Chiếm lại con đường, cửa Sập, chiếm lại Kỳ Đài

 

Thủy Quân Lục Chiến VNCH
TRUNG TÁ NGUYỄN VĂN PHÁN


Orange county, CA.USA. Ngày 14/12/2015
(Trích Huế Thảm Sát Mậu Thân 1968 của tác giả Liên Thành.Trang 94-121).

Để độc giả có thể thấy những hy sinh cao cả của quân lực VNCH nói chung và binh chủng Thủy Quân Lục Chiến VNCH nói riêng, đã đem xương trắng, máu đào của họ để bảo vệ quê hương, bảo vệ đồng bào Huế, bảo vệ thành phố Huế. Xin quý độc giả đọc bài tường thuật của người anh hùng Trung Tá Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Phán, kẻ đã chỉ huy trận đánh chiếm lại vùng Tây Lộc, Cửa Sập và Kỳ Đài trong Tết Mậu Thân 1968, Trích :

“Từ Cai Lậy về thủ đô, nhập ngay vào đánh giải tỏa trại Cổ Loa của Thiết giáp và Xóm Mới của Gia Định xong xuôi. Quái Điểu, Tiểu đoàn I Thủy Quân Lục Chiến, về nằm dọc đường Ngô Tùng Châu. Mười hai giờ khuya họp Tiểu đoàn, hai giờ sáng có mặt tại phi trường Tân Sơn Nhứt, bốn giờ sáng lên máy bay bay đi, đi đâu không biết. Đồ khô và tái trang bị không lãnh kịp. Cứ lên phi trường rồi hay. Đó đây những loạt pháo kích, những loạt đại liên rời rạc, những đốm hỏa châu lủng lẳng trên bầu trời. Tôi để lại đằng sau một Sàigòn mang nặng bộ mặt chiến tranh. Những chiếc máy bay C-130 khổng lồ nuốt gọn 800 Quái Điểu và đưa chúng tôi lên cao trong đêm tối mịt mùng.

  • Đi đâu bây.
  • Nha Trang, tao nghe Nha Trang đang có đánh nặng.

Lượm Đại đội trưởng đại đội 1 (dân Nha Trang) trả lời, Tôn Đại đội trưởng đại đội 2 cãi:

  • Đà Lạt.

Phán Phu Nhân nói:

  • Đi đâu cũng được, đổi vùng là khoái rồi.

(Khi vào quân trường, Phán trình diện: Tui chánh quán làng Phú Nhơn, ở gần hồ Tịnh Tâm, quận Thành Nội Huế. Thế là sau đấy, giữa lửa đạn và thịt đổ xương rơi, qua tiếng thét trong máy truyền tin cái tên ngụy trang “Phu Nhân” ra đời nghe thật lạ tai!)

  • Máy bay chi bay mãi ri bây.

Thời tiết xấu và rồi bánh xe phi cơ cũng chạm đất, những cặp mắt đổ đồn ra khung cửa sổ máy bay. Phú Bài! Cơn gió cắt da, bãi cát trắng trải dài, mưa nặng hột. Thiếu áo lạnh, tất cả đều cuốn Poncho, đứng nhìn đoàn người gánh gồng xuôi ngược, hấp tấp và lo sợ, một số về Truồi, một số lên Dạ Lê và An Cựu.

Phú Bài đó, Tịnh Tâm, Cầu Kho đó. Mạ, dì, chị em mình đó mà không liên lạc được. Tình hình không biết sao, ruột như lửa đốt. Trách nhiệm nặng nề, tôi nằm trằn trọc suy nghĩ thật nhiều để chờ sáng mai. Kỷ niệm thời đi học về trong trí tôi, đẹp quá, nhẹ nhàng quá, vụng dại quá.

10 Giờ sáng, đoàn xe GMC đưa chúng tôi về Huế. Qua Dạ Lê, đồng bào hỗn loạn, nét lo âu hiện rõ trên mặt. Tới An Cựu, dân chúng thưa thớt, nhà hai bên đường đóng kín cửa, dọc quốc lộ 1 từ Huế về Phú Bài. Binh sĩ Nhảy Dù từng toán nhỏ dìu nhau âm thầm đếm bước. Những cái nhìn như nhắn gửi như lo sợ giùm chúng tôi.

