Chương 37-38-39

Chương 37

Làm Thợ Vẽ.

Những tấm hình mà tôi vẽ vợ con tôi đã đưa tôi đến với công việc vẽ vời ở trại cải tạo Tân Lập. Khi khám đồ đạc tôi, các thường trực thi đua và cán bộ đã trông thấy chúng và sau đó không lâu tôi được gọi lên để làm điều mà họ gọi là làm “văn hóa” -vẽ và kẻ chữ.

Lần đầu tiên thì Long, người đã tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn cùng với tôi phải vẽ hai tấm tranh cổ động cho phong trào thi đua cải tạo của trại viên. Một tấm lấy đề tài là “lao động” và một có đề tài “học tập”. Long đã chọn đề tài “lao động” và tự vẽ phát lấy tấm tranh theo ý anh ta; riêng tôi thì hỏi Bích, trưởng ban thường trực thi đua đưa tôi hình trong một tờ báo và vẽ theo đó. Tôi cảm thấy không an tâm khi vẽ tranh cổ động tự ý mình vì “họ” thường có ý nghĩ về tấm tranh ấy theo cái nhìn của họ, nhất là đối với loại tranh có tính cách tuyên truyền.

Tấm tranh cổ động đầu tiên của tôi rất là đơn giản: một cây bút cắm vào một bình mực và một quyển sách mở rộng nằm trên một cái bàn với một người ngồi phía sau như hậu cảnh. Tấm hình ở trong tờ báo vẽ theo kiểu đường nét rõ ràng, do đó tôi chỉ có việc phóng đại nó ra cho vừa với khổ của khung vải.

Với một khả năng về nghệ thuật, Long phát tấm tranh của anh ta rất cẩn thận. Long đã chọn một đề tài khá phức tạp vì việc “lao động” trong trại có nhiều ngành nghề khác nhau. Anh ta đã tập trung vào đề tài chăn nuôi: Hai trại viên trong bộ đồng phục tù đang cho heo và gà vịt ăn. Long lại không vẽ bằng đường nét mà vẽ theo hình khối với những màu sắc tương phản để biểu diễn cấu hình của tấm tranh. Đó rõ ràng là một tấm tranh rất xuất sắc, nhưng tôi lại nghĩ chưa chắc gì nó thích hợp với những người không hề biết và cũng không cần biết gì về nghệ thuật!

Tôi cũng muốn kể lại rằng việc vẽ vời ở trong trại, nhất là trại Tân Lập không đơn giản như ta nghĩ. Để có được tấm khung vải, chúng tôi đã phải tự làm khung lấy, và lại phải nối những cái mền của những trại viên được thả ra để căng khung vải. Sau đó, chúng tôi phải cà củ khoai mì ra để nấu hồ trộn với phèn chua để tránh bị lên men rồi phết lên khung vải trước khi bắt đầu vẽ. Việc này dù sao cũng là một công việc vui vì chúng tôi có thể có thêm khoai mì để ăn. Màu vẽ lại cũng là một vấn đề. Chúng tôi không có gì cả ngoài những gì mà chúng tôi có thể thu lượm được trong trại: lọ chảo trộn với dầu hôi để làm màu đen, mực xanh và tím, thuốc đỏ làm màu đỏ, vôi bột làm màu trắng, thuốc ki-nin làm màu vàng, vân vân. Ngoài ra phải lấy đuôi heo hay thanh tre để làm cọ vẽ. Mọi cái đều phải “khắc phục khó khăn” như họ thường nói!

Hai tấm tranh cổ động khổ hai thước rưỡi, ba thước được hoàn tất sau một tháng trường. Rồi lại đến lúc để duyệt trước khi cho treo lên! Ban Giám Thị trại, Hội Đồng Cán Bộ, và Ban Thi Đua đã họp trong phòng mà chúng tôi để hai bức tranh để phê bình. Đối bức tranh của Long, họ nói rằng nó rất đẹp, nhưng hình ảnh của hai trại viên trông rất buồn, điều này có nghĩa là Long vẫn chưa an tâm cải tạo và không tin tưởng tuyệt đối vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước! Đối với tấm tranh của tôi thì họ bảo rằng cái bút cắm thẳng vào bình mực trông giống như con dao đâm vào tim! Bích, trưởng ban thi đua nói rằng tấm tranh của tôi được vẽ từ một tấm tranh cổ động trong tờ nhật báo “Nhân Dân”, do đó họ không có thêm phê bình nào khác.

Sau đó Long bị đưa sang K1 để nhốt biệt giam và tấm tranh của anh ta thì được Phong, một phạm nhân hình sự làm trong bộ phận văn hóa sửa lại. Tôi không biết rõ tại sao họ lại nhốt kỷ luật Long, vì bức tranh hay vì những hành động trước đó của anh ta. Long là người đã góp phần trong việc đánh ăn ten trên chiếc tàu “Sông Hương” khi chúng tôi được đưa từ Nam ra Bắc. Đó là một bài học cho tôi ở trong trại. Kể từ đó trở đi, tôi không bao giờ tự sáng tạo bất cứ tấm tranh nào. Khi nào làm công việc “văn hóa”, tôi luôn luôn đòi hỏi những hình mẫu và giử những bản mẫu ấy để tự đề phòng.

Một lần khác, họ bảo tôi vẽ chân dung Hồ Chí Minh, tôi cố tránh bằng cách bảo rằng tôi không quen vẽ chân dung mà chỉ mới học vẽ hình vợ con tôi mà thôi. Họ bảo Long vẽ chân dung Hồ Chí Minh còn tôi thì vẽ chân dung của Các Mác và Lê Nin. Tôi chỉ vẽ đen trắng bằng than mà thôi và bảo với họ rằng tôi không biết vẽ chân dung bằng màu. Long đã vẽ hình của Hồ Chí Minh rất đẹp, nhưng anh ta vẫn bị phê bình là màu da của Hồ trong tranh giống như một xác chết! Màu sắc tự chế lấy không thể tạo được tấm tranh như ý họ muốn là “sống động”. May mắn là lần ấy Long chỉ sửa lại thôi chứ không bị kiên giam.

Làm công việc “văn hóa” trong trại đôi khi cũng nguy hiểm, nhưng lại là một việc nhẹ nhàng và có lúc cũng có những “bồi dưỡng”. Trong những ngày lễ của VC như ngày Độc Lập, ngày Công An Nhân Dân, hay ngày Quân Đội Nhân Dân, công việc của tôi là cắt chữ dán vào vải để làm khẩu hiệu, và rồi chúng tôi đem treo chúng trong hội trường cùng với vài thứ trang hoàng khác. Sau khi hoàn tất công việc, chúng tôi thường được một bữa ăn đặc biệt, điều này rất có ích cho chúng tôi trong tình trạng thiếu ăn trong trại.

Tôi luôn nhớ ngày Giáng Sinh năm 1977, ngày lễ Giáng Sinh đầu tiên ở trại Tân Lập. Sáng sớm ngày 24 tháng chạp năm 1977, thường trực thi đua bảo tôi đi trang trí cho khu cơ quan. Tôi rất ngạc nhiên vì VC không bao giờ cho phép chúng tôi có bất kỳ một thứ lễ nghi tôn giáo nào trong trại. Tôi không tin là họ tổ chức Lễ Giáng Sinh! Nhưng sau đó thì tôi khám phá ra rằng họ ăn mừng ngày “Công An Nhân Dân” của họ chứ không phải là ngày lễ Giáng sinh!

