng kèm theo câu ra dấu: “Wendy có chịu làm girl friend của mình không?” Wendy vừa vui mừng vừa kinh ngạc nhưng sau đó là những sự mâu thuẫn khổ sở trong nội tâm. Wendy biết rõ là cô sẽ gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của những người thân.
Quả nhiên cha mẹ cô khi biết rõ sự việc đã dùng đủ mọi phương thức để mong lôi kéo đứa con gái “lầm đường lạc lối” trở về. Thôi thì hết chú bác, cô dì, lại đến các anh chị em, bạn học, được cha mẹ có vận động tới để làm thuyết khách.
Đứng trước áp lực này, Wendy chỉ có thể phân trần với gia đình về nhân cách cao cả của Jack, cô còn cho mọi người biết là thái độ lạc quan, đầu óc thực tế, tích cực của anh đã khiến cô cảm thấy gần gũi hơn những bạn trai mà cô đã từng quen biết trước đây.
Gia đình sau khi nghe cô giải bày đã không còn quá khắt khe phê bình, mọi người dự định là sẽ gặp mặt Jack trước rồi mới có thể đánh giá cuộc tình của hai người. Cả nhà đồng ý là sẽ gặp mặt Jack vào trưa ngày 25 tháng 12 sau khi mọi người đã hưởng một “đêm yên bình” cho tâm tư lắng đọng.
Wendy đã có quyết định trong đầu, nếu như cha mẹ, anh chị của cô có những cử chỉ, hành động khinh miệt Jack thì cô và Jack sẽ đi đến nhà thờ để nhờ sự gia ơn và chúc lành của Thiên chúa.
Trên đường dẫn Jack đến nhà, tâm trạng hồi hộp của của Wendy đã không thoát khỏi cặp mắt quan sát của Jack, anh mỉm cười ra dấu cho cô:
– Wendy yên tâm, bảo đảm với em là cha mẹ em sẽ hài lòng. Anh cho họ biết là anh sẽ thương yêu em, chăm sóc em suốt đời.
Đó là lần đầu tiên trong đời cô sinh viên trường thuốc rơi rớt những giọt lệ cảm động.
Vừa vào đến nhà, Wendy nắm tay Jack đi đến trước mặt cha mẹ, cô nói:
– Thưa ba má, đây là Jack, bạn trai mà còn thường nhắc đến.
Câu nói của cô vừa thốt ra thì tất cả những hộp kẹo bánh, hoa tươi trên tay Jack tức thời lộp độp rơi xuống đất, anh nhào tới ôm lấy cô vào vòng tay khỏe mạnh của anh.
Một điều mà Wendy không thể ngờ được là cô bổng nghe một giọng nói thảng thốt phát ra từ cửa miệng của Jack:
– Trời đất, em biết nói à?
Đó cũng chính là câu mà Wendy muốn hỏi Jack.
Mọi người ngoại cuộc đều ngẩn ngơ ngạc nhiên trong khi hai người trong cuộc thì ôm nhau cười, nói, la, hét, nhảy nhót như điên dại. Thì ra Jack cứ ngỡ Wendy là một cô gái câm thế mà anh vẫn sinh lòng quyến luyến mà còn muốn tiếp tục đi đến hôn nhân. Wendy cũng tự hào có quyết định sáng suốt vì đã chọn được người tình trong mộng tuyệt vời nhất thế gian.
Thượng Đế của chúng ta đang ngự ở trên cao, hình như ngài cũng đang che miệng cười cho trò đùa mà ngài đã đạo diễn suốt một năm qua.

Sưu tầm.

Categories
Chuyện ngắn

BÁN CHỒNG CHO BẠN


14063990_990769971022142_6897292563052948175_n

BÁN CHỒNG CHO BẠN
Thuy Van
Nàng không ngủ được, câu chuyện nàng nghe hồi sáng cứ vang vọng mãi trong đầu, hành hạ nàng. Quay sang thấy anh vẫn thở đều, giấc ngủ ngon với gương mặt đầy toại nguyện.Nàng cố dằn để không đánh thức anh dậy nửa đêm hỏi cho ra lẽ. Kinh nghiệm của người phụ nữ nhạy cảm và từng trải dạy cho nàng biết sự điềm tĩnh và thận trọng không bao giờ thừa.  Dạo này công việc làm ăn gặp nhiều trục trặc đã khiến nàng trở nên lơ là gia đình, có lẽ đây là cái giá nàng phải trả cho sự tham vọng của phụ nữ, nàng đã quá chủ quan và đặt niềm tin không đúng chỗ.
Nàng đã từng rất tự hào vì có một người chồng luôn ủng hộ sự nghiệp của mình,không đòi hỏi ở nàng trách nhiệm quá cao trong việc làm vợ. Nàng không thể thường xuyên nấu cho chồng những bữa cơm ngon, không thể mỗi tuần cùng chồng về thăm ba mẹ hai bên, không thể có những ngày lễ lãng mạn để ngủ nướng và cùng nhau ăn sáng trên giường, nhưng nàng đã cố gắng rất nhiều để gia đình được no đủ, để họ hàng hai bên được chăm lo chu đáo và hơn hết là để chồng nàng chuyên tâm nghiên cứu. Nàng không muốn chồng nàng vì mưu sinh mà bỏ phí tài năng và đam mê trong góc phòng thí nghiệm. Anh đã từng nói rất biết ơn nàng vì điều đó. Lẽ nào nàng đã sai?
Nàng may mắn có một cô bạn gái thân thiết như chị em ruột từ những ngày ấu thơ. Bạn nàng khôn ngoan lanh lợi, sớm thành đạt và có một người chồng giàu có dù đôi khi nàng thấy những tia buồn trong mắt bạn khi nghe cô tâm sự về cuộc hôn nhân không có tình yêu. Họ hiểu nhau, tin nhau, trong lúc việc kinh doanh sa sút chính cô bạn thân đã không ngần ngại cho nàng mượn một số tiền lớn mà không cần thế chấp. Và cũng chính nàng đã là bờ vai, là chỗ dựa, là nơi trút lòng, sẵn sàng bỏ buổi họp để bên cạnh bạn khi cuộc hôn nhân thiếu tình yêu kia có dấu hiệu rạn nứt. Lẽ nào nàng đã sai?
Đôi ba tin đồn ác ý về mối quan hệ mập mờ giữa hai người nàng hết sức tin tưởng  đến tai nàng cũng chẳng mảy may nghi ngờ. Nàng vẫn biết thói đời thêu dệt nhiều chuyện oái oăm, con người ta luôn thấy chút gì đó thích thú trước những bất hạnh của đồng loại. Tuy nhiên nàng cũng thừa nhạy cảm và đủ thông minh để thiết lập một hàng rào bảo vệ hạnh phúc của chính mình. Những câu chuyện vu vơ về mối quan hệ ngoài luồng của ai đó. Những tâm sự đàn bà về người chồng đầu ấp tay gối. Những tín hiệu ngầm như cảnh báo. Những khẳng định chắc nịch của lòng tin về sự chung thủy và cả những tia quan sát ngấm ngầm sẵn sàng chặn đứng mọi tội lỗi có thể. Nàng đã chu đáo, đã cẩn thận, đã tự tin như thế. Lẽ nào nàng đã sai?
Nàng nhìn hai con người trước mặt mình, hai con người nàng đã yêu thương tin tưởng biết dường nào, nay bắt tay cùng nhau phản bội nàng. Cuộc gặp gỡ ba người mà nàng cố tình sắp xếp khiến cho đối phương không giấu kịp sự ngỡ ngàng. Nàng thấy lòng hơi hả hê khi nhận ra vị trí phán xét của mình trước hai con người tội lỗi không dám nhìn thẳng vào mắt nàng. Họ không nhìn nàng và cũng không dám nhìn nhau. Nàng đã hồi hộp chờ đợi giây phút này, để tuôn ra muôn ngàn lời chì chiết chửi rủa thậm tệ, nàng nghĩ ra tất cả những câu đau đớn nhất có thể, nàng biết rõ từng điểm yếu của đối phương vì đã có thời nàng coi họ là máu thịt của chính mình. Nàng có thể giết họ, chỉ bằng một câu nói. Vậy mà giờ đây, nàng không thể thốt nên lời, nàng nhìn họ đăm đăm rồi vội quay đi, cố ngăn không cho những giọt nước mắt trào ra. Không được khóc, nàng tự nhủ, mình không được khóc. Chính họ mới là người phải khóc vì  đã phản bội mình. Lòng kiêu hãnh giúp nàng ngẩng mặt lên ngạo nghễ. Họ cất lời xin lỗi càng khiến nàng thêm tức giận. Đồng thanh đồng khí làm sao!
–        Tại sao lại là hai người? – nàng hỏi mà không mong một câu trả lời- hai người thèm nhau tới thế  sao?
–        …!
–        Dù sao đây cũng chẳng phải chuyện tốt đẹp gì. Tôi cũng không muốn làm to chuyện để mọi người cười chê, chúng ta nên giải quyết trong nội bộ ba người thôi.
Nàng nhếch môi cười khi bắt gặp cái thở phào dù rất khẽ. Dám làm mà còn sợ người ta biết, hèn thế!
–        Nếu em mở lòng tha thứ, chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu như không có chuyện gì xảy ra, anh hứa sẽ…
Nàng giơ tay ngăn chồng nói tiếp
–        Em sẵn sàng để hai người đến với nhau mà tận hưởng hạnh phúc! Cứ yên tâm!
–        Không, mình không…!
Nàng lại trừng mắt khi cô bạn vừa mở lời. Trong lúc này, nàng mới là người được quyền lên tiếng và quyết định chứ không phải họ. Bất kỳ câu nói nào phát ra từ hai cái miệng đáng ghét kia cũng có nguy cơ làm cơn giận trong lòng nàng bùng nổ.
–        Đổi lại chúng ta có một thỏa thuận – nàng nhìn cô bạn đang ủ dột cúi đầu – cậu đã cho mình mượn năm trăm triệu cách đây ba tháng. Mình là người sòng phẳng và không muốn nợ nần ai, nhất là với cậu, cho nên mình bán anh ta cho cậu để trừ nợ. Cậu lấy anh ta và chúng ta không còn nợ nần gì nhau.
–        Em! Sao em có thể…?
–        Tại sao không? Điều kinh tởm nhất là ngoại tình với bạn vợ anh còn làm được thì anh có quyền gì mà trách móc ai? Đúng,  tôi bán anh cho cô ta đó, năm trăm triệu là quá tốt rồi chứ con người anh thực ra không đáng một xu. Tuy nhiên cô ta thèm khát anh như vậy thì bỏ năm trăm triệu ra lấy anh về mua vui chắc cô ta chẳng tiếc đâu, đúng không?
Nàng nhìn hai gương mặt tái xanh vì hổ thẹn và bị xúc phạm, biết mình đã đánh đúng chỗ yếu nhất. Trái tim nàng có giây lát sung sướng hả hê. Hai con người trí thức, tự tôn và hiểu biết kia, câu nói của nàng còn đau đớn, nhục nhã hơn vạn lần xỉa xói chửi rủa mỉa mai. Nàng xách túi đứng lên, nhìn hai người ngồi đó bằng ánh mắt khinh bỉ nhất mà nàng có thể.
–         Thế nhé, nếu có ai quen hỏi thăm tôi sẽ nói ngắn gọn là bán chồng cho bạn thân với giá năm trăm triệu, còn những việc khác hai người muốn giải thích thế nào thì tùy,  tôi không quan tâm, từ nay chúng ta không còn bất cứ quan hệ nào với nhau nữa. Chúc may mắn!
Nàng kiêu hãnh quay bước đi, biết chắc hai người ngồi lại sẽ vì câu nói của mình mà không thể yên ổn. Đối với nàng đây mới thực sự là đòn trừng phạt đáng giá.
Nàng dắt xe, nổ máy, cố giữ cho tay mình bớt run rẩy. Trong sự thích thú hả hê khi làm cho đối thủ kinh hãi, nàng nhận thấy cả nỗi đau ngấm ngầm mà giờ đây chỉ còn riêng với mình, nàng cảm nhận nó trào sôi dữ dội. Nàng đeo khẩu trang, đeo kính, mặc áo khoác, che đậy mình thật kỹ và chạy đi. Dưới lớp bọc kín đáo, nỗi đau vùng lên thổn thức và nước mắt nàng không ngừng tuôn rơi. Trong dòng người hối hả trên đường, không ai hay có một người đang giấu gương mặt đầm đìa sau lớp khẩu trang. Nàng lướt đi như trôi vào cõi mộng du.
***
Sân bay Tân Sơn Nhất một ngày nhiều gió, người đàn bà trung niên quấn lại chiếc khăn quàng cổ, dõi mắt nhìn trời xanh như tìm kiếm một hình ảnh quen thuộc, một mảnh trời quê mà bà nghĩ có lẽ suốt đời mình chẳng bao giờ gặp lại. Đã hai mươi năm kể từ ngày bà rời bỏ  quê hương, mang theo trong tim nỗi đau như cắt và cả lòng tin đã vụn vỡ, hy vọng xứ người xa lạ có thể làm hàn gắn một vết thương. Nhưng người đàn bà càng thành đạt bao nhiêu càng thấy lòng mình nhức nhối bấy nhiêu vì vết thương tưởng chừng như hóa thạch vẫn thầm âm ỉ trong tim. Sống trong nỗi giận hờn đau đớn suốt hai mươi năm, một ngày chợt nhận ra tóc đã bạc màu, môi thôi thắm tươi và mắt đã hằn những vết thời gian, lại chợt thèm quay quắt trở về, trở về để thứ tha, để quá khứ không còn hành hạ đêm đêm, để tìm cho mình phút bình an cuối cuộc đời. Tha thứ cho người và cho cả chính mình.
Căn nhà nhỏ hơn bà nghĩ, giản dị đến không ngờ. Trước sân trồng bụi hoa nguyệt quế xum xuê, loài hoa mà bà vẫn yêu thích. Bà hít một hơi rồi nhấn chuông, lòng không dưng hồi hộp kỳ lạ. Một người phụ nữ gầy gò khắc khổ bước ra mở cửa, họ nhìn nhau, sững sờ, ca nước trên tay chủ nhà rơi xuống vang một tiếng khô khốc.
Họ ngồi trong phòng khách, đã hai mươi phút trôi qua mà vẫn chưa ai cất nên lời, ngập ngừng bà hỏi một câu khách sáo
–        Hai người vẫn khỏe chứ?
–        Tôi vẫn khỏe, nhưng ông ấy thì…
Chủ nhà ngập ngừng đưa mắt nhìn vào nhà trong
–        Ông ấy bệnh à?
–        Ông ấy đột quỵ, nằm một chỗ đã năm năm nay rồi!
–        Vậy ư? Ông ấy vốn rất khỏe mà. Hai người thay đổi nhiều quá, suýt nữa tôi không nhận ra.
–        Còn bà vẫn đẹp như xưa, thậm chí còn đài các hơn rất nhiều, thời gian có vẻ như không làm ảnh hưởng tới bà mấy. Chắc bà sống rất hạnh phúc?
–        Hạnh phúc? Nếu tôi thật sự hạnh phúc liệu hai người có thấy thanh thản hơn không? Hai người cũng đang rất hạnh phúc cơ mà.
Bà chủ nhà giật mình trước cái nhìn của vị khách, bà thu người trong cái ghế, thân hình gầy ốm càng có vẻ teo tóp lại trước vẻ tự tin và ánh mắt nhiều hàm ý kia. Mất một lúc lâu bà chủ nhà mới lên tiếng
–        Chúng tôi không hạnh phúc như bà nghĩ đâu. Ngày đó, sau khi bà bỏ đi, chúng tôi đã sống những ngày thật kinh khủng dưới sự lên án và dè bỉu của những người thân quen. Chúng tôi có lỗi và phải chịu hình phạt. Nhưng hình phạt lớn nhất, kinh khủng nhất không phải là cái nhìn của dư luận mà chính là câu nói sau cùng của bà : “ bán chồng cho bạn với giá năm trăm triệu!”. Câu nói đó ám ảnh hai chúng tôi đến tận bây giờ.
–        Tôi không nghĩ sau việc làm của hai người thì còn có điều gì khiến hai người phải e ngại!
–        Thật ra mối quan hệ của chúng tôi chỉ là một phút không kiềm chế mình. Tôi không phải là thanh minh! Nhưng chúng tôi chưa bao giờ có ý nghĩ đến với nhau, nhất là ông ấy, ông ấy vẫn rất yêu bà và chưa bao giờ có ý định bỏ bà cả.
–        Nhưng rốt cuộc hai người vẫn đến với nhau!
–        Phải, có lẽ vì chúng tôi quá cô đơn và cùng chịu chung một nỗi dày vò. Điều đó đã đưa chúng tôi đến gần nhau hơn, chứ không phải là tình yêu. Chúng tôi sống cùng nhau để động viên nhau, an ủi nhau, cùng nhau chờ đợi…
–        Chờ đợi điều gì?
–        Sự tha thứ của bà!
–        Thật khó tin!
–        Phải, có lẽ bà không tin, nhưng hơn hai mươi năm sống chung chúng tôi trên danh nghĩa luật pháp vẫn không phải là vợ chồng. Chúng tôi không có giấy hôn thú, ông ấy không muốn đăng ký kết hôn vì đối với ông ấy bà là người vợ duy nhất! cuộc sống của chúng tôi thật chẳng dễ dàng. Ông ấy không còn đam mê nghiên cứu, công việc của tôi cũng gặp khó khăn, có lẽ đó là quả báo. Chúng tôi ở chung một nhà, ăn chung một mâm cơm, ngủ chung một giường và cùng chung một người để nghĩ đến. Chúng tôi không dám nhìn vào mắt nhau, không dám ôm nhau ngủ, thậm chí không dám cả việc có con, tất cả chỉ vì nỗi ân hận và sợ hãi dày vò. Chúng tôi cô đơn và mệt mỏi, tận cùng, như một cái giá phải trả. Năm năm trước ông ấy đột quỵ, nằm liệt một chỗ, nói năng cũng trở nên khó khăn, vậy mà ông ấy vẫn luôn gọi tên bà. Chúng tôi luôn cầu mong một ngày nào đó bà quay về và tha thứ cho chúng tôi.
Người đàn bà ngồi nghe, lặng người, tâm trí hoang mang. Lẽ ra bà phải thấy thích thú, hả hê lắm khi chứng kiến cuộc sống thương tâm của hai người đã từng  hủy hoại lòng tin yêu trong bà. Vậy mà giờ đây, trước người đàn bà một thời bà căm hận, bà chỉ thấy một nỗi xót xa không nói nên lời.
–        Bà  cho tôi vào thăm ông ấy!
Bà không dám tin vào mắt mình nữa, hai mươi năm, hai mươi năm làm người ta thay đổi đến thế này ư? Nằm bất động trên giường là một người đàn ông gầy gò, già nua và mỏi mệt. Bà không dám tin đây chính là người đã từng là chồng mình, đã từng là người đàn ông bà hết mực yêu thương, đã từng là người đàn ông làm bà đau đớn vì yêu và hận suốt mấy chục năm trời.
–        Ông có nhận ra ai đây không?
Đôi mắt người đàn ông nhìn bà thật lâu, cái nhìn ban đầu vốn lãnh đạm phút chốc trở nên thảng thốt
–        Yến… Yến!…em Yến, …vợ…vợ anh!
Người đàn ông lắp bắp, khuôn miệng méo xệch, những âm từ rời rạc vang lên, vội vã, vui mừng lẫn tủi hổ. Bà nhìn ông, bật khóc. Bà bước tới, nắm bàn tay giơ ra chờ đợi, bà căm giận ông, nhưng muôn ngàn lần không muốn ông phải khổ sở thế này. Đôi mắt người đàn ông ầng ậc nước, cái nhìn dán vào mặt bà như tìm kiếm, van nài, cái nhìn khẩn khoản đầy hy vọng.
–        Đừng…đừng…bán …anh!
Bà sững sờ nhìn ông nghe lòng nghẹn đắng. Trời ơi, hóa ra câu nói của bà đã ám ảnh ông đến tận bây giờ. Thốt nhiên bà thấy ghê sợ chính mình, bà thấy mình cũng độc ác, cũng hèn hạ, cũng nhẫn tâm, thậm chí nỗi đau bà gây ra cho đối phương còn kinh khủng gấp mấy lần. Tại sao, tại sao khi đó bà lại nói ra câu nói độc địa đó? Phải chăng vì lời nói tàn nhẫn đó mà chính bản thân bà suốt hai mươi năm vẫn không được một ngày vui vẻ?
–        Tha…tha thứ…cho anh!
Ông vẫn lắp bắp nói, ông có lẽ nuốn nói rất nhiều, phải chi ngày đó bà cho ông một cơ hội lên tiếng, bà đã để cơn giận lôi mình đi quá xa. Nước mắt ông vẫn ứa ra làm hai người đàn bà nghẹn ngào tức tưởi không thốt nên lời.
–        Ông ấy vẫn còn rất yêu bà! Ông ấy và cả tôi nữa đều mong nhận được sự tha thứ từ bà, có vậy chúng tôi chết mới nhắm mắt được.
–        Khi tôi quay về đây là tôi biết mình cần phải làm gì. Bản thân tôi mang nỗi căm hận trong lòng cũng chưa từng có một ngày được sống yên ổn. Tôi tha thứ cho hai người, và tôi cũng muốn tha thứ cho chính mình. Chúng ta đều đã già, hãy sống những ngày còn lại thật vui vẻ. Những hỉ nộ ái ố của cuộc đời đã không còn dành cho chúng ta nữa rồi.
Bà quay sang ông, dùng tay lau đi những giọt nước mắt đang ứa ra trên gương mặt nhăn nhúm vì xúc động của người bà một thời yêu thương, và nở một nụ cười nhẹ nhàng.
–        Em đã tha thứ cho anh từ rất lâu rồi! tha thứ cho cả hai người! anh và cô ấy!
Người đàn ông gật gật đầu, môi nở một nụ dẫu méo mó nhưng đầy sức sống, nước mắt vẫn cứ chảy ra, chảy ra không sao ngăn lại.
Người đàn bà rời khỏi căn nhà đơn sơ sau buổi trùng phùng. Bà chủ nhà bịn rịn tiễn chân, lúc quay vào nhận ra trên bàn một phong bì trắng. Có một lời nhắn gửi lại: “ Đây là năm trăm triệu ngày xưa bà cho tôi mượn, tôi xin trả lại đồng thời rút lại lời nói khi đó, tôi không bao giờ bán chồng cho bạn với  giá bao nhiêu đi nữa. Mọi chuyện đã xảy ra xin hai người hãy quên đi để cả ba chúng ta có thể có những ngày cuối đời thanh thản! Thân ái. Bạn gái thân của bà: Phi Yến.”
thuy van
Categories
Chuyện ngắn