Mạnh, Đại úy Nhảy Dù cùng khóa cho tôi biết:

  • Huế tang thương và điêu tàn lắm Phán ơi, Thừa cùng khóa chết, Phạm Duy Đà Lạt bị thương…

Mạnh khắp người băng bó, được hai đệ tử dìu về phía phi trường Phú Bài, Mạnh tiếp:

-Phán, mày cẩn thận, không yểm trợ, không thực phẩm, không tiếp liệu, thời tiết quá xấu. Tụi nó chiếm hết thành phố. Đại Nội, Gia Hội. Tụi nó chốt rất kỹ chỉ còn một cái lõm nhỏ ở Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I ở Mang Cá.

Sau này được nghe nói: vì nghe tin Tướng Trưởng bị kẹt nặng, nên đại bàng Lê Quang Lưỡng, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Nhảy Dù đã đưa quân đi bộ từ cây số 17 về Huế để cứu Tướng Trưởng. Tôi xin Tướng Lưỡng cho tôi được nghiêng mình chào một cách đầy kính phục cho cái tình nghĩa huynh đệ không bút nào tả nổi này. Đế đáp trọn tình nghĩa, Lữ đoàn của Đại Tá Lưỡng cũng hao hụt nặng nề.

Đoàn xe dừng lại bên hông đại học Văn Khoa, cách con đường là trường Trung học Kiểu Mẫu vừa mới xây, đối diện là đài phát thanh Huế. Và trước mặt là cầu Tràng Tiền, chiếc cầu tượng trưng cho xứ Huế, chiếc cầu đã hàng ngàn, hàng vạn lần qua lại, đầy ắp kỷ niệm.

Nhìn qua chợ Đông Ba và phố Trần Hưng Đạo mà lòng quặn thắt. Một mái chợ đã sập, những cột khói ngút trời cách khoảng. Những cột khói khác vươn lên…Cả thành phố đã chết. Huế tôi tang thưong đến thế sao? Một nhịp cầu đã sập, tôi nghĩ vành khăn tang trắng đã cuốn lấy Huế.

Xuống tàu tại chân Cầu Tràng Tiền, xuôi dòng sông Hương xanh biếc qua Gia Hội, quẹo trái sông Hàng Bè, cầu Đông Ba đó, có tiệm La Ngu ngày xưa chúng tôi thường mua dụng cụ học trò. Tiếp tục xuống ngang tiệm gạo mụ Đội, có người con gái đẹp não nùng tên Xuân, mà con trai Huế lứa tuổi tôi đều hơn một lần đi qua đó để nhìn người con gái trời cho đẹp. Đến Bao Vinh, dân chúng nhớn nháo khi thấy một đơn vị lớn đang đổ bộ tại bến đò.

Tôi hướng dẫn đơn vị vào Mang Cá nhỏ để tới bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Địch chào đón bằng hàng loạt hỏa tiễn 107 và 122. Tất cả nằm sát vào bờ tường để tránh pháo và tìm chỗ phòng thủ. Tôi cho lệnh Sự, Trung Úy Đại đội phó kiểm soát con cái và chuẩn bị cơm chiều. Trung úy Sự là sĩ quan trẻ, có tài và đầy nhiệt huyết, xuất thân khóa 19 Võ Bị Đà Lạt, thủ môn hội tuyển Nha Trang, đúng là đa năng đa hiệu. Tôi dự buổi họp Tiểu Đoàn khẩn cấp và quan trọng, tiểu đoàn trưởng ra lệnh:

  • Phu Nhân rành địa thế dẫn đầu, 8 giờ sáng mai xuất phát. Kế tiếp là Tôn đại đội 1, Lượng đại đội 2 . Tiếp đến là Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn cùng đại đội chỉ huy, sau cùng là Tòng đại đội 4.

Mục tiêu Phu Nhân phải chiếm là trường tiểu học Trần cao Vân. Trước trường có thành Quân Cụ, vào khoảng 1 đại đội ta đóng tại đó, không biết còn hay mất. Phán hỏi:

  • Còn phi trường thành nội thì sao? Tình hình trong Đại Nội, Thiếu tá có nắm vững không?
  • Không rõ, tụi nó chiếm hết, chốt rất kỹ. Tất cả các cửa thành nội tụi nó đều chiếm và chốt rất kỹ. Cửa Hữu, cửa Chánh Tây, cửa Sập, Cửa An Hòa, cửa Đông Ba, Kỳ đài Phu Văn Lâu…tụi nó đều chiếm hết.