Sau khi hoàn tất công việc, họ cho tôi một ít kẹo đậu phọng và đưa tôi trở vô trại. Mọi thứ đều đã thay đổi. Để ngăn ngừa trại viên ăn mừng Giáng Sinh, họ đã khám đồ đạc trại viên rồi biên chế để xáo trộn trại viên trong các đội với nhau. Tôi vẫn ở lại đội 10, đội làm mộc, và các bạn tôi đã giúp tôi mang đồ đạc sang phòng giam khác. Tối hôm đó chúng tôi có được một ít kẹo của họ cho để ăn lễ Giáng Sinh!

Sau khi được tha ra khỏi biệt giam, Long làm việc trong bộ phận văn hóa còn tôi thì vẫn ở đội 10. Tôi chỉ làm công tác “văn hóa” trong những ngày lễ hoặc khi họ cần. Ngoài ra thì tôi cũng không thích làm việc ấy một cách thường trực vì nó khiến tôi phải ở mãi trong trại. Làm công việc xây dựng khiến tôi cảm thấy có chút gì đó tự do hơn mặc dù có hơi nặng nề hơn.

Chương 38

Vợ Tôi Đến Thăm Nuôi

Năm 1978, sau gần hai năm ở trại Tân Lập, tôi gần như kiệt sức! Tôi không còn nhận được ra mình nữa khi nhìn vào gương. Tóc thưa hẳn đi vì nước suối A-Mai có chất độc gì đó đã làm nó rụng quá nhiều. Mặt mũi thì xanh xao và hai quai càm thì lại bạnh ra do chất độc của acid cyanhydric trong khoai mì ăn hàng ngày chất chứa trong tuyến dưới càm. Tôi gầy rộc hẳn đi mặc dù trước kia thì tôi cũng vốn đã gầy rồi.

Nhìn các bạn lần lượt ngã ra chết, tôi tự hỏi liệu mình có thể vượt qua được cơn khó khăn này hay không. Tôi không sợ chết nữa bởi vì điều đó chỉ làm tâm hồn và thể xác tôi trở nên thanh thản hơn mà thôi. Cái đói hành hạ tôi hàng ngày. Do sự thiếu ăn và do ăn uống thiếu dinh dưởng, tôi luôn cảm thấy đói ngay cả sau khi vừa ăn xong. Tôi nghĩ tôi sẽ chết trong vài ngày, vài tuần, hay vài tháng nửa mà thôi, nhưng tôi chẳng quan tâm đến điều ấy nữa. Hàng đêm, tôi chỉ mong mình ngủ trong bình yên và không bao giờ thức dậy vào sáng hôm sau để khỏi phải chịu đựng cái đau khổ này nữa. Nhưng tôi không chết! Tôi nghĩ chắc là tôi đã mắc nợ quá nhiều trong tiền kiếp nên kiếp này phải trả cho dứt. Dân tộc mình có cái tội là đã diệt chủng một dân tộc Chiêm Thành ở phía Nam của Việt Nam nên chúng tôi phải trả món nợ ấy.

Kể từ tháng tư năm 1977, khi chúng tôi đến trại Tân Lập cho đến tháng sáu năm 1978, chúng tôi không được phép viết cho gia đình một chữ nào. Sau này gia đình tôi kể lại rằng họ tưởng tôi đã chết ở một nơi nào đó ở miền Bắc rồi. Họ đã nhờ những người quen biết làm trong chính quyền của VC hỏi dùm, nhưng không ai biết gì về tôi cho đến khi nhận được thư tôi hơn một năm sau.

Cuối năm 1978, sau khi thấy chúng tôi chết quá nhiều, VC mới cho chúng tôi được nhận quà của gia đình với quy định năm kí lô mỗi ba tháng và với một số giới hạn như không được gởi thực phẩm khô, gia vị và muối để đề phòng trốn trại. Tôi đã nhận được gói quà đầu tiên của gia đình gồm những món rất thông thường nhưng gói ghém biết bao tình thương: mắm ruốc, muối mè, bột gạo lứt, đường đen, và vài loại thuốc men để trị cảm cúm. Qua bức thư của gia đình, tôi biết được gia đình tôi cũng đã rất nghèo khi họ nói rằng đó cũng là tình trạng chung của đất nước sau chiến tranh. Họ đã phải chia xẻ cảnh nghèo khổ ấy cho tôi.

Những vật trông rất tầm thường đối với xã hội bên ngoài nhưng rất quý giá đối với trại viên trong trại cải tạo, nó có thể giúp chúng tôi vượt qua được bao nhiêu là sự khó khăn ngay cả nó có thể giúp chúng tôi sống sót được nữa. Giống như cây cối bị khô hạn lâu ngày, một cơn mưa rào có thể làm nó xanh tươi lại! Với một ít thêm vào bữa ăn hàng ngày khiến sức khỏe chúng tôi phục hồi rất nhanh; một vài loại thuốc thông thường như Aspirine, Tylenol, Vitamin, có thể trị được những bệnh đã tiềm ẩn lâu ngày vì chỉ uống mấy thứ “thuốc dân tộc” -những thứ lá cây rừng phơi khô-

Đầu năm 1979, gia đình trại viên được phép đến trại để thăm nuôi, nhưng rất hiếm hoi. Chỉ một vài gia đình có thân nhân ở miền Bắc là đến được vì phương tiện di chuyển từ Nam ra Bắc còn rất khó khăn và hạn chế. Để đến trại từ Sài Gòn, thân nhân chúng tôi phải mất hàng mười ngày cho một chuyến đi! Họ còn phải xếp hàng đợi thật lâu mới có thể mua được vé xe lửa, đôi khi phải mất hai ba ngày. Từ Sài Gòn đến Hà Nội, xe lửa chạy mất ba bốn ngày. Rồi lại chờ “tầu chợ” (loại xe lửa đường ngắn) ở ga Hàng Cỏ để đến ga Ấm Thượng, mất thêm hai ngày nữa. Từ ga Ấm Thượng đến Bến Ngọc phải đi đò dọc theo sông Hồng và suối A-Mai. Đi vào trại từ Bến Ngọc, gia đình chúng tôi không có phương tiện nào khác ngoài cách đi bộ mười lăm cây số với đồ đạc nặng nề trên vai. Cho đến khi có nhiều thân nhân đến thăm nuôi, trại mới dùng một chiếc xe ngựa để đưa rước.

Bên cạnh sự khó khăn về di chuyển, cướp bóc dọc đường còn là một điều rất thường xuyên xảy ra nữa. Rồi còn chuyến đi về Nam, do đó người đi thăm nuôi phải mất hàng tháng cho một chuyến đi để chỉ được gặp trại viên trong thời gian mười lăm đến hai mươi phút. Điều đó có đáng hay không? Chỉ có tình thương mới giúp họ làm được việc ấy mà thôi.