TÂM SỰ CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ NGOẠI TÌNH


nhung-bai-tho-chia-tay-nguoi-yeu-hay-nhat_041456519

TÂM SỰ CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ NGOẠI TÌNH
 
Tôi ngước nhìn lên bức ảnh cưới treo ở góc phòng, hai kẻ kia đang tay trong tay, tay ôm hoa tươi cười mãn nguyện.
Mười năm trước chắc hẳn cả tôi và chồng tôi đều nghĩ, được cùng nhau sống dưới một mái nhà là niềm hạnh phúc nhất thế gian. Thực ra thì cũng đã có những ngày như vậy.
Cho đến khi áo cơm đè nặng, và những đứa con lần lượt ra đời…
Thỉnh thoảng tôi vẫn có cảm giác không hiểu nổi mình, không hiểu bản thân mình đang thực sự muốn gì. Tôi có còn yêu chồng tôi nữa không? Tại sao vợ chồng sống với nhau bao nhiêu năm, rồi một ngày nhận ra chẳng còn niềm hứng khởi, yêu thích và rung động nào nữa. Chúng tôi đã cùng nhau đi qua những tháng năm như thế, bận rộn mưu sinh và lơ là yêu thương, hiểu nhau rõ đến mức nhàm chán. Tôi dù sao đi nữa cũng chỉ là đàn bà, có thể mạnh mẽ ngoài đời nhưng trong tình yêu vẫn cần những lời âu yếm. “Đàn bà yêu bằng lỗ tai mà”. Nhưng chồng tôi thì cho rằng: lãng mạn chỉ dành cho những kẻ yêu nhau chưa vướng bận gia đình. Có nhiều lúc tôi thèm một vòng tay ôm, thèm một nụ hôn cho ngày kỉ niệm nào đó mà anh đã quên vì cho rằng nó vẽ vời. Và giờ tôi cũng không nhớ, lần cuối cùng chúng tôi hôn nhau là khi nào nữa.
Tôi gặp người đàn ông ấy trong một bữa tiệc nhỏ. Người đàn ông ấy cũng như tôi, đã có gia đình. Vậy mà cái cách anh ta nhìn tôi, hỏi han quan tâm tôi khiến tim tôi loạn nhịp. Người đàn bà dễ bị khuất phục nhất là khi họ cô đơn. Có lẽ anh ta xuất hiện vào lúc tôi cảm thấy mình cô đơn và chống chếnh.
Tối đó anh đưa tôi về, dừng cách xa nhà một đoạn vơí lí do “sợ chồng em thấy hiểu nhầm lại khổ em”.
Tôi bước vào nhà, thấy chồng đang kéo chăn đắp lại cho con, miệng phàn nàn với tôi về việc thằng lớn học hành chểnh mảng, còn con bé con thì bướng bỉnh cứng đầu. Rồi anh hỏi tôi vài câu trước khi chìm vào giấc ngủ.
Tôi nằm bên cạnh anh, xấu hổ nhận ra lòng mình đang nghĩ về một người đàn ông khác.
Chuyện gì cũng thế, đã có sự khởi đầu thì mọi chuyện tiếp theo chẳng có gì là khó khăn. Tôi và anh ta từ vài tin nhắn, vài cuộc gọi rồi gặp gỡ nhau, ăn tối, cà phê, hẹn hò. Mỗi ngày trôi qua đều nhớ nhau đến cuồng dại. Cảm giác đó không phải tôi chưa từng có với chồng tôi, chỉ có điều nó quá xa rồi. Người đàn ông này đang làm cho tôi nhận ra tôi không phải là một phụ nữ hai con tẻ nhạt và đơn điệu. Mỗi lời anh ta nói, mỗi việc anh ta làm đều khiến tôi hài lòng và xúc động.
Một lần sau cuộc hẹn, anh ta đề nghị cả hai vào khách sạn. Đúng là tôi si mê anh ta thật, nhưng lên giường cùng anh ta tôi lại thấy phân vân. Tôi không phải là kẻ độc thân, đi đến giới hạn cuối cùng của tình yêu rồi sẽ nhận được gì? Cuối cùng tôi đành làm một phép thử. Chúng tôi đi thuê một phòng nghỉ nhỏ, cảm giác như anh ta cũng không quá vồn vập, vội vàng. Bởi có lẽ trong đầu anh ta đang nghĩ: Tôi trước sau gì chả là của anh ta.
Tôi cởi một vài nút áo rồi hỏi:
-Vì sao anh yêu em?
– Vì em đáng được yêu mà.
– Chúng ta có thể mãi ở bên nhau không?
– Cả hai chúng ta đã có gia đình rồi mà. Như thế này chẳng tốt hơn sao?
– Vậy thì anh bỏ vợ, còn em bỏ chồng. Chẳng lẽ mình cứ mãi thế này?
Người ta thường nói trong tình yêu, đàn ông và đàn bà là hai sự khác biệt. Đàn ông có thể lên giường với cả những phụ nữ họ không có tình cảm. Còn đàn bà chỉ ngủ với người mà họ yêu. Đàn ông ngoại tình rồi sẽ trở về với vợ con. Đàn bà khi đã ngoại tình thì chẳng muốn về nhà nữa.
Trong phút giây, tôi nhận thấy ánh nhìn anh ta có chút sửng sốt. Anh ta bắt đầu nói năng không còn được mạch lạc với muôn vàn lý do. Và tôi trong cơn mê sảng vì yêu vẫn còn đủ thông minh để nhận ra anh ta không muốn vứt bỏ gia đình của mình. Anh ta cũng ngoại tình, tôi cũng ngoại tình, nhưng xét cho cùng là tôi thua hẳn anh ta.
Tôi đi ra khỏi nhà nghỉ, không thèm nói một câu từ biệt.
Tôi về nhà mẹ đẻ hai ngày để đầu óc mình tỉnh táo lại. Tôi kể chuyện mình cho mẹ nghe. Mẹ buồn bã nhìn tôi, ánh mắt lộ rõ vẻ vừa thất vọng, vừa thương xót. Mẹ nói:
“Cuộc đời có phải là tiểu thuyết ngôn tình đâu mà con đòi hỏi nhiều thế. Chồng con yêu con là muốn bên con cả đời. Còn người đàn ông kia yêu con vì muốn cùng con đi một đoạn đường ngắn ngủi. Chồng con không dùng quá nhiều sức lực và thời gian cho con, bởi nó còn phải để dành sức lực chăm lo cho gia đình, cuộc sống. Còn người đàn ông kia yêu con tưởng như chết đi sống lại bởi anh ta chỉ cần yêu con một vài hôm, ngủ với con một vài đêm rồi sẽ vứt bỏ con. Chồng con chăm sóc cho cuộc sống của con. Còn người đàn ông kia chỉ chăm sóc cho tình cảm của con thôi. Con sẽ chẳng thể tìm đâu ra, một người vừa làm tròn trách nhiệm người chồng người cha lại cuồng nhiệt yêu đương và lãng mạn như một người tình. Đừng có tự làm khó mình như thế. Ngôi nhà hôn nhân, bước ra thì dễ, muốn về rất khó, con hãy cẩn trọng từng bước đi”.
Tôi ngồi nghe từng lời của mẹ, cảm giác miệng mình khô khốc không nói thành lời. Giá như mẹ tát cho tôi vài cái, có lẽ tôi đỡ đau hơn những lời mà mẹ vừa nói. Bởi vì càng nghe tôi càng nhận ra tôi là một người đàn bà không ra gì, cảm thấy ghét chính mình, khinh bỉ chính mình. Làm người ai cũng có lúc đúng lúc sai. Và khi sai, người ta có thể ngụy biện bằng muôn vàn lí do, nhưng ngoại tình thì chỉ có sai chứ không bao giờ đúng. Mẹ tôi nói:
“Lạc đường không đáng sợ, điều đáng sợ nhất là không biết mình muốn đi đâu”.
Sau đó tối ngày thứ ba tôi trở về nhà, lên sập ngủ một giấc dài chìm sâu sau một đêm,
Tôi mở mắt khi mặt trời đã chói lòa qua khung cửa sổ. Không gian im ắng lạ thường, không có tiếng léo nhéo mè nheo của lũ trẻ, một lúc mới nhớ ra hôm nay là chủ nhật.
Có tờ giấy nhỏ đặt ở đầu giường, trong đó là nét chữ nguệch ngoạc của chồng tôi:
“Thấy mẹ ngủ ngon, ba bố con không nỡ thức. Bố con anh đi sang ông bà nội, mẹ dậy rồi sang sau nhé”.
Bật mình ngồi dậy, nắng chói hắt vào mặt. Đúng mà, phải đi qua đêm tối, mới thấy được sự rực rỡ của ánh vầng dương. Hạnh phúc đích thực chẳng ở đâu xa, cớ sao cứ mệt nhoài đi đâu tìm kiếm.
Sưu tầm

Categories
Chuyện ngắn

Lời nói từ một chiếc giầy


LV-2

– 18 giờ: chị gọi điện thoại đến sở làm của chồng, đồng nghiệp chồng nói rằng: “Anh ấy  vừa đi ăn tối ở nhà hàng”. Linh tính cho chị biết đó là… “nhà nàng” chứ không phải “nhà hàng”.