  • Trong óc tôi, 1 bản đồ chi tiết hiện ra rất rõ cho một cuộc hành quân, mà tình hình tôi nắm không được vững. Tôi cố tìm một con đường ngắn, an toàn cho đơn vị để tới mục tiêu. Có rất nhiều đường đưa tới đường Trần Cao Vân, nơi từ 9 đến 19 tuổi tôi đã bao nhiêu lần đi lại. Con đường nào cũng đầy hoa và mộng. Nay tôi đang tìm một con đường không có máu để cho anh em chúng tôi đi.

    8 giờ sáng, tất cả đã gọn gàng, sẵn sàng di chuyển. Ba trăm thước đường từ Mang Cá đến nhà tôi sao quá dài. Bồn chồn, nóng ruột vì nơi đó có mạ tôi, dì tôi, chị tôi, và em trai út của tôi đang trông ngóng. Không biết có bị gì không ? Thiếu úy Duật Trung đội trưởng trung đội dẫn đầu. Duật xuất thân khóa 21 Đà lạt, hăng say, gan, thích xóc đĩa và gái đẹp, uống rượu rất ít, chỉ phá mồi. Phan và BCH kế tiếp, Thiếu úy Nghênh, trung đội trưởng trung đội 1 tiếp theo. Nghênh kinh nghiệm, gan lì, thích đánh phé nhưng đánh nhỏ, rượu rất ít và không thích gái. Sau cùng là Thượng sĩ Hải, trung đội trưởng trung đội súng nặng. Hải người Nùng, lì lợm già chiến trường, không rượu, không gái, không thuốc lá.

    Hai bên đường dân chúng đứng chen chúc, vẻ mặt hớn hở thật tội nghiệp cho họ. Lần lần những khuôn mặt quen thuộc hiện ra, những cánh tay vẫy chào, nào mụ Đội Dậu, mụ Ba, ông Sung, ông Dung, anh Thiên chủ bàn Ping pong…Những tiếng nói đó đây: “Anh Phán đó tề! anh Phán”, tiếng gọi lớn và lan dài suốt con đường tôi đi.

    Con hẻm sát bên hồ Tịnh Tâm là đường vô nhà tôi, mạ tôi đó, di, chị và em tôi đó. Xao xuyến quá! Tôi đi nhanh đến ôm Mạ tôi, dì và chị tôi khóc như mưa, thằng em luống cuống chạy quanh, bị Mạ tôi nạt: “Mi chạy vô lấy khúc cá kho khô và đòn bánh tét gói lại đem ra đây bới cho anh mi”. Mạ tôi dụi vào tay tôi chai dầu Nhị Thiên Đường “Con xức cho khỏi gió”. Lính đi ngang hỏi nhau “Mạ Đại Úy sao đầu trọc lóc như vậy bây”. “Bà ấy đi tu để phước cho con, tụi mình cũng được hưởng ké đấy”. Phán và âm thoại viên vẫn còn dừng lại: “Nhà mình có răng không mạ? Bà con thân thuộc có ai bị chi không?”. Nhà ông Quế chủ quán Chiêu bị trúng 2 trái, nhưng người thì không răng. Nhà mình bị ngói đổ một góc, cây đào bị gãy ngọn. Còn thằng Chi không biết đi mô. Chi là bạn tôi xuất thân khóa 17 Võ Bị Đà Lạt. Tôi xót xa đắng miệng:

    • Thôi con đi. Mạ và gia đình đừng lo cho con.

    Mạ tôi khóc òa, tôi thật não lòng. Những tiếng gọi anh Phán, anh Phán, tiếp tục vang lên cho đến giữa hồ Tịnh Tâm.

    Tiếng gọi, giọt nước mắt và những cánh tay chào vẫy, phải chăng nhắc nhở trách nhiệm của tôi, bây giờ là lúc đền đáp ơn sâu nghĩa nặng. Vinh dự này thật khổ. Máu nóng sôi trong người, tôi và hai âm thoại viên vượt lên đi với Trung đội đầu. Cuối hồ Tịnh Tâm là đường Tịnh Tâm, tôi cho lệnh quẹo tay mặt theo đường lên nhà ông Ngự Đạt. Như vậy bên hông mặt của con cái tôi lúc nào cũng có bức thành và cái hồ che chở. Cuối đường Tịnh Tâm quẹo trái là trường Tiểu học Đoàn Thị Điểm, nhưng tôi không đi con đường này. Tiếp tục thẳng qua một con hẻm nhỏ, con đường đã bao lần đi lại, nào ăn cắp me, nào ăn trộm sấu, nào hái xoài, nào đào sen, nào học thi, nào thăm người yêu…,con đường nào cũng nhắc tôi bao kỷ niệm yêu dấu không quên.