Trong bức thư gửi cho tôi năm 1979, vợ tôi dường như có ý định đi thăm tôi. Vợ tôi viết rằng ít ra thì cũng có thể gặp tôi được một lần, nhưng mà cô ấy chưa có tiền! Bức thư ấy khiến tôi ở trong tình thế lưỡng nan. Tôi rất muốn gặp vợ tôi, nhưng lại không muốn cô ấy chịu cực khổ vì chuyến đi. Vợ tôi không khỏe mạnh như nhiều người khác. Tôi viết thư trả lời để ngăn cản ý định ấy của vợ tôi. Tôi bảo rằng tôi luôn yêu thương cô ấy, nhưng tôi không muốn cô ấy phải chịu cực khổ vì chuyến đi như thế. Vài gói quà của gia đình là đã giúp tôi nhiều lắm rồi, tôi chỉ muốn cô ấy an tâm để nuôi con mà thôi. Tình yêu mà cô ấy dành cho tôi là một động lực để giúp tôi vượt qua được cảnh ngộ này rồi.

Vào tháng sáu năm 1979, khi mà tôi không trông mong gì cả thì một hôm tôi lại được gọi ở lại trong trại trong khi đội xuất trại đi lao động. Họ bảo rằng tôi có người đến thăm nuôi. Tôi rất kinh ngạc và đoán rằng có lẽ là vợ tôi đến. Không còn bộ quần áo cá nhân nào, tôi phải lựa một bộ đồng phục tù còn tương đối mới để mặc. Tôi không có được tấm gương để trông xem mình ra thế nào, nhưng tôi biết tôi trông rất kỳ khôi! Tôi không muốn vợ tôi trông thấy tôi như thế này, nhưng tôi phải làm sao đây? Hai năm rưỡi về trước gặp nhau ở trại Thủ Đức, tôi đâu đến nỗi như thế này. Ở trại Thủ Đức thì dù sao chúng tôi cũng đủ ăn và không phải lao động quá nặng nề, và tôi còn có quần áo riêng để mặc khi ra thăm không đến nỗi kỳ quặc như thế này. Hai năm ở trại Tân Lập gần như đã giết chết tôi, dù không giết chết ngay tức thì nhưng cũng đã từng bước một. Tôi không còn là tôi nữa!

Tôi bước đi trên con đường đến nhà thăm nuôi như một người không có linh hồn. Chỉ có một phần hạnh phúc xen lẩn với không biết bao nhiêu nỗi lo lắng trong lòng! Vợ tôi ra sao? Làm sao cô ta có thể chịu đựng được một cuộc hành trình xa xôi và vất vả như thế? Gia đình tôi thế nào? Con tôi ra sao? Hàng trăm câu hỏi xâm chiếm lấy đầu óc tôi trên con đường đi đến nhà thăm nuôi.

Vợ tôi đang đứng ở ngưỡng cửa với những người khác khi tôi đi đến nơi. Chúng tôi ngồi hai bên chiếc bàn lớn với tên cán bộ ngồi ở đầu bàn quan sát. Tôi cố vói qua nắm lấy tay cô ta và siết chặt. Những gì mà chúng tôi đã nói với nhau tôi không thể nhớ được, nhưng tôi nghĩ rằng tôi chỉ đủ thời gian để hỏi về gia đình, về con tôi, về cuộc sống của vợ tôi khi không có tôi ở nhà! Hơn một tuần lễ đi đến và rồi còn thời gian trở về mà chỉ gặp nhau được hai mươi phút, tôi nghĩ là không đáng cho sự chịu đựng của vợ tôi chút nào.

Cô ấy trông vẫn trẻ, vẫn “mỏng manh”, vẫn là tình yêu của tôi như thuở nào, nhưng tôi thấy dường như xa xôi làm sao, dường như đến từ thiên đàng để gặp một người ở địa ngục! Cô ấy cho biết rằng cô ấy đi cùng với Ngọt, vợ của Tuân. Họ là bạn ở trung học, bạn có chồng làm chung với nhau, và bạn có chồng cùng ở tù chung nữa! Tôi cảm thấy hơi an lòng một chút khi biết rằng vợ tôi không phải đi một mình. Khi từ giã, tôi nhìn thấy ngón chân vợ tôi bị băng. Cô ấy cho tôi biết rằng thùng quà đã bị rơi khi cô ấy chất nó lên xe ngựa. Họ đã phải đi bộ từ Bến Ngọc vào đến trại vì có nhiều người đến thăm hôm ấy; chiếc xe ngựa đã chất quá đầy.

Vợ tôi đã chịu bao nhiêu là khó khăn để đến thăm tôi, và còn con đường về nữa? Điều ấy cứ lởn vởn trong đầu óc tôi mãi khi tôi trở vào trại. Tôi đặt hai thùng và một giỏ quà lên chổ rồi nằm đó mà nghĩ đến vợ tôi. Cô ấy vẫn còn ở ngoài nhà thăm nuôi để chờ Ngọt đang thăm chồng bên K3. Chỉ có một hàng rào ngăn cách giữa vợ tôi với tôi, nhưng sao mà xa xôi quá như vậy! Hai mươi phút gặp nhau trôi qua như một giấc mơ mà tôi không thể nào quên được. Tôi còn có thể gặp được vợ tôi nữa không hay đây là lần cuối cùng? Những gói quà này chứa đầy tình yêu. Nó sẽ giúp tôi rất nhiều trong những ngày tháng sắp tới, nhưng điều quan trọng nhất đối với tôi lúc ấy chính là tình yêu của vợ tôi dành cho tôi vẫn còn hiện hữu.

Tôi không thể chợp mắt được suốt đêm, mong tiếng kẻng báo thức. Điều đầu tiên khi ra đến nhà lô là hỏi Lung, cán bộ quản giáo của đội, dẫn tôi trở lại nhà thăm nuôi, nhưng mà vợ tôi đã đi cùng với Ngọt rồi. Tôi thất vọng đi trở về nhà lô không còn làm được gì nữa cả.

Vợ tôi viết trong bức thư sau đó rằng cô ấy chỉ muốn ở lại với tôi một đêm thôi để có thể tâm sự được với nhau. Hai mươi phút trôi qua quá nhanh, nhưng cô ấy cảm thấy hãnh diện vì các bạn đi cùng bảo rằng tôi trông vẫn còn trẻ và trông không đến nỗi tệ hại như họ nghĩ! (ngay cả trong bộ đồng phục tù!)

Kể từ khi có nhiều trại viên được thăm nuôi thì bộ mặt của trại thay đổi hẳn ra. Những trại viên có thân nhân ở nước ngoài gởi tiền về được thăm nuôi thường xuyên, vài người không ăn cả phần ăn của trại và chia nó ra cho những người khác. Các trại viên “cô nhi” có thêm được một ít trong tiêu chuẩn ăn hàng ngày, và giống như nắng hạn gặp mưa rào, mọi người trở nên khỏe mạnh hơn lên.

“Đội lâm sản” và “đội vận chuyển” đã được giao cho các trại viên miền Nam. Chúng tôi bắt đầu liên hệ với dân chúng sống trong vùng quanh trại, và họ cũng đã bắt đầu làm quen với người miền Nam thông qua gia đình trại viên. Một số người dân có thêm một công việc mới, đó là giúp gia đình đến thăm mang đồ đạc và chuyển vào trại bằng xe đạp.

Ở vùng hẻo lánh như nơi đó thì thời trang Sài Gòn là một điều rất hấp dẫn đối với những người dân không đủ quần áo để mặc. Khi những người Sài Gòn đến nơi thì trẻ con chạy theo nhìn, những cô gái thì ngắm nhìn rồi bàn tán, những người đàn ông thì huýt sáo. Trong một bức thư vợ tôi gửi tôi sau này, cô ấy nói rằng khi Ngọt và cô ấy đi vào trại thì thấy các đứa trẻ quần áo tả tơi chạy theo và bảo nhau đi xem các “tài tử”. Cô ấy không thể ngờ rằng lại có những người dân còn nghèo khổ đến như thế.