– 20 giờ: sau khi cho các con ăn xong, chị đến nhà nàng, xe của chàng ở trong sân. Linh tính đã không đánh lừa chị. Có cái gì đó rất nóng, trào lên nơi cuống họng nhưng chị đã kịp nuốt nó vào.

Không bấm chuông, không đập cửa, cũng không gào thét. Chị chỉ cởi một chiếc giày bên chân phải của mình, treo vào phía trong cánh cửa sắt rồi về nhà, giúp các con ôn bài.

– 23 giờ: chàng chỉnh trang lại y phục, chải lại mái tóc rối bù và sửa soạn ra về. Nàng ra mở cửa cho chàng và giật mình khi nhìn thấy một chiếc giày treo trong khung cửa sắt. Nàng thốt: “Sao lại có một chiếc giày ở đây? Một chiếc giày rất đẹp!”

Về đến nhà, chàng lại thấy có một chiếc giày đặt ngay ngắn trên bậc cửa. Chàng đứng như trời trồng trước chiếc giày đó và ngủ riêng ngoài phòng khách vì không muốn nghe vợ cằn nhằn, khóc lóc.

Nhưng chàng trằn trọc mãi không sao ngủ được. Sẽ có giông bão trong căn nhà này. Sẽ là nước mắt, tiếng la hét và cuối cùng có thể là một lá đơn ly hôn. Rồi hai đứa nhỏ sẽ chán đời, đi bụi và hư hỏng…

Đó là tấn bi kịch đáng sợ nhất. Sáng hôm sau mọi việc vẫn diễn ra bình thường cùng với tô phở và mấy dòng chữ của vợ: “Em đưa các con đến trường. Anh ăn sáng rồi đi làm”.

Chàng vội gọi điện thoại cho nàng: “Chiếc giày kia là của vợ anh!”. Giọng nàng ở đầu dây bên kia nghe hơi hoảng hốt: “Trời ạ! Anh muốn làm sao thì làm chứ nếu chị ấy đến nhà em làm ầm lên thì em không sống nổi đâu. Chiều anh tạt qua lấy chiếc giày về!”.

Một ngày trôi qua mà giông bão không nổi lên, thái độ của vợ anh vẫn bình thản, song một chiếc giày trên bậc cửa cứ nhắc chàng về sự lẻ loi và tội lỗi. Rồi anh lấy hết can đảm, lôi chiếc giày trong cốp xe ra, đặt ngay ngắn bên chiếc giày của vợ.

Chị đi làm về, đứng sững trước bậc cửa mấy giây rồi chạy vào, ôm ghì lấy chồng mà thì thầm: “Ôi! Chiếc giày của em!”. Chàng cũng thì thầm bên tai vợ: “Anh xin lỗi em… nghìn lần xin lỗi em!”.

Đàn ông nếu biết kỹ quá khứ của vợ thì “đau đầu”… còn đàn bà, nếu biết hơi nhiều về hiện tại của chồng thì “đau tim” lắm. Đó là chuyện thường tình nếu có xảy ra “chiến tranh” trong cuộc sống vợ chồng.

Ai mà chẳng lầm lỗi, việc người chồng mang chiếc giầy “đi lạc” về nhà chứng tỏ một sự ăn năn của mình trước những sự việc đã xảy ra. Thay vì cứ làm lơ như không có gì, người chồng đã mang giầy về nhà để thể hiện một ý tưởng “dứt khoát”: Không có gì hạnh phúc bằng mái ấm gia đình bên vợ con.

Ta cũng phải “cám ơn” người vợ đã giải quyết một cách ôn hòa, không phải nói nhiều vì “chiếc giầy đã nói thay”. Người ta thường nói: “Bất chiến tự nhiên thành”… chứ đâu cần phải to tiếng với nhau, đi đến ly hôn để rồi những đứa con phải chịu phần thiệt thòi nhất!

Chuyện được kể theo trên mạng và người kể chuyện cũng chỉ muốn nói thêm:

“Những cặp vợ chồng trẻ ngày nay rất cần đọc chuyện này… Mọi sóng gió rồi cũng qua đi nếu cả hai đều là những người biết điều và biết ăn năn sửa lỗi. Đối với những người “thiện tâm”, hạnh phúc luôn ở phía trước chứ không phải ở chuyện quá khứ”.

(Sưu tầm)

Categories
Chuyện ngắn

NHAN SẮC


259477149_2153878684801587_6505079789958152999_n

NHAN SẮC

“Người đàn bà đứng tuổi hỏi đàn bà trẻ:
– Em đã ngủ với chồng chị chưa?
Đàn bà trẻ sa sầm nét mặt, đôi mắt ghì chặt vào đáy ly sóng sánh ánh cam. Vài phút lặng lẽ trôi qua, đàn bà trẻ phát ra thứ âm thanh nghèn nghẹn mà nội dung chẳng liên quan gì đến câu hỏi:
– Anh ấy nói với em, chị không chăm lo và không thể chia sẻ cùng anh ấy…
Đàn bà đứng tuổi tiếp nhận bằng nét mặt thản nhiên. Giống như cô đã quen với tiếng báo thức lúc 6h30 mỗi ngày, để tất bật chuẩn bị bữa sáng cho chồng, đánh hộ anh đôi giày để anh có thể an tâm rời khỏi nhà đi làm.
Đàn bà đứng tuổi chậm rãi tuông từng lời:
– Đây không phải là lần đầu tiên chị nghe câu nói ấy từ cửa miệng một phụ nữ trẻ. Có điều chị tự hỏi: “Tại sao trong cuộc đời, hầu hết đàn bà chỉ cần duy nhất một người đàn ông hiểu mình, chăm lo cho mình. Trong khi đa số đàn ông lại cần nhiều người đàn bà hiểu mình, chăm lo cho mình đến thế?”.
Đàn bà trẻ cúi xuống, nước mắt khi không mà chảy. Tiếng đàn bà đứng tuổi vẫn vang lên đều đặn:
– Trong mối quan hệ lằng nhằng này, chúng ta chỉ có hai cách giải thích. Hoặc là cả ba cùng có lỗi, hoặc là không ai có lỗi, lỗi tại “Nhan sắc” mà ra… Thôi, chị về đây, còn phải đi đón cháu. Em từ từ suy nghĩ và chọn cho mình một kết cục mà em muốn. Chỉ có điều “Nhan sắc” là thứ phù du nhất cuộc đời này em ạ…!
Đàn bà đứng tuổi đi rồi, để lại trong gió ánh mắt đen láy và mùi hương thoang thoảng. Đàn bà trẻ nhìn theo dáng dấp ấy và thầm nghĩ: “Chị ta từng được gọi là nhan sắc…”. Chuông điện thoại reo vang, đàn bà trẻ giật mình. Đầu dây bên kia, tiếng người đàn ông – như đa số đàn ông khác – cần nhiều đàn bà trong cuộc đời, nói hối hả: “Em à, cẩn thận nhé. Mụ nhà anh phát hiện ra em rồi. Mụ để cả xấp hình chụp chúng ta đi vào nhà nghỉ, rồi cả căn nhà nơi em đang trọ học. Tạm thời đừng liên lạc nhiều nhé. Anh sẽ tranh thủ giải quyết để gặp em sớm…”.
Đàn bà trẻ không đáp trả. Tiếng tít tít vang lên vồn vã và bất ngờ. Bất ngờ như cơn mưa ngoài khuôn quán kia. Lúc này cô mới nhận ra sự tinh xảo của đàn bà đứng tuổi khi chọn quán cà phê cô và người đàn ông ấy thường hò hẹn làm nơi gặp nhau hôm nay. Đàn bà trẻ nhìn ảnh mình trong tấm gương phản chiếu loang loáng màn nước, nghĩ mãi đến điều đàn bà đứng tuổi gửi lại trước khi đi: “Nhan sắc…”
Đàn bà đứng tuổi để toàn bộ tập ảnh giấy tờ liên quan đến người tình mới nhất của chồng lên bàn làm việc cho anh rồi lẳng lặng trở về phòng. Nhìn lại mình trong gương, đàn bà đứng tuổi biết mình đã sai khi chiều qua đổ lỗi mọi điều cho “Nhan sắc”. Đàn bà nhớ lại lời một người đàn bà lớn tuổi hơn: “Đàn ông nào vốn mang tính trăng hoa thì hoạ may khi chết đi mới bỏ được. Chấp nhận lấy anh ta là chấp nhận cảnh chồng chung cả đời…”
Đàn bà đứng tuổi thở dài, tắt đèn trong tiếng nhạc da diết buồn “Bàn tay làm sao níu, một thời vừa đi qua…”
Đàn ông trở về sau cơn mưa giông bất ngờ. Phong bì hình ảnh vợ để trên bàn đêm qua vẫn còn làm anh chới với. Hai lần trước vợ chỉ nói: “Anh dừng lại đi, đừng để em biết quá nhiều…”. Đàn ông ngoan ngoãn nghe theo vì thiết nghĩ: “Còn nhiều thời gian khác mà!”. Lần này, đàn bà làm điều gay cấn hơn. Đàn ông nằm vật nơi phòng khách, chẳng dám vào phòng ngủ. Anh sợ những câu chất vấn không lối thoát dành cho mình, sợ mình trở thành thằng hèn như kẻ trộm bị bắt gặp. Đàn ông ngủ quên lúc nào không hay. Đàn ông muôn đời là thế. Họ không như đàn bà, điển hình là đàn bà trong phòng ngủ kia, ngổn ngang cả đêm không chợp mắt.
6h30, đàn bà choàng dậy như một loại phản xạ vô điều kiện. Nhưng rồi nghĩ lại, đàn bà cho phép mình lao vào phòng tắm chà rửa bản thân sạch sẽ, bóng loáng trước khi lao vào bếp. Đàn bà cho phép mình thoa chút phấn son trước khi đánh giày cho chồng. Và gọi chồng dậy với ánh mắt vô tư như chưa từng xảy ra chuyện gì. Đàn ông hớn hở như thoát được nạn, thay đồ, ăn sáng, và huýt sáo rời khỏi nhà đi làm, không quên hôn vợ.
Đến cơ quan, đàn ông hí hửng rút điện thoại định gọi cho đàn bà trẻ, bất ngờ đọc được tin nhắn gửi sẵn từ đêm qua: “Em tha thứ cho anh, chúng ta tha thứ cho nhau. Em cố gắng và em biết anh cũng sẽ cố gắng. Chỉ có điều: Nhất quá tam. Chúng ta cùng ghi nhớ điều đó. Em yêu anh!”
Đàn ông run tay vì biết đàn bà đứng tuổi không nói đùa. Đàn ông đang nghĩ, liệu những nhan sắc đang phới phới ngoài kia, rồi có mang đến cho anh những điều anh đang sở hữu? Liệu khi những nhan sắc ấy tàn phai, anh còn lại gì?
Đàn ông bóp trán, buông điện thoại. Ngồi thừ một lúc, anh mở email làm việc. Tên đàn bà trẻ đứng đầu trong inbox với lá thư “Nhan sắc”. Đàn ông hồi hộp mở ra. Đàn bà trẻ viết:
“Em và nhan sắc cũ của anh đã gặp nhau cách đây vài ngày. Chị ấy không còn mới như em. Nhưng chị ấy có thứ nhan sắc khác. Tuỳ vào sự lựa chọn của anh. Em mong tin anh!”.
Đàn ông nghe tim đập liên hồi. Ngã vật ra ghế, nốc cạn ly cà phê. Ly cà phê có thể đã làm đàn ông tỉnh táo hơn hoặc đã làm anh ta say. Đàn ông đem mọi thứ lên bàn cân, như vốn phải thế trong đầu óc một gã kinh doanh thành đạt. Đàn ông khôn ngoan, bản lĩnh nhìn thấy rõ ràng ngày hôm qua có sức mạnh lớn lao thế nào trong việc tạo ra hôm nay. Đàn ông cũng không còn đủ trẻ để liều lĩnh đem chưa – đến – nửa – cuộc – đời còn lại ra cá cược.
Đàn ông im lặng rời khỏi inbox. Chiều hôm ấy, đàn ông về sớm, đón con cùng vợ dưới cơn mưa tầm tã. Đàn bà đứng tuổi không quên chiếc khăn tay trong ví, lau vội nước mưa trên mặt, trên tóc chồng. Đàn ông nhìn vợ, nhớ lời đàn bà trẻ trong lá thư rồi nghĩ: “Đàn bà đứng tuổi của mình có một thứ nhan sắc mà không phải bất ky nhan sắc nào cũng có được…”
Vấn đề là, suy nghĩ ấy rồi sẽ tồn tại trong cuộc đời còn lại của đàn ông được bao lâu? Khi hàng ngày đàn ông vẫn phải tiếp xúc và nhìn thấy hàng nghìn nhan sắc mới đang hừng hực ngoài kia?…

(Sưu tầm)