    Đến Canh Nông, chưa thấy phản ứng nào của địch, gần sân bay Tây Lộc dân chúng thưa thớt và kinh hãi. Tôi cho dừng quân bên này đường, một ông già mách:

    • Con đường ni bị bắn rất rát, từ trong cửa Hòa Bình Đại Nội bắn ra.
  • Còn sân bay thành nội ra sao ôn, có ai không ?

  • Đánh nhau mấy ngày ni dữ lắm, mà tui cũng không biết răng, không biết mình hơn hay thua nữa.

  • Tôi chỉ con đường và hướng dẫn Duật :

    • Băng qua khỏi con đường này, đến một xóm nhà, qua 1 cái cổng thì bên trái là thành Quân Cụ. Nghênh và Mã Khện yểm trợ hông mặt cho Duật, và sau đó băng qua đường theo tôi.

    Con đường chỉ có 5 thước mà hơn 1 giờ mới vượt qua với 6 thằng em rớt rụng trên mặt đất. Lần theo mép đường tới sát ống cống, tôi cho dừng lại, phi trường vắng tanh, tôi bảo Duật :

    • Mày cho một thằng con nhỏ qua trước làm đầu cầu bên kia ống cống, chờ đó cho tất cả con cái mày qua rồi vào thành Quân Cụ, chờ tau lên.

    Thành Quân Cụ cao khỏi đầu người, không liên lạc được với người bên trong. Tất cả con cái nằm sát thành để tôi và đám cận vệ bò tới cổng chính. Loáng thoáng thấy nón sắt, field jacket, giây ba chạc. không phải tụi nó đâu, chắc chắn là bạn rồi, thằng đệ tử tôi gọi lớn “Ê Thủy Quân Lục Chiến đây”. Một loạt đạn bay qua khỏi đầu một cách rùng rợn. Bò lết vào tới trong đồn, ông đồn trưởng nói tiếng Huế đặc sệt, ông Trung úy Cát, thủ môn nỗi tiếng của Huế :

    • Đại Úy ơi, bảy ngày không ra nổi, nó bao hết, trường Trần Cao Vân, Đại Nội, xóm nhà Bảo sanh, sau lưng trường cách một cái hồ tụi nó cũng chiếm luôn. Dân chúng chạy hết rồi không còn ai cả. Tụi nó pháo liên miên, không cho ngóc đầu, đủ loại cối 61, 82, hỏa tiển 107, 122. Tôi ráng cố thủ ở đây được ngày mô hay ngày nấy, còn ngoài nớ tôi không liên lạc được nên không biết tình hình các nơi khác ra răng.

    Tôi trở ra báo cáo về Tiểu đoàn. Lệnh của Tiểu đoàn trưởng :

    • Phu Nhân chiếm cho bằng được trường Trần Cao Vân, dọn sạch chung quanh. Tiểu Đoàn Trưởng và Bộ Chỉ Huy sẽ lên ở trại Quân Cụ.

    Quan Sát địa thế thêm một lần nữa, trước mặt trường là cái am lên đồng, bên cạnh là quán hớt tóc lợp tranh, chỉ có một ghế ngồi, sát đó là ngã ba đường chạy lên cửa sập, một chạy về trường Đào Duy Từ, và một chạy đến trường Trần Cao Vân. Có bốn năm cái đầu lố nhố bên trong trường.

    Duật phải chiếm am trước, trong trường bắn ra mãnh liệt, có cả B40. Tôi ra lệnh Nghênh và Mã Khện cầm chân hỏa lực trong trường học. Duật chiếm xong am không một tổn thất. Tôi gọi Thượng sĩ Hải đem hai đại liên và một 57 không giật lên tăng cường cho Duật, để Duật yểm trợ cho Mã Khện vào trường. Sau 45 phút dùng mưu kế cùng với hỏa lực và sự gan dạ, kinh nghiệm, Mã Khện đã chiếm được một lớp học của trường, Nghênh tràn vào cùng với Mã Khện lục soát và làm sạch sẽ.

    Hỏa lực từ góc Thành Nội đổ dồn về phía trường học, không sao, đã có thành của các lớp học che chở. Tôi kêu Sự :

    • Pháo binh có chưa, kêu về đại bàng Thanh Hóa cứ bắn vào góc thành cho tau. Đến chiều vẫn không có một trái pháo bắn, anh em tôi có 7 đã lót đường cho mục tiêu, và 3 bị thương nặng. Tôi lên sát Duật và bảo đem cây 57 đến :
  • Nhắm ngay vào góc thành, tụi nó bắn rát quá cứ phơ cho tao, trật trúng gì không cần, chỉ cần tiếng nổ.