Khi đã có nhiều người đến thăm nuôi, dân chúng trong vùng và cả gia đình cán bộ có thêm được một nghề mới, bán đồ đạc cho thân nhân và cho trại viên. Dân chúng đi mua những món hàng từ các thành phố gần đó về bán dọc theo con đường từ Bến Ngọc đến trại. Người đi thăm nuôi không phải mua những thứ nặng nề hoặc những thức ăn tươi từ Hà Nội nữa. Cán bộ và gia đình còn mang cả đồ vật vào trại bán cho các trại viên đã dấu tiền khi thăm nuôi. Mặc dù nội quy không cho mang tiền vào trại, nhưng rồi họ cũng làm ngơ.

Cuộc sống trong trại càng lúc càng dễ dàng dần. Cán bộ trực trại có lúc đã bán cả rượu cho trại viên và vào uống với trại viên. Vào Tết năm 1982, họ nói rằng tổng số rượu mang vào trại lên tới con số trên hai trăm lít! Các cán bộ nữ thì bắt đầu học khiêu vũ với trại viên trong đội văn nghệ. “Nhạc vàng” vẫn bị cấm trong trại, nhưng các cán bộ lại bảo trại viên dạy cho họ hát. Tất cả những thứ đó trông giống như một sự tranh đấu giữa hai thứ văn hóa: cái văn hóa của người thắng trận và cái văn hóa của kẻ bại trận. Điều đó khiến tôi nhớ tới tình trạng của dân Mãn Thanh sau khi chiếm được nước Trung Hoa lập nên nhà Thanh rồi sau đó lại bị người Trung Hoa đồng hóa ngược lại vì Mãn Thanh là một dân tộc không có nền văn hóa phát triển như Trung Hoa.

Cộng Sản thường nói rằng “ai thắng ai giữa chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa Tư Bản”. Tôi nghĩ đây là một dịp để nhìn thấy được sự thật ấy. Họ đã thắng trong cuộc chiến, nhưng chiến tranh của hai nền văn hóa vẫn còn tiếp tục. Họ đã đốt hết sách vở của miền Nam, cấm ca hát “nhạc vàng”, cấm thời trang miền Nam, và thay vào đó bằng sách vở, ca nhạc, và thời trang của họ. Giờ đây họ lại muốn nghe nhạc vàng, muốn khiêu vũ kiểu miền Nam. Đó chính là dấu hiệu đầu tiên để trả lời câu hỏi “ai cải tạo ai, hay là ai thắng ai?”


Một cảnh thăm nuôi tù ở các trại tù miền Bắc vào các năm cuối thập niên 1970.

Phần 5

Trại Cải Tạo Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải.

Chương 39

Đi Về Miền Nam

Năm năm ở trại Tân Lập quả là quá dài để chịu đựng biết bao nhiêu đau khổ, đặc biệt vào những năm đầu tiên. Nhiều người đã chết, nhiều người bị bệnh kinh niên, và nhiều người thì bị thương tật. Bệnh trĩ của tôi càng lúc càng nặng mà không có thuốc men gì để trị hay để làm giảm đau! Tôi không thể biết được có bao nhiêu người còn lại trong số bốn trăm mười trại viên đầu tiên đến trại Tân Lập vì đã có nhiều lần di chuyển xáo trộn, đến và đi. Theo tôi nghĩ thì chắc phải có ít nhất là khoảng một phần ba trại viên đã chết trong số bốn trăm mười người đến Tân Lập trên chuyến tàu “Sông Hương”. Vài trại viên đã bị đưa đi khỏi K5 của trại Tân Lập để biệt giam ở một nơi nào đó và rồi mất biệt luôn.

Sau khi Trung Quốc tấn công vào các tỉnh miền Bắc Việt Nam năm 1979, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trở nên căng thẳng. Việt Nam và Trung Quốc không còn ở tình trạng “môi hở răng lạnh”nữa mà bây giờ là răng cắn môi chảy máu! VC chia miền Bắc ra thành ba khu vực: khu một gồm các tỉnh giáp với biên giới Trung Quốc, khu hai là miền Trung Du Bắc Việt, và khu ba là đồng bằng sông Hồng. Sau khi bị Trung Quốc tấn công, họ đưa hết các trại cải tạo ở khu một về khu hai, và kể từ khi đó thì trại Tân Lập rất đông trại viên. Chúng tôi đã phải đào giao thông hào trong sân sát với buồng giam để chuẩn bị cho trận tấn công của Trung Quốc vào khu hai.

Dự tính của VC thành lập những “nông trường” quốc doanh cho chúng tôi sống ở đó suốt đời đã không thành công. Hai “nông trường” được thành lập ở Thanh Hóa có tên là Thanh Phong và Thanh Lâm cuối cùng đã trở thành hai trại cải tạo mà thôi! Họ bắt đầu phải đưa trại viên trở về miền Nam từ năm 1980, nhưng cuộc nổi dậy của các trại viên ở một trại ở Hàm Tân vào đầu năm 1981 khiến việc này bị đình lại cho đến năm 1982. Kể từ tháng tư năm 1982, trại Tân Lập bắt đầu chuẩn bị cho cuộc di chuyển vào Nam.

Từ Tết năm 1982, các tin đồn về sự thay đổi của trại từ “tù chính trị” sang “tù hình sự” được loan truyền khắp nơi trong trại. Hầu hết những tin đồn này đều phát xuất từ các cán bộ. Nhưng chúng tôi không biết được điều đó sẽ là chúng tôi sẽ được thả ra khỏi trại hay di chuyển vào Nam. Cũng đã có vài cuộc phóng thích nhưng không bao giờ đạt đến con số một trăm trại viên. Thời gian ấy, trại Tân Lập rất đông trại viên từ K1 đến K5; tôi nghĩ toàn trại có thể đạt đến con số ba ngàn trại viên. Phạm nhân hình sự chỉ là thiểu số so với số trại viên đến từ miền Nam. Tôi không tin họ có thể thả một số lớn trại viên như thế, do đó tôi nghĩ rằng có lẽ sẽ có một cuộc di chuyển.

Vào sáng ngày 7 tháng tư năm 1982, chúng tôi đi ra nhà lô để lao động như thường lệ. Nhưng từ ngày hôm qua, chúng tôi đã nghe các trại viên trong đội vận chuyển và đội lâm sản cho biết rằng ở các phân trại K1, K2, K3 và K4 đã đọc tên trại viên được chuyển vào Nam rồi. Nhưng mọi việc dường như vẫn diễn ra bình thường ở phân trại K5.

Tôi đang làm một cái “hòm” bằng gỗ cho một cán bộ ở nhà lô đội 10. Đó là một cái rương bằng gỗ đặc biệt vì nó được làm bằng loại gỗ “lác”, một thứ gỗ quý ở miền Bắc. Tôi đã bào xong bốn tấm ván hông, chỉ đợi để cắt mộng và ráp vào mà thôi. Nhưng đó lại là một giai đoạn khó nhất trong việc đóng “hòm” vì tôi phải cưa những cái mộng đuôi cá nhỏ cho thật khít khao nếu không thì lúc ráp nó sẽ bị nứt hết. Tôi không thể tập trung được vào việc làm này mà chỉ đứng ở cầu bào nhìn về phía cổng trại. Phân trại K5 là bộ chỉ huy của toàn trại, nếu có việc di chuyển như vậy thì nhất định các trại viên sẽ phải tập trung về đây trước khi đi nơi khác.