HOME

Categories
Chuyện ngắn

CON KIẾN


unnamedl

CON KIẾN
(Vũ Thất)
Ba tôi đã chọn cho các chị tôi mỗi người một đức lang quân rất đáng giá kể theo thứ tự bắt đầu bằng chị lớn: giáo sư, bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư. Còn tôi, khi vừa đủ khả năng làm vợ, nhân một buổi họp mặt gia đình, ba tôi long trọng tuyên bố: “Thằng rể cuối cùng của gia đình này nhất định phải là một luật sư. Và phải là thằng luật sư… ngon lành!”. Tôi đã vui sướng nghĩ thầm: thì ra ông đặc biệt dành thằng rể mang cùng nghề Luật sư cho
con gái út ông cưng nhất. Buổi họp mặt không có mẹ tôi. Tôi chắc bà cũng đồng ý với chồng như đã từng đồng ý với chồng. Bà mất năm ngoái…
Từ hôm đó, bất cứ chàng luật sư nào ông quen biết hoặc do bất cứ ai giới thiệu, ông để tôi mặc sức tìm hiểu. Còn với những anh chàng không mang lấy nghề luật sư tự ý đến làm quen, ông vờ sai tôi đi mua gì đó mà khi trở về, anh chàng đó đã rời nhà!
Suốt hai năm liền, không một “thằng” luật sư nào được chúng tôi chấm là ngon lành. Có người bị chê là quá lứa, có người quá non. Có người bị chê là quá nghèo, hoặc quá ăn chơi. Có người bị chê là quá đần hoặc nói quá nhiều. Nhưng rồi chúng tôi cũng “chấm” được một chàng. Xét về nhiều mặt, xem ra còn hơn cả… ngon lành.
Từ ngày được chấm, dù công việc tòa án khá bộn bề, Tân vẫn dành một buổi tối mỗi tuần qua nhà dùng cơm. Trò chuyện trong bữa ăn đa phần là trao đổi việc tòa án. Từ sau đó đến khuya là Tân mới hoàn toàn thuộc về tôi. Riêng trọn ngày thứ bảy anh đưa tôi dạo phố, xem phim, khiêu vũ… Tân dạy tôi khiêu vũ để sẵn sàng cho bữa tiệc tân hôn sau khi tôi tốt nghiệp đại học năm tới…
Rồi bỗng nhiên con đường êm ái tiến vào cuộc đời làm vợ của tôi đụng phải… ngã rẽ tâm tình. Người đưa tôi vào ngã rẽ đó là cô bạn thân. Cô nàng muốn dự một dạ hội mà phải có tôi đi cùng thì mới được cha mẹ cho phép. Không như những lần trước là sau khi bạn tôi đã gặp người yêu, tôi quay về nhà, lần này tôi quyết định tham gia. Tôi đã có dịp trải nghiệm dạ hội Thủ Đức, dạ hội Không Quân nên đâm ra tò mò về dạ hội Hải Quân!
***
Người yêu của bạn tôi đón tiếp chúng tôi trên cầu tàu dẫn lên sân thượng một chiến hạm. Dọc cầu tàu chăng các dây đèn nhiều màu xen kẽ tạo một cảm giác dễ chịu. Dọc theo chiến hạm, ánh sáng lộng lẫy làm nổi bật hình dáng đầy uy lực. Đẹp mắt nhất là ngọn đèn pha chiếu chùm tia vút lên khung trời. Người tham dự hiện diện khá đông.
Buổi dạ vũ đang mở đầu với điệu nhạc Pasodoble sôi động. Từng cặp đang quay vòng nhộn nhịp vui tươi.
Tôi ngồi vào chiếc bàn trống gần ban nhạc. Cô bạn được người yêu đưa thẳng ra sàn nhảy. Tôi buồn tình bốc vài hạt mứt sen nhai nhâm nhi. Một thủy thủ đến hỏi tôi thích uống gì. Ấn tượng ưa thích đầu tiên là hình ảnh nổi bật: khách với chủ phân biệt rõ ràng: bất cứ ai không mặc quân phục trắng thì là khách. Cả dàn nhạc cũng toàn màu trắng. Họ đang chơi tận tình, thi đua khuyến khích những bước nhảy đẹp lạ, lượn vòng dọc các lá cờ đủ loại, nhiều sắc màu treo quanh lan can. Có lá hình chữ nhật, có lá cờ
hình vuông, hình tam giác. Tám sợi dây đèn màu vàng đỏ tỏa xuống từ đỉnh cột cờ đến mũi và lái. Lối trang hoàng và bầu không khí thoáng mát tạo một vẻ đẹp lạ lùng…
Cô bạn đã nhảy tiếp bản thứ nhì mà tôi vẫn cô đơn. Tôi ao ước phải chi có Tân và chắc chắn đây là cơ hội để anh trổ tài. Tôi đã rủ anh nhưng nhằm đêm anh bận. Thôi thì thiên hạ đều có đôi, và dạ hội Hải Quân là thế đấy, tôi còn ở lại làm gì! Tôi nâng ly cô-ca lên môi, nhâm nhi cho đến cạn gần một nửa, chờ bản nhạc chấm dứt. Tôi đưa mắt tìm cô bạn và may quá, người yêu của nó đang đưa nó về bàn.

Vào đúng lúc tôi định ngỏ lời từ giã thì một Hải quân đến mời tôi bản nhạc vừa bắt đầu.

Hai quan VNCHĐiệu bolero ưa thích chưa đủ thúc đẩy tôi nhận lời. Chính tia mắt thiết tha, khuôn mặt rắn rỏi dứt khoát đẩy tôi đứng lên. Anh rất lịch sự, khéo léo, nhịp nhàng dìu tôi len lỏi quanh sàn nhảy. Bảng tên trên túi áo ghi Trần Dinh. Bên trên bảng tên là huy hiệu tròn lồng chiếc neo vàng…
Khi bản nhạc chấm dứt, tôi còn lâng lâng muốn nhảy tiếp thì Dinh thản nhiên đưa tôi về bàn và lịch sự nghiêng mình cám ơn. Cô bạn tiếp tục vào sàn nhảy bản thứ tư. Tôi nhìn quanh. Một số thủy thủ đang ngồi ngắm thiên hạ vui đùa. Tôi cợt đùa với chính mình: “Hãy đến mời tôi nhảy đi, còn mắc cỡ gì nữa!” Và ước mong được toại nguyện. Anh chàng nhảy nhuần nhuyễn nhưng chừng mực, không bộp chộp nhiều phô diễn như
Tân. Tôi bắt đầu ưa thích bầu không khí đầy tình thân ở đây. Nhộn nhịp mà không xô bồ. Tiếng nhạc cũng vừa đủ kích động mà không gây trở ngại cho cuộc chuyện trò.
Vừa nhảy tôi vừa dõi mắt tìm Dinh. Anh đang đứng cùng vài Hải quân, cạnh một số hộp bọc giấy màu, nhìn tổng quát hoạt cảnh. Rồi họ nói với nhau gì đó như để chấn chỉnh các thiếu sót…
Khi tôi trở về bàn, chỉ còn một ghế trống duy nhất. Anh chàng áo trắng ngồi bên mời tôi bánh ngọt. Tôi cám ơn và ăn ngay. Vị ngọt của bánh như đến từ tiếng nói người mời:
– Nếu cô cho phép, tôi xin có ý kiến.
Tôi cười thầm: “Nếu định mời khiêu vũ thì nói ngay ra, ý kiến ý cò gì!” Tuy vậy tôi nhã nhặn đáp:
– Ý kiến sao ạ?
Anh chàng nghiêm giọng:
– Cô đẹp nhất dạ hội!
Đây không phải là lần đầu tôi được khen nhưng vẫn thấy vui:
– Tôi e anh lầm chăng?
– Trăm ngàn lần không. Đó là lý do tôi không dám ngỏ lời mời cô khiêu vũ.
Tôi nhìn bộ mặt dễ thương chừng hơn tôi vài tuổi, nở nụ cười tươi:
– Tôi coi đó là lời mời và tôi xin nhận lời.
Anh chàng áo trắng hân hoan dìu tôi vào nhịp điệu Boston. Suốt bản nhạc anh không nói với tôi lời nào, chỉ say sưa với điệu vũ bay bướm. Dứt bản nhạc, trong khi tôi đinh ninh anh sẽ mời tôi bản kế tiếp thì anh lại thản nhiên đưa tôi về bàn và ngỏ lời cáo từ.
Tôi tức mình nghĩ đến lời cô bạn thân: “Thật khó hiểu với mấy ông Hải quân. Nghề nghiệp ảnh hưởng đến tánh tình. Đến đó rồi đi đó, không tỏ ra chút gì luyến tiếc!”
Tôi lại trở về với chính mình và thấy buồn buồn khi bắt gặp Dinh đang cùng một người đẹp nhịp nhàng theo điệu rumba. Xét về tài nghệ thì tôi thua “nàng” các bước vẽ vời.
Thế nào tôi cũng phải nhờ Tân dợt thêm. Khi điệu slow khởi lên, một chàng áo trắng khác đến mời tôi. Tôi thích kiểu áo của anh, cổ vành khăn viền hai lằn đen bẻ lật sau lưng và chiếc cà vạt cùng màu được thắt buông lơi hai đoạn trước ngực. Tôi xăng xái đứng lên. Từ đó tôi luôn bận rộn bản này sang bản khác, với người này đến người khác. Từ đó tôi thấy anh thủy thủ nào cũng thân quen. Và từ đó tôi quên mất chuyện bỏ ra về…
***
Trong giờ giải lao, các chàng áo trắng đến từng bàn trao cho mỗi khách một vé số trúng quà kỷ niệm. Tôi vừa nhận một vé thì Dinh đến. Anh Hải quân ngồi bên tôi đứng lên nhường ghế. Tôi thấy rộn vui. Dinh cất giọng trầm ấm:
– Mong rằng cô không chán ngán cho đến lúc này.
Tôi vội lắc đầu:
– Lúc nào cũng hài lòng.
– Chắc cô đã biết tên tôi.
Cho chắc ăn, tôi liếc qua bảng tên, gật đầu.
– Còn tên cô?
– Tôi tên Thủy.
– Tên đầy đủ.
Tôi cười:
– Có cần thiết không?
Giọng anh thiết tha:
– Rất cần và rất hân hạnh được biết.
Tôi nghe xúc động:
– Phan Thanh Thủy
Dinh nhìn sâu vào mắt tôi, tia nhìn như có mang theo dòng điện:
– Để cám ơn cho biết tên, xin tặng cô một vé số.
Tôi lắc đầu:
– Cám ơn anh, tôi đã có rồi!
– Cô nhận thêm vậy!
– Mỗi người một vé. Nhận thêm hóa ra tôi tham lam!
Dinh nài nỉ:
– Thôi thì đổi vé vậy. Cô nhận tấm này, tôi nhận lại tấm cũ.
Tôi thất vọng phần nào: “Trông vậy mà không phải vậy! Cứ nói dai nói dở thế này thì mất hết cảm tình!” Tôi xẵng giọng:
– Thôi, anh nên tặng cho người khác!
Giọng Dinh trầm buồn:
– Không ngờ tôi… vô duyên đến thế! Thật khổ thân tôi!
Nhìn vẻ mặt bí xị của Dinh, tôi nghĩ mình cũng vô duyên nên dịu giọng:
– Thôi được, tôi nhận lời đổi vé.
Tôi mở ví, nhét tấm vé mới và đưa Dinh tấm vé cũ, trêu chọc:
– Anh hết buồn rồi chứ?
Dinh nhận tấm vé và đưa lên môi hôn:
– Tôi sẽ giữ tấm vé này để nhớ… suốt đời! Cám ơn cô Phan Thanh Thủy.
Loa phóng thanh loan báo bắt đầu cuộc xổ số tặng quà kỷ niệm Đệ nhất Chu niên ngày chiến hạm hoạt động bảo vệ Tổ Quốc. Sẽ có bốn vé trúng. Giải độc đắc là món quà đặc biệt…
Tôi hồi hộp, mong được trúng giải. Hai lần dạ hội nhà binh trước, tôi về tay không. Cô bạn cũng không kém gì tôi, miệng lầm rầm khấn cầu thần thánh. Tôi tâm sự với Dinh:
– Mấy lần chúng tôi dự tiệc nhà binh mà lần nào cũng về tay không! Chỉ mong trúng một món quà để lưu niệm một đêm vui…
Dinh cười:
– Với cô thì rất đáng trúng… quà độc đắc!
Bạn tôi đốp chát:
– Còn tôi?
– Quà độc đắc chỉ có một. Rất tiếc! Xin hứa cô sẽ trúng độc đắc… năm tới!
Chúng tôi cùng cười. Tôi tránh tia mắt của Dinh, tia mắt ranh mãnh làm tim tôi sai nhịp.