  • Qua một vạt đất trống, trong một ngôi nhà gạch có bóng người lấp ló, Duật quay 57 nhắm thằng :

    • Nhột quá , cho em bung cái nhà này đi.

    Tôi bỗng thấy có bóng đàn bà, tôi la lớn:

    • Khoan bắn, nhà thầy Tiềm.

    Tôi băng qua đám đất trống đến gặp cô và các cháu. Không thấy thầy, tôi chào cô và giới thiệu tôi học sử địa trong trường Bồ Đề với thầy và khuyên cô về dưới phố. Tôi trở lại vị trí mà lòng nao nao buồn. Giờ này vẫn không có pháo làm sao khóa góc thành đó lại. Duật bảo con cái đào hầm cho kỹ tôi dặn : -“Mày cố thủ tại đây cho Tiểu Đoàn lên”. Rồi cùng đám đệ tử lúp xúp chạy đến tiệm hớt tóc để quan sát ngã ba đường và góc Thành Nội, chợt nghe tiếng đàn bà rên la quằn quại, sau cùng chỉ còn tiếng rên nho nhỏ. Nơi góc quán tối tăm, một người đàn bà máu me khắp nửa thân thể, vừa bị thương nặng, lại vừa sanh ra một bào thai lờ mờ tượng hình đứa bé trông giống như con rắn mối. Xót xa, chịu không nổi, tôi ra lệnh đem chôn đứa bé đã chết và chuyển người mẹ về đồn Quân Cụ cho bác sĩ Tựu giúp.

    Đến đây 13 người chết, và 3 bị thương nặng để trải thảm cho đơn vị.

    Tối đó, Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn đến trại Quân Cụ. Sáng hôm sau, Tiểu đoàn trưởng cho Đại đội 2 của Tôn, và Đại đội 1 của Lượm, dưới sự chỉ huy của đại ca Đã, Tiểu đoàn phó, chiếm nhà Bảo Sanh. Đoạn đường có 30 thước, cách một hồ nhỏ mà phải trả bằng 50 đứa con thân yêu, sau 8 tiếng đồng hồ mới chiếm được nhà bảo sanh. Tôn bị thương ngay từ phút đầu, Lộc Đại đội phó lên thay.

    Mười ngày tiếp theo, nhìn nhau qua một con đường vừa đủ xe chạy mà hai bên đều khựng. Mưa vẫn rơi, ray rứt, lê thê, thỉnh thoảng cơn mưa gió thật lạnh thổi qua. Có những trận tấn công chớp nhoáng của địch vào đại đội của Lượm và Lộc, đều bị đánh bật lui. Ngược lại, ta cũng nhiều lần cố tràn qua bên kia, nhưng không chiếm được một tấc đất. Hai bên tải thương đều thấy nhau rất rõ, Lượm bị hao hụt nặng, Phu Nhân lên thay.

    Tôi và con cái bò lên từng toán một, địch và ta đã sát nhau, ngóc đầu lên là đạn xuyên qua mũ sắt ngay. Hơn nửa ngày mới trám hết vị trí của Lượm. Lượm và Tòng về phòng thủ cho Tiểu Đoàn. Tối đến pháo địch đủ loại nổ vang trời. Xác chết của anh em nằm trên mặt đường mà không lấy được. Phía bên kia 4, 5, xác địch vẫn để yên, tụi nó không dám ra lấy về. Cố giữ đất, giữ vị trí và làm vài cuộc tấn công nhỏ vẫn không qua đường được.

    Từ căn nhà hai tầng cuối nhà Bảo Sanh, một thượng liên và một trung liên nồi của tụi nó kiểm soát con đường rất kỹ, dưới sự chỉ huy của một đứa con gái mặc áo choàng màu xám, tóc xõa dài, nhưng không thấy rõ mặt. Tay đứa con gái chỉ tới chỉ lui thì đạn nổ dồn về hướng đó. Tôi nhắm bắn 2 phát M16 nhưng hụt, nó trốn nhanh vào sau cửa và mất luôn.