Cán bộ quản giáo đội 10 không nói gì với tôi mà chỉ nói với Vui và Nam, hai trại viên trong đội rằng sẽ không có gì hết và chúng tôi phải làm việc như thường lệ. Tôi nghe ông ta nói và trả lời lại rằng tôi có thể làm mọi việc mà ông ta bảo, nhưng chắc chắn là sẽ không hoàn hảo như ý muốn vì đầu óc tôi không thể điều khiển hai tay tôi được nữa! Sống quá lâu trong trại và ở đội 10, tôi trở nên quen thuộc với từng cán bộ một và không còn sợ họ như lúc đầu nữa, nhưng tôi lại luôn luôn giữ một khoảng cách để họ không có lý do gì mà phạt tôi. Ngoài ra thì làm một cái “hòm” gỗ cho cán bộ là công việc làm có tính cách riêng tư; họ không có cách gì để bắt buộc tôi được!

Hầu hết các cán bộ trong các trại cải tạo đều rất nghèo. Họ cần những thứ rất là tầm thường như những cái rương bằng gỗ, cái ghế nhỏ, cái bàn, và đôi khi chỉ cần một quyển sổ có vẽ hình bông hoa mà thôi. Làm những việc này là những công việc riêng tư nên đôi khi phải dấu cả Ban Giám Thị, nhưng nhờ đó mà tôi sống được dễ dàng hơn trong trại! Đôi khi tôi muốn đi ra ngoài chỉ để tắm giặt mà thôi, nhưng tôi bảo với tên cán bộ gác cổng rằng tôi phải ra nhà lô để làm việc. Hắn ta là người đang nhờ tôi vẽ dùm mấy bông hoa trong cuốn sổ cho nên hắn sẽ cho tôi đi một cách dễ dàng với điều kiện là tôi đừng trốn trại và làm dùm công việc mà hắn nhờ! Đó là cách sống của tôi trong trại: làm những điều có lợi cho tôi mà không hại ai hết là được rồi.

Khoảng mười giờ sáng, các trại viên ở các phân trại khác bắt đầu đến nơi. Họ mang xách đồ đạc trên vai. Chúng tôi nhìn một cách kích thích, nhưng chưa thể vào trại được cho đến trưa.

Chiều hôm ấy, tiếng kẻng báo giờ đi lao động vang lên như thường lệ. Chúng tôi tập họp ở sân để chuẩn bị xuất trại thì thấy có một cán bộ cầm giấy vào đọc tên các trại viên ở lại trong trại. Những người không có tên thì đi lao động. Có khoảng mười lăm trại viên trong đội tôi được ở lại, trong đó có tôi; chúng tôi trở vào buồng để lấy đồ đạc và di chuyển sang một buồng khác ở khu B với các trại viên từ K1 đến.

Một tiếng đồng hồ sau thì cán bộ quản giáo đội 10 vào dẫn tôi ra nhà lô để hoàn tất cái “hòm”. Nam, người bạn thân với tôi trong đội vẫn ở lại; anh ta trông buồn buồn nhưng cố dấu đi. Tôi giao lại cho anh ta tất cả đồ đạt trong cầu bào của tôi –đó là tài sản của tôi. Tôi thường dấu nhiều thứ trong ấy như cam (hái lén từ vườn cam ở gần nhà lô), khoai lang, khoai mì, bắp cải, gạo, bo bo, vân vân; những thứ mà các cán bộ cho tôi khi tôi làm những công việc riêng tư cho họ. Tôi cũng giao cho Vui, phụ tá của tôi ở đội 10, những dụng cụ và chỉ anh ta cách hoàn tất cái hòm sau khi tôi đã làm xong phần hông và nắp.

Những sự chia tay trong trại diễn ra thường xuyên. Các trại viên ở lại thường ái ngại cho những trại viên phải ra đi, nhưng lần này thì mọi việc đều ngược lại. Nhìn dáng vẽ buồn rầu của họ, tôi không biết nói gì hơn là an ủi họ rằng chắc rồi sẽ còn những cuộc di chuyển tiếp theo. Nam và Vui đều được thả ra sau lần di chuyển thứ hai của trại Tân Lập.

Một điều ngộ nghĩnh là nhiều cuộc chia tay khác lại diễn ra giữa trại viên với cán bộ nữ và giữa trại viên với các phụ nữ sống quanh trại! Vài cán bộ còn bảo rằng họ không muốn chúng tôi đi vì không thích các phạm nhân hình sự thay thế chúng tôi. Mọi người đều đã thay đổi quan điểm, và đôi khi tôi tự nghĩ không biết ai cải tạo ai đây?

Đêm hôm ấy, hầu như mọi người đều thức để trò chuyện. Vài trại viên còn biết trước rằng chúng tôi sẽ được chuyển vào trại Thủ Đức. Thủ Đức là trại mà từ đó tôi được đưa ra trại Tân Lập năm năm về trước! Nếu thật sự chúng tôi được chuyển về trại Thủ Đức thì đó chỉ là giai đoạn ngắn mà thôi vì Thủ Đức chỉ là một trại trung chuyển, và chúng tôi đều mong rằng chúng tôi sẽ được thả ra khi về đến miền Nam.

Ngày hôm sau, tôi xếp mọi thứ vào cái ba lô để chờ đợi. Đã có kinh nghiệm từ lần di chuyển trước từ Nam ra Bắc, tôi cố giữ lại những thứ thật cần thiết để được càng nhẹ càng tốt dù rằng ở trong trại thì mọi thứ đều cần. Thời tiết tháng tư vẫn còn lạnh, do đó tôi mặc cái áo khoác thay vì nhét nó vào ba lô. Cái áo khoác của tôi đã rách nát và phải mạng vá lại bằng nhiều thứ vải. Chỉ có hai bộ đồng phục tù là tương đối còn coi được nên tôi bỏ chúng vào ba lô cùng với mùng mền. Tôi cũng đã cắt cái pon-sô của tôi thành hai phần, một để làm áo mưa còn một tấm để làm tấm trải phía dưới chiếu ngăn rệp. Tôi cuộn chiếc chiếu và tấm pon-sô ấy vào với nhau và cột vào nắp ba lô, cái bi-đông đựng nước uống và cái hũ đựng cơm thì được treo vào hông ba-lô. Tôi đã sẵn sàng, nhưng tôi nghĩ họ sẽ di chuyển vào ban đêm vì đó là thói quen của họ.

Tôi cố đi ngủ sớm ngay lúc vừa điểm nhập buồng vì tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ di chuyển vào tối hôm ấy. Khoảng nửa đêm, các cán bộ vào để kiểm trại viên trước khi di chuyển. Chúng tôi phải xếp vào hàng và họ còng hai người lại với nhau trước khi dẫn chúng tôi ra khỏi cổng trại. Đó là sáng sớm ngày 9 tháng tư năm 1982; tôi đã ở trại Tân Lập được bốn năm, mười một tháng, mười tám ngày!