Loa phóng thanh loan báo lô trúng đầu tiên. Dinh và tôi cùng nhìn vào tấm vé của mình và đều thất vọng. Một tiếng reo vang từ bàn bên cạnh. Một mệnh phụ lật bật hân hoan lên nhận quà. Món quà là bức ảnh của chiến hạm lộng trong khung viền xanh. Mọi người vỗ tay chia mừng. Tiếp theo là một ông nhận huy hiệu chiến hạm gắn trên tấm gỗ thông hình thuẫn. Rồi một giai nhân lên nhận sợi dây chuyền vàng với chiếc mỏ
neo. Cô hân hoan đeo ngay vào cổ.
Trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt, tôi nói với Dinh:
– Hết hy vọng rồi!
Anh cười:
– Cô chuẩn bị tinh thần đi, họ sắp gọi số của cô đấy!
Tôi mỉa:
– Anh có duyên ghê. Cứ làm như là nhà ảo thuật đại tài, hô trúng là trúng!
– Tôi không “làm như” mà đích thực là ảo thuật gia!
Tôi lại cảm thấy thất vọng. Anh chàng đúng là vô duyên. Cứ thích đùa dai! Tôi xụ mặt, làm thinh…
Ban tổ chức loan báo xổ lô độc đắc và mời một vị khách lên bóc số. Tiếng loa lại vang lên:
– Chúng tôi trân trọng loan báo cùng quý vị kết quả cuối cùng của phần xổ số tặng quà kỷ niệm. Vị nào có vé mang số 21 30 42 56 xin mời lên lãnh giải độc đắc. Xin lặp lại số trúng 21 30 42 56.”
Dù thấy trúng ngay từ lần đầu đọc dò, phải đợi đến lần hai, tôi mới tin là mình trúng thật. Tôi ôm lấy cô bạn sung sướng thét lên. Thấy mọi người dồn mắt về tôi, tôi lúng túng đứng lên, giơ cao với tấm vé. Tiếng vỗ tay rần rộ khiến tim tôi đập loạn xạ. Tôi đè nén xúc động bước đến bàn xổ số. Tôi nghe vang vang tiếng nói:
– Kính thưa quý vị và các bạn. Người trúng giải độc đắc đêm dạ hội là cô Phan Thanh Thủy. Món quà đặc biệt sẽ do đích thân Hạm trưởng trao tặng. Xin kính mời Hạm Trưởng.
Tôi nhìn vào đám đông xem ai là Hạm trưởng. Tôi gần đứng tim khi thấy Dinh đứng lên, thong dong hướng về tôi trong tiếng reo hò nồng nhiệt. Một nỗi ngượng ngùng ập đến, tôi nghe mặt nóng bừng. Rồi tiếng của Dinh như từ nơi xa xôi nào vọng đến:
– Thay mặt toàn thể thủy thủ đoàn, xin tặng cô món quà đặc biệt lưu niệm đệ nhất chu niên của chiến hạm.
Dinh trao tôi một chiếc hộp khá to bọc giấy màu xanh, bên trên có đóa hoa hồng tươi tắn. Tôi ngẩn ngơ đưa hai tay nhận món quà. Giữa tràng pháo tay vang dội, giữa ngỡ ngàng vì chức vụ của Dinh, tôi nghe xúc động nghẹn ngào. Có tiếng nói lớn yêu cầu mở quà! Tôi cầm đóa hồng. Dinh giúp tôi xé bọc giấy. Đó là mô hình chiến hạm mang sắc màu và linh động như thật. Tôi trân trọng nâng cao, chầm chậm xoay quanh trình làng. Tôi xúc động bày tỏ:
– Xin cám ơn Hạm Trưởng và thủy thủ đoàn. Món quà hơn cả ước mong! Chắc chắn tôi sẽ nhớ mãi chiến hạm, nhớ mãi đêm thật vui.
Tôi dợm bước về bàn thì Dinh ra dấu tôi đứng yên. Tôi đâm lo không biết còn trò trống gì nữa. Tôi đã gần như kiệt sức nên gửi Dinh tia nhìn xin buông tha. Anh bước đến sát bên tôi, nói vào vi âm:
– Thưa quý quan khách. Theo chung quyết của thủy thủ đoàn, tôi hân hoan thông báo: Người trúng giải độc đắc, cô Phan Thanh Thủy cũng là người được bầu là hoa hậu “đệ nhất chu niên” của chiến hạm.
Một tràng pháo tay lại vang lên, tiếng huýt gió như phá vỡ con tàu. Hoa giấy bay ngập lên đầu lên cổ tôi.
Tôi nghiêng người đáp lễ, nước mắt rung rưng. Dinh đề nghị tôi nói vài lời. Tôi hít thở, cố trấn tĩnh, tập trung tìm lời phát biểu:
– Kính thưa quý vị. Vinh dự đến quá bất ngờ. Xin cám ơn Hạm trưởng và Thủy thủ đoàn đã dành cho nhiều ưu ái. Xin mạn phép thay mặt tất cả quan khách và nhân danh “hoa hậu”, chúng tôi cầu chúc chiến hạm lập nhiều chiến công hiển hách…
Tôi quay nhìn thẳng vào mắt Dinh tiếp lời:
– Và xin hứa chắc với Hạm trưởng: bất cứ lúc nào chiến hạm cần sự hiện diện của tôi, là… có tôi!
Mọi người cười rần. Dinh đích thân đưa tôi về bàn. Hoa giấy tiếp tục đuổi theo. Tôi nghe tiếng la: “Hạm trưởng cũng trúng số độc đắc!” Những tiếng cười lại rộ lên. Tự dưng tôi thấy lòng rộn rã lạ thường. Dinh đã không còn là người lạ như khi mời tôi khiêu vũ. Giờ đây anh đang thật gần mà cũng thật xa. Tôi chợt nhớ đến Tân và nghĩ đến việc mình nên ra về. Gói quà và đóa hồng trên bàn nhắc tôi về lúc này là không nên không phải…
Dinh chìa tay. Không còn đường lui, tôi nắm bàn tay anh. Bàn tay êm ái nâng nhẹ tôi đứng lên. Khúc nhạc dạo đầu càng làm tôi càng rủn chí. Tôi nói nhỏ với Dinh: “Thủy không rành valse, xin anh…” Anh cười nhẹ: “Tôi cũng vậy. Đừng lo…”
Những ngón tay Dinh trên vai tôi gợi các động tác theo xoay chuyển nhịp nhàng. Chẳng bao lâu, tôi thấy mình xoắn xuýt hòa quyện cùng anh. Dinh luôn luôn giữ khoảng cách lịch sự nhưng đôi mắt thì lúc nào cũng như thôi miên. Tim tôi chưa lần nào đập mạnh khi khiêu vũ với Tân như lần này. Tôi nói để xua nỗi bồn chồn:
– Anh xổ số gian lận phải không?
– Chỉ gian lận số độc đắc!
Tôi bóp vai Dinh như lời phiền trách. Dinh chỉ cười và ngắm say sưa. Điệu valse dồn dập hơn. Chúng tôi không quay tít, chỉ lúc gần lúc xa, lúc qua phải khi qua trái. Tôi bước theo tín hiệu từ những ngón tay mềm mại trên lưng. Tôi muốn được thế này, mãi mãi như thế này. Tôi muốn mãi trong vòng tay Dinh, vòng tay dịu dàng nhưng vững chắc. Tôi nghe choáng váng và hồn lâng lâng…
Tôi bỗng nhận ra một điều bất thường: Sàn nhảy chỉ còn có tôi và Dinh. Tôi hốt hoảng bước sai nhịp. Dinh khéo léo ghì tôi nhập thành một rồi thả tôi ra. Tôi có cảm giác như đang trong mây trong gió…
Bỗng Dinh giữ tôi đứng sững lại. Tôi mở bừng mắt. Hình ảnh chung quanh quay tròn theo tiếng vỗ tay. Dinh đưa tôi đi mà không biết đi về hướng nào. Khi đã ngồi lên ghế, tôi vừa xấu hổ vừa vui thích. Tiếng Dinh dịu dàng:
– Thủy không giận tôi chứ?
Tôi cúi mặt đáp nhỏ:
– Không! Trái lại Thủy cám ơn anh đã cho Thủy cái vinh dự…
Dinh nhìn tôi lặng thinh. Tôi cũng không nghĩ thêm được lời nào. Nhạc đổi sang điệu slow. Dinh lại mời tôi. Tôi ngơ ngẩn đứng lên. Tôi chợt thấy là tôi đã nói sự thật: chẳng bao giờ tôi quên được đêm nay!
***
Từ sau đêm dạ hội, tôi lẩn tránh Tân, viện lý do bận học thi. Tuy vậy, để ba tôi không nghi ngờ, và để giết thì giờ khi Dinh đi biển, tôi thỉnh thoảng miễn cưỡng tiếp tục đi chơi, đi khiêu vũ với Tân.

Khi Dinh trở về, anh đón tôi ở trường rồi hẹn hò gặp gỡ. Bạn tôi đáp lễ bằng cách đến nhà rủ tôi đi chơi rồi giao tôi cho Dinh. Tôi ngồi ôm anh sau chiếc Lambretta mặc cho Dinh hướng về đâu cũng đều hạnh phúc. Có hôm đến vườn cây trái Lái Thiêu, có hôm về tận Trung Lương. Rất may là Dinh không thích vũ trường, tôi đỡ mối lo gặp người quen…
Sau ba tháng, tôi đã biết đầy đủ về gia cảnh, về cuộc sống hải hồ của Dinh. Tuần rồi, anh bàn về tương lai của chúng tôi. Tôi vui sướng nghe anh mà đầu óc cứ lởn vởn về phương cách chấm dứt tình cảm với Tân.
Một tối, nhớ Dinh da diết, tôi dọ ý ba tôi:
– Con nói thật, ba đừng buồn. Con chê luật sư!
Ba tôi ngạc nhiên:
– Ba tưởng…
– Con đã tìm hiểu hai năm rồi mà không thấy hợp…
Ba tôi nghiêm mặt:
– Con đã hứa đám cưới sau khi ra trường! Hứa thì phải giữ lời, đừng lộn xộn!
– Mới chỉ là một dự tính, đã có đám nói đám hỏi gì đâu!
– Chuyện gì xảy ra giữa hai đứa?
– Không gì hết. Con chỉ thấy là… không thương, thế thôi!
Ba tôi nói như quát:
– Luật sư mà mày chê thì mày thích hạng người nào?
Tôi thấy cần dứt khoát:
– Thời chiến, con thích… nhà binh!
Ba tôi trợn mắt:
– Thích cái ngữ đó là khổ một đời đấy con ạ! Ba không muốn con gái cưng của ba phải làm góa phụ trẻ!
– Đâu phải ai đi lính cũng chết trẻ. Số trời mà! Như mẹ có đi lính đâu mà ba phải góa vợ ở tuổi 54!
Ông trân trân nhìn tôi như ngạc nhiên lần đầu tôi dám “lý luận” với ông. Ông cao giọng:
– Thằng nào đó?
Tôi giật mình, lúng túng, lặng thinh. Ông quắc mắt:
– Đừng mong tao gả mày cho nhà binh. Tao bảo luật sư là luật sư!
Tôi thấy buồn phiền và thất vọng nhưng lòng đã quyết bước vào ngã rẽ đầy… hoa biển.
Đó là bản cuối tôi nhảy với Dinh đêm dạ hội và là bản mở đầu tình yêu tôi dành cho Dinh… Những người ba tôi chọn cho các chị quả mang hạnh phúc cho các chị nhưng biết đâu đến lượt tôi lại chẳng còn ứng nghiệm. Biết đâu cũng chính số trời run rủi tôi gặp Dinh. Tại sao tôi không dám làm một cuộc “nổi loạn” cho chính cuộc đời mình. Dinh
khích lệ tôi bằng cách sẽ sớm diện kiến ba tôi và tin rằng anh sẽ thuyết phục được ông.
***
Dinh gõ cửa nhà ba tôi vào buổi tối, sau chuyến công tác dài hai tháng. Người mở cửa là ba tôi. Đang ngồi ở bàn học, tôi hốt hoảng nhìn Dinh đang lễ độ trình bày lý do hiện diện. Tôi trấn tĩnh bước ra nở nụ cười chào. Như thường lệ, ông mời khách muốn quen tôi vào nhà. Nhưng khác với thường lệ, ông không yêu cầu tôi về buồng riêng, mà lại cho phép tôi cùng ngồi với ông. Đó là thái độ hòa ái chưa từng có trước đó. Một dấu
hiệu góp phần hy vọng. Bộ mặt tươi tắn đầy tự tin của Dinh càng làm tăng nỗi vui mừng.
Thế nhưng, ngay từ lời nói đầu tiên, ông đã mở cuộc tấn công:
– Anh được mấy cháu rồi?
Dinh mỉm cười:
– Thưa bác, cháu còn độc thân.
Ba tôi đốp chát:
– Độc thân không có nghĩa là không có con!
Dinh đăm đăm nhìn ông rồi lại mỉm cười:
– Bác là Thẩm phán, cháu đâu dám nói dối!
Ông gật gù tỏ ra hài lòng nhưng tiếp tục tấn công:
– Lính gì?
– Thưa bác, Hải Quân.
– Cấp bậc?
– Đại Úy.
Tôi chen vào:
– Anh Dinh là Hạm trưởng một chiến hạm!
Ông lại gật gù:
– Hân hạnh được đón tiếp ông hạm trưởng. Nhưng nhà này không cần hạm trưởng!
Ba tôi vụt đứng lên, giọng khô khan:
– Anh ra về được rồi! Và đừng trở lại!
Tôi điếng người hết nhìn ba tôi đến nhìn Dinh. Anh từ từ đứng lên, vẻ mặt thản nhiên, lời vẫn lễ độ:
– Thưa bác, cháu thật lòng muốn cưới Thủy. Mong bác xét lại…
Tôi biết tính ba tôi. Khi ông quyết định thì không mong gì có chuyện xét lại. Nhưng Dinh thì vẫn tràn đầy hy vọng. Anh tin là anh có đủ khả năng thuyết phục ông. Từ đây tới khi tôi ra trường còn hơn một năm, dư thời giờ xoay trở…
***
Buổi tối, đang học bài, tôi tự dưng thấy hồi hộp lo âu. Qua kinh nghiệm, mỗi lần như vậy là điềm báo có việc không vui. Tôi ngồi bật dậy, nhìn chiếc chiến hạm quà tặng trên bàn. Đó là phương thuốc thần diệu giúp tôi bình tâm. Liệu Dinh có mệnh hệ gì không?
Dạo này tin tức cuộc chiến sôi động quá. Anh đã đi ba tháng rồi. Hay anh đã về mà không tới. Cả tháng rồi, khi tan giờ học, tôi vẫn đứng ngóng trông anh mươi mười lăm phút ở cổng trường. Cuối tuần tôi xuống bến Bạch Đằng không thấy tàu anh…
Tiếng cười của ba tôi vang từ phòng khách. Tôi nghe tiếng nói của vị luật sư và vội lấy gối đè lên tai. Tôi nghĩ đến Dinh, miên man nhớ anh, nhớ lời trong thư anh: “Mỗi khi nhớ em, em biết anh làm gì không? Anh mở nhạc, bài Hoa Biển, và tưởng tượng đang ôm em khiêu vũ. Rồi anh lấy ảnh “hoa hậu” ra xem. Hoa hậu của chiến hạm nhưng giây phút này là hoa hậu của lòng anh.”
Bỗng có tiếng gõ cửa và tiếng của ba tôi:
– Thủy ơi, ra ba bảo!
Tôi vờ không nghe. Tiếng gõ tiếp tục và giọng to hơn. Không còn phớt tỉnh được, tôi bước đến mở cửa. Ông cho biết Luật sư Tân đang chờ tôi… Mấy lúc sau này Tân đến thường hơn, có thể do ba tôi khuyến khích. Tôi vừa ngồi đối diện với Tân thì ba tôi lên tiếng:
– Tân mời cha con mình đi nghỉ hè ở Vũng Tàu, con nghĩ sao?
Tôi biết ông hỏi “con nghĩ sao” cho có lệ thôi chớ tôi thừa hiểu ông đã nhận lời và tôi không được phép ở nhà một mình. Tuy vậy, tôi vẫn muốn cho ông thấy là tôi không thích đi:
– Con cảm thấy không khỏe. Xin để dịp khác.
Ba tôi ra lệnh:
– Không khỏe thì càng nên đi Vũng Tàu… cho khỏe!
Ba tôi chiều chuộng tôi bất cứ việc gì trừ việc ông đã quyết định. Mười năm làm thẩm phán, ông có thừa lý lẽ để bẻ gãy mọi thuyết phục tôi. Tôi tự an ủi, thì cứ đi, vừa khỏe người vừa biết đâu có dịp khoe Dinh là đã trông thấy con tàu của anh trên đường về bến. Tôi hỏi:
– Đi bao lâu, ba?
– Một tuần!
Như sợ tôi từ chối Tân vội lên tiếng:
– Dự trù là một tuần. Nhưng nếu Thủy chán thì mình về sớm.
Tôi lặng thinh. Có về sớm mà Dinh chưa về thì… càng chán thêm.
***
Căn nhà Tân thuê thật đúng ý tôi. Đẹp, khoảng khoát, và nhất là trông ra biển. Mỗi ngày tôi dành vài giờ ngắm những con tàu qua lại. Thương thuyền nhiều hơn là chiến hạm…
Trong vài giờ đó, bao giờ cũng có Tân cạnh kề. Có khi anh hỏi tôi nhiều câu vẩn vơ nhưng phần lớn anh tôn trọng sự lặng thinh của tôi. Ba tôi thì thường đi đâu đó suốt ngày. Tôi nghi là ông sắp xếp để Tân có nhiều thì giờ tán tỉnh tôi, để tôi quên Dinh đi…
Tôi không quên Dinh nhưng tôi cũng không ghét Tân. Anh lúc nào cùng lịch sự, tế nhị và kiên trì… Tôi có lúc ước gì tôi không gặp Dinh. Nếu không gặp Dinh, tôi đã không làm khổ Tân và cũng không cho chính tôi!
Buổi sáng ngày thứ năm ở Vũng Tàu, như thường lệ, tôi dậy sớm chạy bộ dọc bờ biển. Trên đường trở về, tôi bất ngờ thấy Tân nằm trên ghế tựa đặt cạnh chiếc ghế vẫn dành cho tôi. Anh đang nhắm mắt như thả hồn đi đâu đâu. Khuôn mặt anh u buồn với hai đuôi mắt hằn nét suy tư. Tôi thả người lên ghế, thở hổn hển cho bớt mệt.
Có đến mười phút Tân mới ngồi bật dậy, cười gượng:
– Anh chiêm bao, thấy mình đổi nghề!
Tôi cười:
– Luật sư là ngon quá rồi! Chiêm bao vớ vẩn!
Tân gượng gạo:
– Anh thấy chiêm bao cũng có lý! Ở thời buổi nhiễu nhương này, cái nghề luật sư xem ra quá lạc hậu. Chắc anh sẽ… nhập ngũ!
Tôi thót người. Tân ám chỉ gì? Ba tôi đã nói gì? Anh đã biết tôi đang yêu Dinh? Tôi còn đang tìm lời dọ hỏi thì anh đã tiếp:
– Vả chăng, thời chiến, các cô đều hướng về… nhà binh!
Tôi không kềm được nụ cười gượng gạo:
– Anh có phải là “các cô” đâu mà đề quyết như thế!
Anh nhỏm người quay nhìn thẳng vào mắt tôi:
– Cho dù là “một cô” thì cô đó lại là… cô Thủy!
Tôi nín thở. Rõ ràng là Tân đã biết chuyện. Vậy thì tại sao không chợp lấy cơ hội này mà dứt khoát một lần cho xong. Tôi nghĩ suy tìm lời lẽ. Thẳng thừng với Tân thì dễ rồi, nhưng còn ba tôi…
Giọng Tân tha thiết:
– Chúng ta đã dự tính năm tới làm đám cưới, Thủy vẫn nhớ chứ?
Tôi ngồi bật dậy, nghẹn lời! Tôi đâu thể nói là tôi không nhớ. Mà nói nhớ thì giải thích sao cho xuôi tai, cho Tân vui vẻ chấm dứt? Tân lại tiếp:
– Anh nghe phong thanh là Thủy đang yêu một ông Hải Quân, có đúng không?
Tôi lặng thinh. Tân trầm ngâm một lúc rồi thở dài:
– Cái vô lý, cái ngu ngốc của anh là tuy biết mà vẫn thiết tha yêu Thủy. Anh xin hỏi Thủy một câu, một câu duy nhất và mong được Thủy trả lời…
Tân không hỏi ngay mà dừng lại, nhìn tôi dò xét. Mặt trời ửng đỏ nằm trên áng mây
ửng vàng vắt ngang chân trời. Một đường sáng lấp lánh lung linh từ đó chạy thẳng đến
tôi như mang theo cả sức nặng. Tân chưa hỏi mà tôi đã thấy nghẹt thở!
– Thủy sẵn sàng trả lời câu hỏi chứ?
Tôi cúi mặt nhìn mảng cát vàng. Giọng Tân trầm buồn:
– Nếu năm tới chúng ta cưới nhau như dự định, Thủy có hứa là sẽ quên… người ta không?
Tôi bật người, đứng lên, bước dần xuống biển và lang thang theo mép nước. Độ mát và từng đợt hoa biển vỗ về giúp tôi thanh thản phần nào. Quên Dinh ư? Chắc là không bao giờ. Tân đến với tôi như một cảm tình. Dinh thì bằng cả trái tim. “Anh Dinh. Chừng nào anh mới về với em. Em đang khổ tâm quá!” Chưa bao giờ tôi mong gặp Dinh như bây giờ. Một lời của anh đủ xóa đi mọi muộn phiền…
***
Bữa ăn trưa tại nhà hàng nổi tiếng nhất ở Vũng Tàu kéo dài buồn chán. Tân và ba tôi ngồi đối diện nhau, đang say sưa trao đổi về đề tài pháp luật. Tháng tới Tân phải bào chữa cho một sinh viên nổi tiếng chống đối chính quyền. Ba tôi cho Tân các gợi ý gì đó…
Tôi lơ đãng nhìn lối trang trí sang trọng của nhà hàng. Ngắm hết phía trong, tôi xoay người nhìn phía ngoài. Thực khách khá đông, chỉ còn vài bàn trống. Tôi chợt thoáng thấy một dáng quen quen ngồi một mình một bàn gần cửa. Đôi mắt tôi dừng lại và tim đập loạn xạ. Dinh. Dinh ngồi đó tự bao giờ, đang mỉm cười chào tôi. Tôi cười đáp và mừng rỡ đứng lên.
– Ngồi xuống!
Tiếng ba tôi nhỏ, sắc lạnh. Tôi đứng chết trân, nhìn ông van xin. Giọng ông êm nhẹ, lạnh lùng:
– Ngồi xuống đi con!
Tôi ngoái lui. Dinh lặng lẽ nhìn tôi, nụ cười đã tắt. Anh đứng lên và tôi lắc đầu. Tôi quay lại ba tôi, mong ông đổi ý. Khuôn mặt bình thản của ông khiến tôi ngại ngùng. Đó là khuôn mặt ông đã dành cho các chị tôi sau khi ông nêu ý kiến sau cùng để giải quyết một vấn đề. Hoặc là nghe theo ông, hoặc là đừng gặp ông nữa. Ông đã bảo tôi ngồi xuống. Nếu tôi vẫn đến với Dinh, coi như tình cha con chấm dứt. Ông là người yêu thương tôi nhất và tôi rất cần tình yêu thương đó. Liệu hạnh phúc Dinh mang đến cho tôi có đủ bù đắp không? Ông đã quyết thì có đến chào ông, anh cũng chỉ nhận lấy sự hắt hủi. Tôi thả người xuống, ôm lấy mặt. Tân nắm cánh tay tôi, hỏi dồn:
– Thủy! Em sao vậy? Có sao không?
Tôi lắc đầu nhưng nước mắt ứa ra. Sẵn khăn ăn, tôi đưa lên vờ lau miệng nhưng thấm thật nhanh. Giọng Tân đầy lo lắng:
– Trông Thủy xanh lắm để anh đưa Thủy đi bác sĩ.
Anh nhìn ba tôi dọ ý và ông nhìn tôi. Tôi phản đối:
– Thủy khỏe, không đi đâu hết!
Nhân lúc ba tôi bận ngó quanh tìm người bồi tính tiền, tôi lại ngoái nhìn. Dinh không còn ở đó nữa. Anh muốn tránh cho tôi hoàn cảnh khó xử hay giận hờn tôi? Tôi tự trách mình quá yếu đuối. Dinh chỉ cách tôi hai dãy bàn, chỉ cần tôi mạnh dạn bước vài bước là tôi sẽ bên anh suốt đời. Ba tôi dù có giận nhưng lẽ nào chẳng có lúc tha thứ cho đứa con gái cưng của ông! Tôi nhủ thầm đau đớn: “Thế là hết!”
Tôi gục mặt ngăn dòng nước mắt. Trên tấm khăn trải bàn trắng tinh bề bộn các đĩa thức ăn, một con kiến đang bò quẩn quanh. Vài mảnh vụn ngon lành rơi vãi nhưng nó chẳng buồn ngó ngàng. Nó cứ lui tới, dọc ngang như tâm hồn tôi đang hoang mang vô định …
Tôi để ngón tay lên bên trên con kiến, lần theo hướng nó bò một lúc rồi ấn tay mạnh xuống. Khi nhấc lên, con kiến còn giãy giụa trước khi co quắp nằm im. Tôi nói thật nhỏ, đủ cho nó nghe: “Ai bảo mày ngu!”
Vũ Thất
(Sài Gòn, Hè 1967)
Nguồn: Thư Quán Bản Thảo số 100, tháng 9/2022