    Hai mươi ngày nằm chịu pháo và bị bắn sẻ, tối nào hai bên cũng rà máy và chửi nhau. Theo dõi máy, đột nhiên tôi bắt được một câu báo cáo “Bồ câu hết thóc!’, và suy nghĩ địch quân đang hết đạn. Nếu cứ nằm như thế này, một lúc nào đó địch quân chỉ cần ho thật to mình cũng mất vị trí ngay, chỉ vì áp lực quá nặng nề, tổn thất nhiều, tinh thần anh em quá mệt mỏi. Tôi đi đến kết luận riêng :“Nếu minh không đánh nó, chắc chắn nó sẽ tấn công mình”. Tôi trình với tiểu đoàn trưởng :

    • Thiếu Tá cho tôi luôn hai thằng để tôi tấn công tụi nó, tôi thấy tinh thần anh em xuống quá, và sức khỏe càng ngày càng hao hụt.

    Thiếu Tá tiểu đoàn trưởng không cho, bắt ráng giữ vị trí. Phu Nhân năn nỉ:

    • Nếu không thì cho tôi đột kích, tôi cùng vài toán nhỏ tràn qua đường đánh đột kích rồi về. Mình phải chứng minh cho địch quân thấy mình còn dư sức ăn thua đủ, thời địch không dám tấn công mình.

    Tiểu đoàn trưởng nói:

    • Làm kế hoạch xong cho tôi hay.

    Tại hầm của tôi anh em đang chờ họp gồm: Lộc, Đại đội trưởng đại đội 2. Sự, Đại đội phó của tôi, Duật, Nghênh, và Mã Khện. Tôi nói:

    • Nằm chờ lâu tao chán quá, chỉ muốn qua đột kích tụi nó rồi rút về.

    Tất cả im lặng tôi nói tiếp:

    • 4 giờ sáng mai mình đột kích. Nếu giữ được vị trí, tao cho tràn luôn. Bây giờ tao chọn 4 toán. Toán 1: Phán, Điểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy. Toán 2: Duật và 3 người thật nhanh và gan dạ. Toán 3: Nghênh và 3 người. Toán 4: Thượng sĩ nhất Hải, và 3 người trang bị thật nhẹ, mỗi người 20 quả lựu đạn và 2 băng đạn cong ráp ngược cho M16. Sự và Lộc dẫn con cái ra sát bờ tường, khi thấy khói xanh thì lùa tất cả tràn qua, nếu thấy khói màu vàng thì yểm trợ tối đa cho tụi tao dọọc về. Sự và Lộc về lo cho con cái.

    Đúng 4 giờ sáng có mặt tại vị trí.

    Duật, Nghênh và Hải ở lại, tôi nhìn anh em thật lâu rồi cho biết:

    • Tao theo dõi tụi nó báo cáo qua máy, hình như tụi nó thiếu đạn, do đó tao quyết định cuộc đột kích hôm nay.

    Tôi nghiêm mặt và lạnh lùng nói:

    • Hai ông Duật và Nghênh tôi chỉ định phải đi với tôi, riêng ông Hải tôi cho ông suy nghĩ lần nữa. Lần này đi khó trở về, ông con cái đông, muốn ở lại vị trí tôi cho phép, và tôi hứa rằng, tôi không nghĩ ông thiếu can đảm.

    Suy nghĩ một lát, Thượng sĩ Hải trả lời:

    • Đại úy cho tôi ở lại vị trí.

    Tôi vui vẻ bằng lòng và gọi Mã Khện đến, Mã Khện đồng ý đi và xin đem theo Hạ sĩ nhất Mười. Tôi tiếp:

    • Bây giờ các ông về chọn người xong lên gặp tôi.

    Tôi ngồi suy nghĩ miên man, liều, phải liều mới cứu được đơn vị.

    4 giờ, các toán trưởng lên gặp tôi có cả Trung úy Sự . Tôi hỏi lần chót:

    • Có ai xin ở lại, cho tôi hay.

    Không ai trả lời, tôi căn dặn Sự, nhắc Lộc khi thấy khói xanh thì sao, khói vàng thì sao, phải nhớ kỹ. Tôi đưa 3 toán trưởng bò đến hầm của nhóm tiền đồn ở sát ngã tư đường. Tôi chỉ từng căn nhà bên kia đường:

    • Cái thứ nhất gần ngã tư là mục tiêu của tao, cái thứ hai có hàng rào là của Nghênh, căn thứ 3 cũng có hàng rào và cây nhãn cao là của Mã Khện, căn thứ thứ 4 có mấy bụi chuối lớn là của Duật. Tất cả hãy quan sát cho kỹ và chọn một con đường tiến quân thích hợp, không cần báo cáo, miễn sao cho thích hợp thôi.