Không có chiếc xe nào phía trước cổng trại. Dưới sự dẫn đường của cán bộ vũ trang, chúng tôi đi về phía bờ suối hướng qua phân trại K3. Hướng đó ngược với hướng đi về phía Bến Ngọc nếu chúng tôi thật sự đi về Nam. Tất cả chúng tôi đều lo lắng biết đâu đây lại là một trò ma mảnh nào đó của họ. Đến bờ suối nơi tôi vẫn thường băng ngang vì nơi đó tương đối cạn, chúng tôi băng qua suối. Đôi dép râu của tôi vuột mất quai nên tôi phải bỏ nó vào ba-lô và đi chân không kể từ khi ấy. Nhiều người có quá nhiều đồ đạc nặng nề di chuyển rất khó khăn nhất là với chiếc còng trên tay nên đã phải bỏ bớt đi một phần.

Qua bờ suối bên kia, chúng tôi quay ngược lại về phía Bến Ngọc. Tôi thở dài nhẹ nhõm! Tôi đoán có lẽ đó là chỗ duy nhất để có thể băng qua suối. Con đường mòn đi đến Bến Ngọc từ phân trại K3 phải băng qua một khu rừng bồ đề. Trong bóng đêm, tôi không thể tránh khỏi những bụi gai mắc cỡ và những viên đá sắc cạnh ở khắp nơi. Với chiếc quần ướt và đôi chân trần bị cắt đứt bởi đá và gai nhọn, tôi phải rán theo kịp mọi người trong sự đau đớn và lạnh lẽo. Nhưng trong thâm tâm thì tôi vẫn luôn hy vọng vượt mọi thứ để được về miền Nam, để ít nhất được gặp lại gia đình và quê hương tôi.

Đó là lần thứ hai tôi đi qua phía bên kia bờ của Bến Ngọc. Lần đầu tiên là lúc tôi mới đến trại Tân Lập năm năm về trước; đoàn xe ngừng một lúc để đợi nhau rồi chạy thẳng xuống suối để đi qua bờ bên kia. Lần này thì chúng tôi đến Bến Ngọc lúc sáng sớm, và đoàn xe đã chờ sẵn ở đó! Tôi không biết tại sao nó không chịu đi vào trại dù lúc ấy suối A-Mai chảy cũng không đến nỗi mạnh lắm. Đó là đoàn xe “Molotova” chứ không phải xe đò như lúc chúng tôi đi đến trại. Chúng tôi leo lên sàn của những xe không mui ấy và đợi tất cả trại viên đến nơi.

Khi mọi người đến nơi thì trời cũng đã sáng tỏ. Rất đông người đứng hai bên đường để tiễn đưa chúng tôi, vài người còn ném thức ăn lên xe. Khi chúng tôi đến đây thì họ nhìn chúng tôi với sự nghi ngại; bây giờ, khi chúng tôi rời nơi đây thì họ tiễn chúng tôi với tình cảm của họ. Kể từ khi gia đình trại viên đến thăm, dân chúng sống quanh vùng trại bắt đầu tiếp xúc với dân miền Nam. Họ cũng bắt đầu biết ít nhiều về sự thật của miền Nam, những điều mà họ đã bị che đậy hằng bấy lâu nay.

Chúng tôi rời Bến Ngọc vào sáng sớm. Quang cảnh nơi này trông có vẻ đông đúc hơn khi chúng tôi đến. Nhà cửa mọc nhiều thêm lên, vài nhà gạch chen lẫn với nhà lá, dân chúng cũng đông đúc hơn, đất đai cũng không còn hoang vắng như trước, đồi trọc đã được che phủ bởi cây trà và khoai mì.

Đoàn xe đến con đường nhựa khoảng một giờ sau. Vài chiếc xe gắn máy Honda chạy trên đường. Khi đoàn xe chạy ra khỏi thị xã thì đường xá trống trải hơn. Chúng tôi đứng lắc lư trên xe khi đoàn xe chạy trên con đường đầy những ổ gà. Năm năm sau khi chiến tranh chấm dứt, không có gì gọi là “cải tiến” trên những phương tiện giao thông ở Bắc Việt ngoài vài chiếc Honda du nhập từ miền Nam! Xe cộ cũng phải lao xuống suối, đường xá cũng đầy những ổ gà, và dân chúng cũng dùng xe đạp như một phương tiện vận chuyển chính của họ.

Tôi không biết đoàn xe chạy theo hướng nào, nhưng vào khoảng trưa thì bắt đầu thấy vài chiếc xe hơi chạy trên đường. Một chiếc xe có vài người ngoại quốc -với da trắng tóc vàng- chạy theo đoàn xe chúng tôi một lúc lâu. Họ không có một dấu hiệu gì cho biết họ là người nước nào, do đó chúng tôi cũng không biết họ là ai. Một người trong bọn họ chào chúng tôi với dấu hiệu hình chử V bằng hai ngón tay, và vài người trong chúng tôi giơ còng lên để cho họ thấy hoàn cảnh của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng họ là những phóng viên, nhưng tôi không biết rõ họ là người nước nào vì trong quốc gia của Cộng Sản, các phóng viên nhất là của Phương Tây không thể đi lại dễ dàng như thế.

Tôi đoán rằng đoàn xe sẽ chạy về phía cảng Hải Phòng để chúng tôi lên tàu về Nam, nhưng tôi lại thấy con đường có vẻ khác hơn lúc chúng tôi đi đến. Rừng núi từ từ biến mất; đoàn xe chạy trong một vùng đồng bằng. Khoảng chiều, xe cộ càng lúc càng đông. Con sông Hồng với bờ cát trải dài ra xa xuất hiện dọc theo đường đi. Đó là mùa nước cạn. Đoàn xe chạy qua cầu vào giờ tan việc. Xe cộ rất đông trên cầu. Có rất nhiều xe gắn máy Honda và dân chúng ăn mặc quần áo sặc sỡ hơn là những hình ảnh mà chúng tôi thường thấy về thành phố Hà Nội. Thời trang miền Nam đã du nhập ra miền Bắc sau khi chúng bị cấm đoán ở miền Nam, thật là một chuyện khôi hài! Đó là cây cầu Thăng Long xuyên qua sông Hồng, cây cầu dài nhất miền Bắc. Chúng tôi đang vào thành phố Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa.

Dân chúng nhìn chúng tôi một cách tò mò, nhưng tôi không thấy một dấu hiệu nào của sự thù hận. Vài người vẫy tay dường như chào chúng tôi. Dân Hà Nội đã bắt đầu thay đổi lối sống và thay đổi cả cái nhìn của họ!

Đoàn xe không đi thẳng vào Hà Nội mà chỉ đi vòng quanh. Tôi nhìn thấy ánh phản chiếu từ mặt nước hồ ở xa xa nhưng không biết có phải đó là Hồ Gươm hay không.

Sau khi qua Hà Nội, đoàn xe chạy thẳng hướng Nam khi trời đã bắt đầu tối. Chúng tôi không thể nào ngủ được trong tình trạng ấy cho nên chỉ ngồi dựa vào đồ đạc để cố nghỉ ngơi một chút. Tôi tự hỏi làm thế nào để chịu đựng được một chuyến đi về miền Nam trên chuyến xe như thế này. Đoàn xe tiếp tục chạy trong đêm tối; tôi không thể nhìn thấy được gì ở hai bên đường để đoán biết mình đang đi đâu.