Categories
Chuyện ngắn

TÌNH CUỐI ĐỜI


312578300_10159059515312849_1880022959318685844_n

TÌNH CUỐI ĐỜI

Con dâu xách giỏ bước ra khỏi nhà còn nhắc lại:

– Má kho cá nhớ mang ra sân sau nha. Con cả ngày ở tiệm nail ngửi mùi hóa chất về nhà mùi cá kho nữa chịu sao thấu !

Nó đi khuất tôi lẩm bẩm:

– Con dâu mà bày đặt chỉ huy làm như má tao. Mai mốt tao đi khỏi cho biết mặt.

Con dâu là người cuối cùng ra khỏi nhà, con trai và hai cháu nội đã đi làm đi học từ sáng sớm. Chồng tôi qua đời 3 năm nay, hai vợ chồng ăn tiền già, ở nhà housing mỗi tháng chính phủ phụ trả tiền nhà, nay chỉ còn mình tôi trả chi phí tiền nhà hao tốn quá, thằng con trai duy nhất kêu về ở với vợ chồng nó, mang tiếng ở nhờ nhà con nhưng mỗi tháng tôi tự động đóng góp nửa tiền già, phụ giúp cơm nước và hầu hạ hai đứa cháu vậy mà con dâu có lúc còn làm tôi bực mình khó chịu.

Tôi sắp có một tình cuối đời, chiều nay gặp mặt nhau tôi sẽ làm một quyết định lớn lao nếu đồng ý về chung sống với người ấy, ông có nhà cửa sẵn sàng đợi tôi. Con dâu sẽ trắng mắt ra về cái tội không biết nâng niu tôn trọng mẹ chồng.

Tôi tìm bạn bốn phương trên báo quen ông Sung, hai tâm hồn cô đơn đồng điệu gặp nhau. Ông Sung bất mãn con cái, tôi chẳng ưa gì con dâu, hai chúng tôi trao đổi hình ảnh thấy hạp nhãn, gọi phone chuyện trò qua lại thân tình thắm thiết nên hẹn gặp mặt để tính tới chuyện cùng dìu nhau đi nốt quãng đường đời còn lại như lời ông đã âu yếm rao tìm bạn. Ông Sung sẽ từ tiểu bang Texas bay tới đây gặp tôi .
……
Tôi đến nhà hàng Tri Kỷ gặp ông Sung, ông 75 tuổi không khác trong hình là bao vừa gặp mặt là tôi chấm liền. Sau phút giây hội ngộ bối rối tôi và ông Sung mau chóng thân thiện nhau hơn, vừa ăn vừa nói chuyện. Ông Sung cũng thích tôi, khen tôi trẻ hơn tuổi 70. Tôi mỉm cười nhún nhường:

– Em trẻ là nhờ mái tóc mới nhuộm hôm qua đó.

Nụ cười chưa kịp tắt bỗng chuyển sang nhăn nhó vì cơn đau lưng bỗng ập đến, đau từ lưng trên bên phải xuống đến lưng dưới, bác sĩ bảo tôi bị viêm dây thần kinh gì đó, cơn đau đến rồi đi trong 5-10 phút và tôi phải sống với bệnh suốt đời.

Ông Sung lo lắng hỏi:

– Em sao thế?

– Chứng đau lưng mãn tính, thường thì đi đâu em cũng mang theo thuốc giảm đau mua over counter hôm nay em quên mất. Trời..ơi..đau quá phải chi có một viên thuốc…

Thấy tôi cúi gập người xuống cho bớt đau ông Sung vội đứng dậy đến bên tôi đỡ vai tôi nhưng ông bỗng lạng quạng suýt ngã nếu không nhanh tay vịn vào một cạnh bàn. Đến phiên tôi lo lắng hỏi:

– Anh sao thế?

Ông Sung đành….khai:

– Anh bị đau hai khớp gối đi phải chống gậy, nhưng chẳng lẽ đi gặp em mà anh chống gậy thì quê quá nên anh không mang theo. Trời ơi…ước gì bây giờ có cây gậy thì đỡ khổ biết mấy.

Dù đang đau lưng tôi cũng ráng dìu ông Sung ngồi trở lại ghế cho an toàn. Trong đầu óc tôi làm ngay một bài toán nếu tôi về sống chung với ông sẽ phải thường xuyên hầu hạ như thế này, đường dài chưa biết tính nết ông ra sao, không lẽ tôi lại vác mặt trở về với con cháu? Ngay lúc này tôi biết mình phải quyết định thế nào rồi..

Tuổi già thật vô duyên, hai người đang hẹn hò lãng mạn thì bệnh hoạn lù lù xuất hiện không ai dấu ai được. Ông Sung kể lể:

– Anh đã cẩn thận mang theo đủ thứ thuốc, nào cao mỡ, cao máu, đau bao tử, trào thực quản, tiền tiểu đường nhưng quyết không mang theo cây gậy giờ mới ra nông nỗi.

Tôi cũng trút nỗi niềm:

– Em cũng cao mỡ cao máu này, loãng xương này, rối loạn tiền đình này, ngoài ra còn phải nhỏ mắt cườm ướt Glaucoma nữa cơ. Anh nhớ đi bác sĩ mắt hàng năm xem có bị Glaucoma hay Cataract không nhé..

– Em nhớ theo dõi đo huyết áp hàng ngày nhé.

– Anh cũng nhớ đi bộ mỗi ngày một tiếng cho khỏe nhé.

Tôi và ông Sung bỗng trở thành hai bạn già tâm sự kể lể chuyện thời tiết trở trời, chuyện ốm đau và dặn dò nhau kinh nghiệm thuốc men cho đến khi không còn gì để than thở thêm tôi mới giật mình kêu lên:

– Ôi trời..sắp đến giờ em phải về nấu cơm chiều cho con cháu rồi. Mấy con cá đang chờ em về kho tiêu.

Tôi vẫn nhớ đến bổn phận, nghĩ đến con cháu, vậy mà có lúc sôi máu vì ghét con dâu tôi đã muốn dứt áo ra đi.

– Ủa…mình chưa đi đến quyết định cuối cùng mà.

– Em vội quá quên mất, em đã quyết định rồi…

Ông Sung chặn lời tôi:

– Để anh nói trước. Anh là người định đoạt trước…

– Chưa gì mà anh đã lộ mặt gia trưởng rồi, thêm một lý do để em không tiếc khi quyết định. Chúng ta dừng lại ở đây.

Ông Sung thẳng thừng:

– Anh cũng muốn thế. Vì anh vừa nhận ra em đau lưng kinh niên, nay đau mai đau, rước em về anh lại phải hầu hạ, chưa kể bệnh mắt Glaucoma của em mai mốt lỡ…có bề nào càng khổ thân anh.

Tôi tự ái đùng đùng:

– Anh trù ẻo tôi đấy hả?. Chưa biết ai phải hầu hạ ai, chân anh đi không vững đó. Nãy dìu anh trở về ghế ngồi tôi mệt hụt hơi, chưa kể tiền tiểu đường của anh nay mai thành bệnh tiểu đường mấy hồi, rồi…biến chứng lọc thận ai mà hầu nổi.