    Tôi tiếp tục quan sát mục tiêu của tôi, căn nhà bằng gạch có nhà trên nhà dưới, kế đó là cầu tiêu xây bằng đá lợp tôn, sát đường là cái giếng xây bằng xi-măng. Trước sân có hai cây vú sữa cao và sai trái. Tôi biết phải làm gì để chiếm căn nhà đó, tôi quay lại nói :

    • Lần chót tôi hỏi các ông có ý kiến gì không? Đúng 4 giờ sáng mai tôi sẽ chiếm trước, sau đó tùy các ông bằng mọi cách, phải hốt cho bằng được các mục tiêu tôi ấn định.

    Tôi trở lại vị trí, đặn dò Điểu, Can, Việt , Dư và Phúc mang máy:

    • Tối nay miễn gác, 3 giờ sáng gặp tao ở đây.

    Sau đó tôi gặp Tiểu đoàn trưởng để trình bày kế hoạch, ông nói:

    • Nguy hiểm quá, không được, chết cả lũ.

    Tôi nói:

    • Nếu Thiếu tá không làm bây giờ, một vài ngày nữa, tụi nó chỉ cần ho là lính mình chạy hết.

    Cuối cùng ông chấp nhận:

    • Nhớ là có gì thì trở về liền, càng sớm càng tốt.

    Tôi dạ nhưng trong đầu tôi nghĩ khác. Trước mắt tôi bây giờ không có gì ngoài đoạn đường từ tiền đồn qua cái giếng, lên cầu tiêu, tới nhà dưới, chiếm nhà trên. Tôi nằm suy nghĩ miên man cho đến 3 giờ sáng.

    Trước khi bò ra tuyến xuất phát, tôi nhắc Sự và Lộc một lần nữa cho chắc ăn, 4 giờ kém 10 sáng, toán tôi có mặt ở tiền đồn. Trời vẫn mưa, mưa ở xứ Huế có dư âm của ngày Tết. Trời tối không thấy gì, tôi ngại bắn lầm nhau, gắng chờ một chút nữa, đến 5 giờ sáng mưa vẫn không tạnh, trời vẫn còn tối mù. Năm giờ rưỡi, cái giếng đã nhìn thấy được. Chuẩn bị, tôi cảm thấy hồi hộp. Chỉ cần 4 cái nhảy vọt là qua bên kia đường, nhưng khó như đi lên trời, vì con đường này là con đường tử thần làm ranh giới bên ta và bên địch, và 20 ngày trời không nuốt nổi một thước đất. Rách bao nhiêu cũng không qua được. Bây giờ mình cắt băng khánh thành, phải làm để cứu đơn vị, phải hy sinh để cứu đồng đội. Vừa suy nghĩ xong tôi phóng vụt qua bên bờ giếng, kế tiếp là Điểu, Việt, Can, Dư băng theo. Tất cả ngồi ôm thành giếng, mồ hôi ra như tắm, dù trời lạnh như cắt. Điểu và Cam chiếm cầu tiêu, bỗng một loạt đạn nổ dòn và thật gần, tôi quay nhìn ra đường, Phúc và cái máy nát mình nằm trên mặt đường nhựa, dưới làn đạn mịt mùng của địch. Tôi thét lớn:

    • Dư, Việt, chiếm nhà bếp.

    Tôi theo sát lên cầu tiêu, bên cạnh Điểu và Can. Súng và pháo nổ dồn dập, một B40 nổ ngay trên đầu mái tôn cong, cả ba thầy trò đều bị miểng nhỏ đâm đầy mặt, tóc râu và lông mày đều bị cháy. Cầu tiêu nhỏ quá, nên tôi cùng Điểu và Can lên nhà bếp. Tôi ra lệnh:

    • Điểu và Dư chiếm nhà trên, lục soát thật kỹ.

    Để Việt ở lại, tôi và Can cũng lên nhà trên, Điểu và Can giữ cửa chính nhìn ra sân, tôi và Dư giữ cửa sổ nhìn ra sau vườn có nhiều luống khoai lang.

    Trời sáng hẳn, tôi lắng tai nghe nhà bên cạnh, chẳng có gì cả, bèn bò trở ra bờ giếng và thấy Nghênh, Duật, Mã Khện vẫn còn bên kia đường. Tôi toát mồ hôi, tôi nhìn thẳng vào mấy ông rất nghiêm và lấy ngón tay ngoắc. Tôi không dám gọi lớn, mấy ông kia gật đầu. Tôi bò trở lên nhà trên. Lựu đạn, súng nhỏ, súng lón, nổ khắp nơi, và nhất là phía bên tay mặt tôi. Tôi biết rằng con cái tôi đã băng được qua đường. Tôi hỏi khẽ :

    -Thấy gì không Dư ?