Cuối cùng thì mặt trời cũng bắt đầu mọc; tôi thấy những cánh đồng lúa ở chung quanh. Vài nhà lá với cái ao phía trước là đặc điểm của miền đồng bằng miền Bắc. Chúng tôi đang đi trong địa phận tỉnh Hà Nam Ninh, một tỉnh mới bao gồm ba tỉnh Hà Tây, Nam Định và Ninh Bình. Đoàn xe quẹo phải và rồi ngừng lại ở cuối một con đường đi đến một dòng sông khi trời sáng tỏ. Vài người cho biết đó là con sông Đáy chảy qua thị xã Phủ Lý của tỉnh Nam Định.

Hai bên con đường từ khúc rẽ vào đến bờ sông, nhà cửa cất theo nhiều loại nằm san sát với nhau. Một khu chợ ngoài trời nằm gần bờ sông. Dân chúng khá đông đúc. Vài chiếc đò chở khách từ bờ kia sông sang đang cập bến. Không thấy có cây cầu nào băng qua sông, tôi đột nhiên nhớ tới chiếc phà mỗi lần chỉ chuyển được một chiếc xe chở chúng tôi qua sông khi chúng tôi đi ra miền Bắc năm năm về trước. Chẳng lẽ câu chuyện đời xưa ấy lại diễn ra ở một thị xã như thế này hay sao?

Chiếc ca-nô kéo theo một cái mảng nhìn thấy từ xa. Đó không phải là một chiếc mảng tre mà làm bằng cây bọc thép, và nó có thể chở được hai xe mỗi lần. Chiếc ca-nô thì quá cũ kỹ và không được bảo trì, trông giống như loại tàu nhỏ của Hải Quân miền Nam trước đây. Mười lăm chiếc xe qua sông vào khoảng giữa trưa, chạy khoảng một tiếng đồng hồ qua một dãy núi đá vôi để đi vào phân trại A của trại cải tạo Nam Hà.

Trại cải tạo Nam Hà trông có vẻ rất kiên cố hơn trại cải tạo Tân Lập với nhà gạch bao quanh bởi tường cao. Tôi không có dịp để biết nhiều về trại này vì chúng tôi chỉ ở trong một khu biệt lập. Nền chỗ nằm làm bằng xi-măng chứ không bằng gỗ như ở trại Tân Lập và chắc là cũng ít rệp hơn.

Khoảng nửa đêm ngày thứ hai, chúng tôi được chuyển ra ga Phủ Lý để chờ xe lửa. Địa danh này tôi đã từng biết đến qua các tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn viết khoảng những năm 1930. Nhưng cái gọi là ga “Phủ Lý” chỉ là một căn nhà nhỏ có hai vách ở hai đầu còn hai mặt kia thì trống trơn. Nó được xây có lẽ từ thời Pháp thuộc mà không được sửa sang lại bao giờ. Một bóng đèn treo phía dưới mái nhà không có trần chiếu ánh sáng mờ mờ vàng vọt cho căn phòng khoảng sáu thước ngang mười thước chiều dài.

Trên sáu trăm trại viên chen chúc trong căn phòng ấy; chúng tôi chỉ có thể ngồi co ro ở chỗ để đợi xe lửa. Sau một lúc thì đầu gối và đùi tôi bị tê mà không thể duỗi chân ra được. Tôi bảo Tâm, người bạn bị còng chung còng đứng dậy và đổi vị trí để ngồi dựa lưng nhau. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn một chút, nhưng các tên cán bộ canh gác ở đó không cho phép chúng tôi được cử động nữa. Họ muốn chúng tôi ngồi yên để dễ kiểm soát.

Xe lửa đến khi mặt trời đã xuất hiện ở chân trời, lúc ấy khoảng bảy đến tám giờ sáng. Các cán bộ đọc tên chúng tôi một lần nữa trước khi cho chúng tôi từng cặp một bước lên xe lửa. Chúng tôi chiếm chỗ trên ba toa xe. Điều khó khăn là cái ghế ngồi trên xe lửa làm cho ba người. Hai cặp có thể ngồi được ở hai hàng ghế nhưng một cặp khác không thể ngồi ở hai bên ghế của đường đi ở giữa với cái còng không dây trên tay. Chúng tôi phải chia xẻ sự khó khăn này bằng cách đổi chỗ với nhau: hai cặp ngồi trên ghế và một ngồi dưới sàn xe.

Mặc dù với cái còng trên tay, tôi vẫn thấy cảm thấy thoải mái hơn ở trong hầm của chiếc tàu “Sông Hương” năm năm trước. Đây là chuyến xe lửa chở khách, do đó chúng tôi có phòng vệ sinh và có phục vụ thức ăn hàng bữa với thực đơn của khách. Chúng tôi không phải bước trên sàn dơ bẩn như trên tàu nữa, và trên tất cả là chúng tôi đang được đi về miền Nam, quê nhà của chúng tôi! Vài người có vẻ lạc quan tếu còn phát biểu rằng “ngày đi đau khổ, vinh quang ngày về!” Tôi thì không chắc rằng có vinh quang gì không, nhưng ít ra thì tôi cũng biết được mình đang đi đâu và tôi có thể gặp lại được gia đình tôi.

Con đường xe lửa chạy dọc theo đường quốc lộ số một, con đường duy nhất chạy từ Bắc vô Nam Việt Nam. Tôi nhìn thấy những hố bom nằm rải rác trên những cánh đồng, dấu hiệu của chiến tranh vẫn còn vương lại trên miền Bắc Việt Nam. Đường quốc lộ số một quá hẹp và đầy ổ gà. Chiếc xe lửa cũ kỹ với đầu máy chạy bằng than phun đầy bụi khói! Đến những ga dọc đường, xe không ngừng nhưng chạy chậm lại, do đó chúng tôi có thể nhìn thấy những sinh hoạt của dân miền Bắc. Những người bán hàng rong, phần lớn là trẻ con mang những cái rổ đựng đầy hàng bánh chạy theo xe rao mời khách. Ở vài ga đầu tiên, cán bộ không cho chúng tôi mở cửa sổ, nhưng rồi sau đó họ có vẻ lờ đi. Vài trại viên có tiền đã mua hàng của những đứa trẻ bán hàng rong này. Khi chúng nhận ra chúng tôi là những người khách hàng đặc biệt, chúng không chịu nhận tiền nữa, nhưng không ai muốn lợi dụng chúng.

Các chiếc xe lửa khách đường ngắn -gọi là tàu chợ- đầy khách đứng ngồi ngổn ngang và ngay cả có nhiều người đeo bám ở cửa; thật là một quang cảnh lộn xộn mà tôi chưa từng thấy bao giờ! Tôi đột nhiên rùng mình nghĩ đến chuyến đi của vợ tôi khi cô ấy đến thăm tôi vào năm 1979. Làm thế nào để vợ tôi có thể chịu đựng được một chuyến đi dài đăng đẵng và lại lộn xộn như thế? Chỉ có tình yêu mới giúp được cô ấy vượt qua được những vất vả và có đủ sức để làm việc ấy mà thôi. Trên chuyến tàu từ Nam ra Bắc, ngoài tình trạng hỗn loạn còn có cả cướp giật, và ngay cả giết người nữa. Những người đàn bà với đồ đạc ngổn ngang rỏ ràng là mục tiêu của bọn này. Tôi nghĩ những chuyến tàu ấy còn tệ hơn là chuyến tàu mà chúng tôi đang đi mặc dù hành khách không bị còng như chúng tôi!