Ông Sung cười nhạt:

– Anh chỉ lỡ lời lo xa thế thôi, em đanh đá ghê gớm nhỉ, hèn gì tối ngày chê trách con dâu.

Thấy tình hình căng thẳng tôi vội hạ giọng cho xong để còn kịp về nhà nấu cơm:

– Thật may cơn đau lưng của em xuất hiện và chân anh đau đúng lúc, là tín hiệu nhắc nhở chúng ta đừng vội vàng quyết định, chúng ta đang mỗi ngày mỗi già đi, sức khỏe mỗi ngày mỗi kém đi nếu lấy nhau biết vui hưởng hạnh phúc được bao lâu hay chỉ là gánh nặng cho nhau. Anh có căn nhà riêng thì cứ ở tới khi nào không tự chăm sóc bản thân mình được nữa thì sang tên nhà cho con cái, chúng sẽ lo cho anh, còn em tiếp tục về hầu hạ con cháu mai sau có ốm đau nằm một chỗ ít nhiều gì chúng cũng phải hầu hạ lo cho em. Em đã tìm ra tình cuối đời rồi, là tình với con với cháu chứ tìm đâu xa.

Ông Sung cũng “hạ nhiệt”:

– Ừ, em nói vậy còn nghe được.

Lát nữa về nhà tôi sẽ nghe lời con dâu mang nồi cá ra sân sau kho thật ngon lành. Hơn lúc nào hết tôi thấy mái nhà của con cháu vẫn đẹp vẫn ấm cúng hơn bất cứ nhà ai, dù con dâu có những lúc cãi mẹ chồng, dù con trai có lúc gắt gỏng mẹ ruột, dù hai cháu nội có những lúc làm tôi bận rộn.

Khi chia tay ông Sung ở cửa nhà hàng tôi dặn dò có chút mỉa mai:

– Anh nhớ ra tiệm Family Dollar ở góc đường kia mua cây gậy để chống chân đi cho vững vàng khỏi té và bay về Texas an toàn nha.

Ông Sung cũng chẳng vừa:

– Từ giờ trở đi em đừng nhí nhảnh lên báo lên mạng tìm tình yêu, tìm chồng bốn phương nữa nhé. Lo mà hầu con cháu đi.

Nguyễn Thị Thanh Dương
( August, 16, 2022)

Trở về =>  HOME

Categories
Chuyện ngắn

Góp Nước Miếng Húp Chung.


306078174_417588177083345_2963705739878291131_n

Góp Nước Miếng Húp Chung.

-Tràm Cà Mau

Nhà có đám giỗ, chị Hương hớn hở nói với đứa con trai: “Sao không mời con Da-Ni-Phờ đến ăn cho vui? Con bé nầy dễ thương, vui vẻ, và ưa lăn vô bếp lăng xăng làm việc nầy việc nọ. Có khi giành rửa cả núi chén bát, mà mặt vẫn tươi như hoa nở.”
Trân thẳng thắn trả lới mẹ: “Nó ớn thấu óc lối ăn uống nhà mình rồi mẹ à. Nó nói thiếu vệ sinh, dễ lây lan truyền nhiễm bệnh từ người nầy qua người khác.”
“Sao vậy?” Chị Hương tròn mắt ngạc nhiên hỏi.
Trân rùn vai: “Nó nói nhà mình ăn đũa, ngậm vào miệng, rồi gắp thức ăn trong dĩa chung. Dính cả nước miếng, đờm dãi của người khác. Có người mang bệnh truyền nhiễm, không ai biết, rồi lây lan cho mọi người. Dơ dáy.”
Chị Hương gằn giọng: “Dơ dáy? Tụi bây hôn môi, ngoạm mồm, trún nước bọt cho nhau, dễ thường vệ sinh sạch sẽ hơn ăn đũa sao?”
Trân không dám cãi lại mẹ, lảng đi nơi khác. Bố của Trân hạ cuốn sách xuống nhìn bà vợ, rồi cười:
“Tôi đã nói với bà nhiều rồi, đừng dùng đũa gắp thức ăn cho ai cả. Mấy lần bà mút đũa cho sạch, rồi gắp thức ăn bỏ vào dĩa cho con Da-Ni-Phờ, tôi thấy cái mặt nó cứng sượng lại, dáng điệu sợ hãi lắm, cứ nhìn chăm chăm vào miếng ăn bà vừa gắp cho nó, mà không dám đụng đến. Bà gắp cho tôi thì được, chứ đừng nên gắp cho ai cả. Ngay cả bạn bè thân thiết hay con cái trong nhà cũng đừng. Riêng tôi với bà, thì xem như một, tôi không sợ cái dơ của bà, bà không sợ tôi lây bệnh. Đó là chuyện riêng của vợ chồng. Nhưng có lẽ, ngay cả vợ chồng, cũng không nên dùng đũa gắp bỏ cho nhau.”
Chị Hương hừ một tiếng, giọng giận hờn: “Người ta có thương, có quan tâm, mới gắp miếng ngon mời ăn. Nếu không thì mặc kệ. Hơi đâu mà tốn sức!”
Ông chồng chị tiếp lời: “Bà có cái thói dùng đũa sục sạo, moi móc, đão lộn thức ăn trong dĩa, tìm miếng ngon bỏ cho người khác. Cái tâm của bà tốt thật, nhưng hành động đó không hợp với văn minh chút nào.”
“Ưà, tui dã man mọi rợ như vậy đó. Ai chịu thì chịu, không chịu thì thôi!”
“Ai mà dám không chịu bà? Bà bỏ đói cho vêu mỏ ra thì khốn. Nhưng tôi có nhận xét sau đây, nói ra bà đừng buồn giận nghe! Bà học được cái thói đão thức ăn trong diã của mẹ bà. Mỗi lần về thăm ông bà cụ, trong bữa ăn tôi ớn lắm. Có lần ăn thịt gà bóp rau răm, mẹ dùng tay bốc và xé thịt bỏ vào chén tôi. Nhìn mười ngón tay của mẹ, móng dài, đóng khớm đất đen ngòm. Tôi cũng ớn lạnh. Mắt tôi muốn nổ đôm đốm. Tôi cứ hốt hoảng bảo xin mẹ để cho con tự nhiên, trong nhà cả mà, con đâu dám khách sáo. Nhưng mẹ cứ bốc bỏ thêm vào chén tôi. Tôi biết đó là tình thương, là lòng tốt của mẹ dành cho con rể, không thể phụ lòng mà từ chối, không đổ đi được, sợ mẹ buồn. Tôi nín thở nhắm mắt mà nuốt trỏng, không dám nhai, nó cứ nhờn nhợn trong cổ, nuốt hoài không xuống. Cứ nghĩ phải ăn các thứ vi khuẩn, vi trùng, sán lãi, chất dơ bẩn dính trong mười cái móng tay đen điu đó, không nổi gai ốc sao được. Chúng ta phải can đảm mà công nhận cái chưa đúng, lối sống thiếu vệ sinh của mình. Tìm cách cải tiến sửa đổi cho hợp với thời đại văn minh hơn. Nhiều lần tôi đề nghị ăn đũa hai đầu như thời xưa mấy người đi kháng chiến chống Pháp trong bưng biền, mà không ai chịu.”
Bà Hương cười chế diễu: “Ăn đũa hai đầu văn minh lắm hay sao! Mấy người đó, ở trong rừng đặt bày chuyện vệ sinh, khi về thành, có còn ai dùng đũa hai đầu nữa đâu. Hai đầu đũa đều dính dơ, dễ quệt vào áo quần. Khi muốn tạm gác đũa cũng không được, không biết gác vào đâu. Thêm lúng túng vụng về. Tôi nhớ nhiều lần ông đề nghị để thêm vài ba đôi đũa chung trên mâm cơm, để cả muỗng chung vào các dĩa thức ăn, khi gắp, thì dùng các thứ đũa muỗng chung đó. Thế mà ngay chính ông, cứ lẫn lộn, cầm đũa chung mà ăn, dùng đũa riêng mà gắp, lẫn lộn nhau, được năm ba hôm, phiền phức quá, rồi cũng dẹp. Chính ông phá chứ không ai cả.”
Ông chống bà rùn vai cười gượng: “Đúng. Tôi cứ lẫn lộn mãi vì quen thói cũ. Nếu chúng ta cứ tập lần lần, kiên nhẫn theo, rồi thành quen và sẽ không lẫn lộn nữa. Cái gì cũng phải tập, thói quen mấy chục năm từ ngày còn thơ ấu, đâu thể bỏ ngay được?”
Ông chồng bà Hương thở một tiếng rất dài, tằng hắng rồi nói:
“Cách ăn uống ở quê tôi còn thiếu vệ sinh hơn nhiều. Một lần tôi về thăm, được mời cơm chiều. Chiếu trải trên giường, mâm cơm có hai tô canh, một dĩa rau luộc lớn, một tô nước chấm bằng mắm nêm pha loảng với ớt cay, tỏi bằm, thêm một dĩa mắm cà vun. Quanh mâm cơm có tám người, hai ông bà nội, hai vợ chồng, ba đứa con, và tôi. Đường xa, đói bụng, nhìn mâm cơm tuy thanh đạm, nhưng tôi đã cảm được cái ngon trong tô canh, trong diã rau luộc và tô nước chấm cay xè. Cả nhà, ai cũng đua nhau ăn mau như vũ bảo. Mọi người dùng đũa gắp rau, rồi nhúng vào chén nước chấm chung, quậy quậy đũa, rồi đưa thẳng vào mồm. Thỉnh thoảng có người đang nhai nhồm nhoàm cơm đầy trong miệng, cầm tô canh lên húp một tiếng ‘rột’, rồi bỏ xuống, người khác bắt chước, cầm tô húp theo. Tô nước chấm hòa đủ nước miếng của mọi người trong nhà qua đôi đũa, càng ngày càng loảng và nhạt ra. Tôi đi đường xa, tuy bụng đói, nhưng cũng ngại ngần, không dám ăn rau luộc, không dám chan canh, chỉ khười khười mấy trái mắm cà, vì món nầy ít bị những đôi đũa xáo trộn.”
Ngưng một lát, ông chồng nói tiếp: “Đừng hỏi tại sao không chia cho mỗi người một chén nước chấm riêng. Nhà nghèo, chén đâu có nhiều mà bày ra. Dù nếu có được chén, cũng không thể đủ nhiều nước chấm để chia riêng cho từng người vài muỗng. Bởi thế, khi trong nhà có người bị bệnh truyền nhiễm thì nó lây lan vô tội vạ. Rán mà chịu. Nhưng thật ra, thì không biết làm sao hơn. Biết đâu đó cũng là một cách chủng ngừa lạc hậu nhưng lại hiệu nghiệm.”
Anh con trai tán thêm: “Khi nào đi ăn tiệc, con tránh ngồi chung bàn với ông Tư, dì Sáu, chú Tám. Mấy người nầy ăn uống tự nhiên, dễ dàng. Cứ dùng đũa đào bới lật qua lật lại thức ăn trong dĩa, gắp miếng nầy lên, bỏ miếng kia xuống, cho đũa chạy rong từ dĩa nầy qua dĩa khác để tìm gắp những miếng ăn mà họ vừa ý. Có mấy người khách chung bàn cứ nhíu mày, mắt theo dõi chăm chăm các đôi đũa đang sục sạo, có lẽ để tránh các nơi thức ăn đã bị đũa người khác nhúng vào rồi. Con thì cứ cười cười, quan sát nét mặt bất bình, không vui của những người sợ, và cái hớn hở thản nhiên của người đang dùng đũa bới đào chọn lựa, tìm được miếng ngon, thấy mà thương. Bác Ngô nói với con rằng, thường chỉ ăn được mấy miếng đầu tiên, khi những đôi đũa dơ dáy chưa đào xới diã thức ăn. Sau đó, bác gác đũa, ngồi nói chuyện vui. Bởi thế, mỗi lần phải đi dự tiệc tùng, bác bèn ăn cơm nguội trước ở nhà cho lưng lửng bụng mới ra đi. Bác nói tiếp, có thể người ta sạch sẽ vệ sinh hơn bác, nhưng bác không muốn ăn nước bọt, uống đờm dãi của người khác.”
Bà Hương trừng mắt gắt: “Thôi, thôi, mẹ không muốn nghe cái lối nói thiếu tử tế đó. Việc chi mà kêu là uống đờm dãi của người khác, nghe không lọt tai. Nên ăn nói cho thanh lịch, tử tế hơn. Ông ấy đâu có vệ sinh văn minh chi hơn ai mà bày đặt chê bai.”
Ông chồng bà Hương thấy vợ nỗi cáu, quay qua nháy mắt với anh con trai, và hạ giọng nói riêng với nó:
“Lần nọ ăn tiệc, ba ngồi gần bà chị hàng xóm cũ. Bà nầy quen thân từ nhỏ. Ngồi gần nhau, bà vui mừng nói chuyện tíu tít. Bà cho biết mới bị bệnh cúm xong, chưa lành hẳn, lâu lâu bà hắt xì nhảy mũi, lấy khăn xịt mũi xì xì, và ho sù sụ. Ba cũng sợ lây bệnh lắm, nhưng đành phó mặc cho Trời, và cầu sao đừng bị lây. Chị em lâu ngày gặp lại nhau, dù về nhà có bị bệnh, cũng đành chấp nhận. Nhưng chị cứ dùng đũa của chị, gắp thức ăn bỏ vào chén của ba mãi. Ba cứ van lơn cầu khẩn chị để cho ba tự nhiên, ưa ăn món nào thì sẽ tự gắp. Nhưng chị không chịu, cứ gắp bỏ cho ba hoài. Ba buồn lắm, nhưng không biết làm sao. Thấy dĩa thức ăn của ba cứ đầy vun, chị hỏi sao không ăn, ba ngại ngần giả vờ nhăn mặt, nói rằng bỗng nhiên nghe đau quặn trong bụng. Rồi ba chỉ uống nước cho đến khi tiệc tàn.”
Anh con trai cười thích thú kể cho hai ông bà nghe: “Ba mẹ có biết không, thằng James nó nói ăn lẩu là “góp nước miếng húp chung”. Mọi người đều gắp tôm cá thịt, rau, nhúng vào nồi, nhận chìm rau, quậy vục, chờ sôi, thọc đũa riêng vào mà vớt, mò, đôi khi lại dùng cả muỗng riêng mà múc nước húp, rồi cho vào chén. Mọi người đều cùng làm một động tác như nhau, không ai ngán ai lây truyền bệnh hoạn. Không biết nồi lẫu sôi có giết hết được các loài vi khuẩn, vi trùng hay không. Bởi thế, khi có ai mời di ăn món lẫu, nó thẳng thừng từ chối ngay, con cũng thế. Con ngán nhất những bữa cơm chung, khi có người kêu canh chua cá bông lau, nghe đề nghị là con can ngay. Vì cũng như ăn lẩu, mọi người vui vẻ thọc đũa vào tô canh mò, vớt cá ra dĩa, rồi thọc đũa riêng vào mà dày xéo xâu xé con cá. Có lẽ họ nghĩ nước mắm mặn cũng đủ giết chết vi trùng, vi khuần rồi chăng? Bởi vậy, khi nào ăn lẩu, ăn canh chua là không có con.”
Chị Hương tiếp lời anh con trai: “Người mình ăn đũa, dù cho là thiếu vệ sinh, nhưng đã chết ai đâu mà ầm ĩ?”
Ông chồng chị đưa tay ngắt râu ngứa, rồi từ tốn nói: “Có chắc chưa chết ai không? Thế mà thống kê cho biết, chỉ tại Hoa Kỳ thôi, số người bị lây nhiễm qua đường miệng do ăn uống hàng năm có đến gần 50 triệu người, mà 130 ngàn người phải đưa vào bệnh viện, và chết hơn ba ngàn người. Còn Việt Nam mình không có thống kê, cứ lặng lẽ truyền bệnh, âm thầm mà chết. Tôi nghĩ rằng, sở dĩ người Việt Nam mình đông đảo người bị bệnh gan, là hậu quả của ăn đũa. Đôi đũa, gây đại họa, đôi đũa bí mật giết người.”
Chị Hương đã yếu giọng: “Chi đến nỗi bi thảm đến thế? Dễ chừng những xứ không ăn đũa ít bị bệnh gan hơn chăng?”
Anh con trai xen vào: “Ba nói đúng đó mẹ à. Bố mẹ của bạn con, mười người chết, thì có đến năm sáu người chết vì bệnh gan, chai gan, ung thư gan, bệnh gan B, bệnh gan C. Rồi mới đến bệnh tim,ung thư phổi, tử cung, ruột. Bác Sáu nói rằng, không hiểu sao những người hay về Việt Nam chơi, khi trở lại Mỹ, thường bị bệnh gan mà chết. Nói thế thì có lẽ cũng không đúng hẳn, không lẽ chỉ họ chết mà người bên Việt Nam mình không sao?”
Chị Hương lên giọng: “Đôi đũa cũng được xem như là một phát minh quan trọng của loài người. Là một bước tiến của nền văn minh cổ đại. Dùng đũa, có nhiều điều kỳ diệu. Còn bao hàm một cả triết lý của đông phương. Đó là nguyên lý âm dương, ngũ hành, kết hợp giữa thế động và thế tĩnh, động là chiểc đũa trên di động, tĩnh là chiếc dưới nằm yên. Đũa tiện dụng, có thể đào, bới, kẹp, lùa, xắn, cắt, xé, phân nhỏ, xiên, đè, quẹt, hất, giữ. Chỉ đôi đũa thôi, nó còn đa năng hơn hai ngón tay, hơn con dao, hơn cả muỗng nĩa. Đũa chỉ không gắp được chất lỏng mà thôi. Có lẽ vào thời xa xưa nào đó, khi còn ăn lông ở lỗ, tổ tiên chúng ta đã dùng que, nhánh mà khều thức ăn nướng trong lửa nóng. Ban đầu dùng một thanh, sau đó dùng hai thanh mà gắp, thấy thuận tiện, nên đôi đũa được phát sinh. Cũng có học giả cho rằng, loài người bắt chước những con chim mỏ dài gắp cá mà làm nên đôi đũa. Khi tay dơ dáy, dính đầy bùn đất, không muốn bốc thức ăn đưa lên miệng, dùng đũa là giải pháp tốt nhất.” – Ngưng một lúc, chị nói tiếp – “Dùng đũa, còn vệ sinh hơn dùng tay mà bốc như cách ăn của người Ấn Độ, Trung Đông. Đang ăn, ngứa đầu đưa tay lên gãi tóc, ngứa mông thọc tay vào quần gãi, rồi cũng bàn tay đó, bốc thức ăn cho vào miệng. Ăn đũa không rườm rà như ăn bằng dao, nĩa, muỗng của người Âu Châu. Người Nhật, người Hàn cũng dùng đũa, họ bày đặt ra những quy định riêng khá nghiêm ngặt khi sử dụng đũa, cũng bảo đảm được phần nào vệ sinh trong khi ăn chung.”
Anh con trai góp chuyện: “Con nghe chú Tú kể rằng, thời mới được tàu Nhật vớt trong khi vượt biển. Đến Nhật tình cờ gặp được người bạn cũ vào thời du học tại Mỹ trước đây. Được bạn mời cơm nhiều lần, và chú đã phạm phải nhiều sai sót khi dùng đũa. Vì người Nhật đã đưa nghệ thuật ăn đũa thành một thứ văn hoá, với nhiều quy định chặt chẽ. Chú cứ gắp thức ăn từ dĩa, lia lịa đưa thẳng vào miệng. Chủ nhà vì lịch sự không nói, nhưng có vẻ không bằng lòng. Trong khi đang ăn, nhiều lúc chú tạm gác đũa qua chén. Làm chủ nhà tròn mắt ngơ ngác. Với người Nhật, đây là một hành động cực kỳ vô phép, xúc phạm đến người nấu ăn, ý muốn nhắn rằng, đồ ăn dở như hạch, hay là tôi cóc cần các thức ăn nầy. Có khi chú đã dùng đũa đâm xiên vào cục thịt, cũng là một hành động vô lễ, giống như thử xem thức ăn đã nấu chín hay chưa. Sau nầy, chú đọc sách, học được nhiều quy tắc trong khi dùng đũa của người Nhật. Ví như không được ngậm đũa trên miệng, không được dùng đũa đề chuyền thức ăn cho nhau, giống hành động gắp tro xương người chết. Không cắm đôi đũa vào tô cơm, đũa chỉ được cắm vào tô cơm cúng người chết mà thôi. Cũng không được dùng đũa để chuyển dịch tô chén trên bàn ăn. Không được nhảy đũa từ món nầy qua món kia. Không mút đũa. Không dùng đũa khoắng trong tô canh. Khi gắp món ăn, gắp từ miếng nằm trên dần xuống miếng dưới, chứ không đào bới tìm miếng ngon vừa ý. Kể ra những quy tắc đó, có nhiều phần đúng với phép vệ sinh, nhưng cũng có nhiều cái mang nặng tính cách quy định không cần thiết. Nếu ăn đũa theo người Nhật, cũng bớt được phần nào truyền nhiễm bệnh từ nước miếng khi ăn chung.”
Sau khi pha cho chồng và con hai ly nước trái cây, chị Hương lục lọi trong tủ đựng các dĩa phim, rồi bảo sẽ cho chồng xem nghệ thuật cao siêu của người sử dụng đũa thuần thục. Trên màn ảnh truyền hình hiện lên một kiếm khách xứ Phù Tang, đầu đội nón rê xùm xụp, mang áo tơi lá, trông tơi tả nhếch nhác như một kẻ ăn mày, khệnh khạng bước vô quán, xem như chung quanh không còn ai. Lặng lẽ nâng cốc cạn rượu. Bỗng từ phía bàn kia, có người ném một ‘ám khí’ bay vụt thẳng vào mặt kiếm khách. Không né tránh, không vội vàng, kiếm khách cầm đôi đũa lên, gắp được miếng ám khí đang bay, vụt hất ngược lại, địch thủ thét lên một tiếng đau đớn mà ngã lăn quay ra chết. Rồi cũng đôi đũa đó, gắp lia lịa giết bọn ruồi nhặng đang bay vo ve trên dĩa thức ăn.
Anh chồng chị Hương vỗ đùi cười vang mà nói: “Xạo gần bằng chuyện đội phụ nữ anh hùng Thanh Hóa dùng cù ngéo tre móc rớt máy bay ‘Con Ma’ bắt giặc lái Mỹ.”
Chị Hương hỏi chồng: “Ngày nay văn minh, cả thế giới như đã thu hẹp lại. Hiểu biết và văn hóa phổ biến khắp nơi, thì tại sao các dân tộc ăn bốc không biết cải thiện, mà dùng dao nĩa, dùng đũa? Không biết dân Ấn Độ ăn bốc có vục tay vào tô cà ri mà thay muỗng, đưa lên miệng húp sồn sột, rồi mút và liếm bàn tay hay không? Có lẽ là không. Có thể họ đổ ra tô, diã của họ, rồi chấm mút chăng?”
Chồng chị Hương thong thả: “Nghe đâu ăn bốc, theo quy định, chỉ được bốc bằng các ngón của tay mặt mà thôi, tay trái được nghỉ ngơi, có lẽ vì tay trái chỉ xử dụng để làm những việc dơ dáy. Món ăn nào bị bàn tay trái của người khác đụng vào, thì xem như đã bị ô nhiễm, không ai dám đụng đến nữa, phải bỏ đi. Người ta khinh bỉ người ăn bằng tay trái, bị xem là hạ tiện, bất lịch sự. Trong truyện ‘Ngàn Lẻ Một Đêm’ của dân Ả Rập có kể chuyện một thương gia giàu có, vì ăn tỏi hôi tay, nên bị người tình là bà hoàng, chặt mất bàn tay mặt, phải dùng tay trái trong lúc ăn, ông ta bị khinh bỉ, hất hủi, miệt thị.
Khi bốc những thức ăn rời rạc như cơm, đậu, thì chúm các ngón tay mà vít lên, rồi lật ngữa bàn tay, để thức ăn vào giữa bốn ngón, sau đó dùng ngón tay cái mà lùa vô miệng. Không để thức ăn trong lòng bàn tay. Không bốc thức ăn từ dĩa đưa thẳng vào miệng. Ăn quen thì cũng gọn gàng, không bôi tèm lem vào râu ria, môi miệng.”
“Ăn bốc có gì hay mà không thay đổi nhĩ?” Chị Hương hỏi vẩn vơ.
Trân, con trai bà Hương trước đây có cô bạn gái người Ấn Độ, hay lui tới và định ‘kết’ với cô nầy, nên đã tìm hiểu, bèn giải thích cho mẹ:
“Ăn bốc cũng có cái triết lý cao siêu riêng của nó, chứ không phải là dã man, chưa văn minh, chưa biết dùng đến đũa hay dao nĩa. Họ quan niệm rằng, ăn bốc là một phối hợp kỳ diệu của ngũ hành với hệ thống thần kinh não bộ, nối liền với hệ thống bộ tiêu hoá, có nhiều ích lợi dinh dưỡng cho đời sống. Họ quan niệm năm ngón tay hàm chứa năng lực ‘ngũ hành’. Ngón cái là tiêu biểu cho lửa, ngón trỏ là khí, ngón giữa là trời, ngón đeo nhẫn là đất, ngón út là nước. Nếu mất thăng bằng của ‘ngũ hành’ nầy, thì dễ sinh bệnh hoạn. Khi ăn bằng tay, bốc bằng năm ngón, thì năm thứ năng lượng tiềm tàng nầy đi theo thức ăn mà vào cơ thể, làm cho thức ăn thành một món thuốc, chữa lành các bệnh hoạn, tăng sinh lực cho các vùng yếu đuối của cơ thể. Khi bốc bằng tay, thì cái xúc giác đưa tín hiệu lên não bộ, vào hệ thống kinh mạch, nên bao tử biết để đón nhận, và chấp nhận, tiết ra những dịch vị thích ứng, cho nên thực phẩm dễ tiêu hoá hơn. Mấy ngón tay cũng là cái nhiệt kế đo lường độ nóng lạnh của thực phẩm, để khỏi phỏng miệng la làng.”
Chị Hương cười: “Bày đặt! Tưởng tượng! Có chi chắc là nước, lửa, trời, đất, khí nằm trên năm ngón tay? Người ta tưởng rằng, ăn dao nĩa là văn minh và thuận tiện nhất. Không hẵn. Trước tiên, phải cho mỗi người một bộ. Dao nĩa cũng không thuận lợi bằng đôi đũa. Phở mà ăn bằng nĩa thì bất tiện lắm. Không thể nào câu sợi phở lên, cũng không thể quấn vòng vòng như ăn mì sợi, nó tuột mất. Thử xem, khi muốn gắp cục xương, dùng đũa vẫn dễ dàng hơn dùng nĩa, cục xương nằm chênh vênh trên cái nĩa, rất dễ rơi rớt ra bàn, văng vào áo quần người khác. Ăn bằng dao nĩa, phải phối hợp với ăn bốc. Như ăn bánh mì, họ phài dùng tay mà xé, ăn gà nướng, cũng bốc bằng tay. Nếu dùng đũa, thì không cần phải bốc bao giờ.”
Trân kể cho bố mẹ nghe rằng, sở dĩ con Da-Ni-Phờ không dám đến nhà ăn nữa, vì năm ngoái, nó đi du lịch bên Việt Nam với bạn. Chúng nó nghe nói thức ăn của các bà bán hàng rong rất ngon. Chúng ăn bún ốc. Ăn mỗi đứa ba tô ngon lành. Khi ăn thì chúng không để ý. Khi thấy chị hàng rong rửa tô trong một cái chậu nước nhỏ, và lau bằng cái khăn ướt ngã màu đen điu, mà trước đó nó thấy đàn ruồi bu đen, chạy nhảy trên khăn. Nó chợt nhận ra chậu nước đó đã rửa cả hàng chục cái tô của hàng trăm thực khách, bao nhiêu dơ dáy đều gom lại trong đó hết. Nó nghe dờn dợn trong cổ họng, rồi quay ra, kê đầu vào gốc cây mà nôn thốc nôn tháo ra hết. Nó tởn, không dám đụng đến các gánh hàng rong nữa. Sau đó, con Da-Ni-Phờ còn thấy tận mắt các bà bán hàng móc túi thối tiền, những tờ đen điu bèo nhèo dơ dáy, rồi cũng dùng bàn tay trần đó, bốc thịt, bốc rau, nhón tiêu hành, thả vào các tô chén cho thực khách ăn. Nó khiếp vía từ đó.
Chị Hương nói với Trân: “Con cứ kêu con Da-Ni-Phờ đến ăn đám giỗ cho vui. Nói cho nó biết, sẽ cho nó một dĩa riêng thức ăn, không chung đụng với ai cả. Con bé nầy dễ thương vui vẻ. Mỗi xứ có cái văn hoá riêng. Ai cũng tự hào về văn minh của mình. Đừng ai chê ai. Ăn bốc cũng tốt, ăn bằng dao nĩa cũng hay, nhưng tốt và tiện nhất là ăn đũa như chúng ta.”
Trân tiếp ý mẹ: “Thế sao chúng ta không phối hợp giữa dao nĩa, và đôi đũa mà ăn uống cho vệ sinh? Có đũa muỗng riêng, đũa muỗng chung, không ai ngại ai. Như thế thì có vệ sinh hơn không. Ngày nay, đũa muỗng cũng rẻ rề, mua bao nhiêu cũng có. Cứ tập dần, cái gì hay thì theo, cái gì không tốt thì bỏ đi.”
Chị Hương nghĩ ngợi một lúc, vui vẻ nói: “Mẹ tán thành ý kiến của con. Kể từ ngày mai, sẽ thi hành. Trong bữa ăn ai vi phạm sẽ xử phạt bằng tiền. Mẹ chắc Ba con sẽ bị phạt dài dài đó. Phạt mãi, sợ tốn tiền, thì sẽ tuân thủ mau.”
Ông chồng chị quay lại nói lớn: “Ừ, ừ, để xem ai bị phạt nhiều hơn ai cho biết. Bà cứ chê tôi hoài!”.

Tràm Cà Mau