Tới một ga mà tôi không nhớ tên, xe lửa ngừng lại một lúc. Vài đứa trẻ bán hàng rong nhảy lên xe để bán hàng. Tôi mua hai trái chuối nướng bọc trong nếp bằng tiền mà tôi dấu trong ba-lô rồi ngồi ăn một cách ngon lành như một món ăn rất đặc biệt.

Tôi ngồi mệt mỏi trên sàn tàu và chợp mắt được một lúc. Một đêm chờ đợi ở ga “Phủ Lý” làm tôi mệt nhoài, nhưng tôi không thể ngủ được. Tới phiên tôi được ngồi lên ghế khi trời vừa tối. Chiếc xe lửa đi qua sông “Bến Hải” trên một chiếc cầu song song với chiếc cầu nổi tiếng mang tên là “Hiền Lương” ở vĩ tuyến thứ mười bảy nơi đã từng là ranh giới chia cắt hai miền Nam Bắc Việt Nam.

Có bao nhiêu cuộc chiến đã diễn ra trên chiếc cầu mang cái tên “hiền lành và lương thiện” này và trong cái vùng mang tên là vùng “phi quân sự” này? Thật là một sự lạm dụng danh từ! Con sông quá nhỏ bé, và chiếc cầu cũng vậy! Nhưng chúng đã đi vào lịch sử Việt Nam như một địa danh không thể quên được. Đã hai lần đất nước bị chia cắt, và những tên như sông Gianh hay sông Bến Hải đã khắc sâu vào tâm khảm của người dân Việt như những vết nhơ không thể xóa sạch được.

Việt Nam đã thống nhất! Vấn đề là những người Cộng Sản đã lợi dụng lòng yêu nước của người dân để xây dựng một chế độ vô nhân đạo trên đất nước. Chẳng những họ đã cướp công của nhân dân trong chiến tranh mà họ còn cướp cả tài sản của người dân sau khi cuộc chiến chấm dứt nữa. Với những khẩu hiệu như “tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội” họ cướp tất cả của cải của người dân! Sau chiến tranh thì người dân trong nước càng lúc càng nghèo dần. Con sông “Bến Hải” đã đi vào lịch sử, nhưng chủ nghĩa Cộng Sản thì vẫn tồn tại. Dân tộc Việt Nam đã vượt qua được một cuộc chiến tranh ghê gớm nhưng rồi lại phải sống trong nghèo khổ dưới sự cai trị của Cộng Sản. Chỉ có những người Cộng Sản là độc quyền yêu nước. “Yêu nước tức là yêu xã hội chủ nghĩa” quả là một định nghĩa kỳ quặc!

Trời tối hẳn khi tàu tiến vào thành phố Huế, cố đô của Vương Quốc Việt Nam. Vào Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng đã tạm chiếm thành phố này và tạo nên một cuộc thảm sát dã man. Tôi cố nhìn xem sinh hoạt của Huế nhưng không thể được vì trời quá tối. Chiếc xe lửa ngừng ở một trạm và tôi ngủ thiếp đi ở chổ ngồi.

Người bạn mang chung còng với tôi là Tâm cử động khiến tôi giật mình tỉnh giấc lúc xe lửa đang đi ở một nơi nào đó ở miền Trung Việt Nam. Tôi ngạc nhiên khi thấy những hàng cột điện chạy ngược lại trước mặt mình. Đêm qua tôi vẫn nhớ tôi ngồi ngược với chiều của tàu chạy, có nghĩa là hàng cột phải chạy từ phía sau lưng tôi. Điều gì đã xãy ra đêm qua? Xe lửa đi ngược lại về miền Bắc hay đi vào nơi nào đó của miền Trung? Tôi tự hỏi. Mọi người cũng cảm thấy lo lắng. Sau đó thì chúng tôi được biết rằng xe đã đổi đầu máy chạy bằng dầu sau khi ngừng ở Huế do đó nó cũng đổi chiều của chiếc xe luôn.

Đến vài ga ở miền Trung, dân chúng bắt đầu nhận được ra chúng tôi nên vẫy tay chào. Khi đến ga Quy Nhơn vào khoảng trưa, hàng trăm dân chúng đã đứng dọc hai bên đường rầy, ném quà bánh lên xe, la hò, và vẫy tay chào đón chúng tôi giống như là thân nhân của họ. Sau khi rời ga Quy Nhơn, các cán bộ không cho chúng tôi mở cửa xe nữa. Nhưng xuyên qua cửa kính, chúng tôi vẫn nhìn thấy dân chúng tụ họp ở sân ga và vẫy chào chúng tôi khi thấy xe lửa đến nơi.

Đến Nha Trang, một thành phố biển nổi tiếng của miền Trung, tàu chạy chậm lại vì đó là giờ tan sở. Hàng ngàn dân chúng đã đứng sẵn dọc theo đường rầy đi qua thành phố. Tin tức loan truyền nhanh hơn tàu chạy! Vài trại viên mở cửa xe ra và thấy cán bộ không nói gì. Chúng tôi đồng loạt mở cửa xe. Dân chúng la hò, vẫy khăn tay, ném quà bánh lên xe, và vài người còn chạy theo xe như là họ nhìn thấy được thân nhân của họ vậy. Ga Nha Trang đầy người. Xe lửa chạy chậm lại. Dân chúng chào đón chúng tôi giống như một “đoàn quân chiến thắng”. Nhà cửa hai bên đường rầy đều bật đèn sáng trưng, và dân chúng thì đứng để đợi đoàn xe đi qua. Dù họ thật sự vui mừng khi thấy chúng tôi hay chỉ là sự tò mò, họ đã gây cho tôi một cảm giác mà tôi không thể nào quên được suốt cả cuộc đời mình!

Xe ra khỏi thành phố Nha Trang khi trời đã tối. Chúng tôi đóng cửa sổ lại để ngủ. Tôi nằm trên sàn xe nghe tiếng bánh xe siết vào đường rầy rồi chìm vào một giấc ngủ say cho đến khi trời hừng sáng. Tàu chạy chậm lại rồi ngừng ở một ga tên là ga “Mường Mán”. Đoàn xe đò đã chờ sẳn ở đó để đón chúng tôi.

Mường Mán là một ga xe lửa nằm trong địa phận tỉnh Phan Thiết, phía Đông Nam của miền Trung Việt Nam. Từ đó đến trại Thủ Đức cũng còn một khoảng khá xa nếu quả thật chúng tôi được đưa về trại Thủ Đức như tin đồn. Tôi nghĩ có lẽ chúng tôi đã bị lừa, và chắc là chúng tôi đang được đưa về một trại nào đó ở miền Trung.

Trạm xe lửa im lìm một cách khác thường. Không thấy một hành khách hay một người bán hàng rong nào. Chúng tôi ngồi trên xe đò chờ đợi cho đến giữa trưa, và rồi đoàn xe chạy về phía Bắc trên Quốc Lộ số một qua thị xã Long Khánh, rẽ mặt vào một nơi khá nổi tiếng trong chiến tranh tên là “Rừng Lá” thuộc chiến khu của Việt Cộng tên là núi “Mây Tào”.

Trại mà chúng tôi đến có bí danh là Z30D và tên thật của nó là trại “Thủ Đức”, không phải là trại “Thủ Đức” ở thị xã Thủ Đức gần Sài Gòn, mà là trại “Thủ Đức” ở Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải. Lúc đó vào khoảng ba giờ chiều ngày 18 tháng Tư năm 1982.

Chương 40-41-42