    Dư lắc đầu. Tôi nghe tiếng thì thào sát vách tường phía ngoài, tôi đoán 7, 8 người đang ở trong một cái hầm, tôi dùng ngón tay đẩy nhẹ cửa sổ. Một loạt đạn từ phía nhà đối diện xuyên ào, ào vào cửa sổ. Bỗng Dư chỉ tay về phía các luống khoai. Tôi đếm đủ 11 người đang bò qua, Ka Ki Nam Định, súng AK và B40, cách vách tường khoảng 20 thước. Tôi đưa súng lên định bóp cò thì Dư kéo lại ra dấu đừng bắn, dùng lựu đạn. Tôi dựng cây súng xuống thật nhẹ, hai tay rút hai trái lựu đạn miệng cắn chốt, Dư cũng thế, 4 trái lựu đạn ném ra cùng một lúc, tiếng nổ xé trời, rồi 4 trái tiếp theo. Bên ngoài tường, tiếng thét lớn rồi tiếng rên và sau đó là im lặng, tụi còn lại, bò sát vào chân tường. Nhìn ra cửa, 5 xác còn nằm vắt trên luống khoai. Một loạt đạn nổ và tôi nghe:

    • Chết em, Đại úy.

    Tôi sững sờ nhìn Dư, tay trái ôm ngón út của bàn tay mặt đầy máu, ruột của Dư đổ ra lòng thòng. Dư ngã vật ra chết tại chỗ. Nơi Dư đứng có một lỗ hổng nhỏ ở vách tường. Vì mãi nhìn qua cửa sổ mà không để ý ở phía dưới. Nguyên một họng AK thọc qua lỗ tường để sát vào bụng Dư và nhả đạn. Tôi bắn một loạt M16 ra cửa sổ, và cứ thế, hết quả này đến quả khác, tôi ném tất cả lựu đạn của tôi ra ngoài bờ tường. Hai thằng em đã hy sinh, còn 4 thấy trò phải giữ vững vị trí. Phía bên tay phải tôi, súng vẫn nổ dữ dội. Đến 10:30 sáng tôi cho Điểu liên lạc với Nghênh, Duật và Mã Khện. Điểu băng người ra đi, bốn căn nhà cách nhau 10 phút đi bộ, hơn một tiếng đồng hồ sau Điểu mới về, báo cáo là tất cả đã chiếm được mục tiêu. Có đoạn đường nào xa và xấu hơn đoạn đường tôi đang đi !

    Toán của Duật, 1 chết, 1 bị thương. Toán Mã Khện 2 chết. Toán Nghênh, 1 chết, 1 bị thương. Tất cả là 6 chết, 2 bị thương. Chúng tôi còn 11 người tại tuyến.

    Điểu bò ra giếng, cố đem qua cho tôi một cái máy. Cột máy vào một đầu dây và quăng đầu dây kia qua cho Điểu kéo. Can mở máy, tôi liên lạc với Tiểu Đoàn Trưởng :

    • Tôi sẽ cho tràn ngập vị trí với 2 thằng của Lộc và thằng 3 của tôi.

    Đại bàng hỏi :

    • Tại sao từ sáng đến giờ không chịu liên lạc với tôi ? Tôi ra lệnh rút về ngay.

    Phán nài nỉ :

    • Đây là dịp may, tinh thần anh em đang lên, tôi xin Đại bàng cho làm luôn.

    Đại bàng Thanh Hóa nói bằng bạch văn không ngụy trang :

    • Nếu anh không rút về, tôi sẽ đưa anh ra tòa án quân sự.

    Khí giận bừng bừng, tôi tắt máy không trả lời, trên tay vẫn cầm trái khói xanh. Suy nghĩ thật kỹ! Suy nghĩ thật kỹ! Hơn mấy giờ để đánh mục tiêu, 4 căn nhà và một con đường ngập máu. Mưa vẫn lạnh như cắt da, và mồ hôi tôi vẫn ra như tắm. Cuối cùng tôi đành bảo Điểu chuyển lệnh cho các toán:

    • Rút về ngay, mạnh toán nào rút toán đó, không chờ đợi. Mang thương binh theo, xác chết bỏ lại.

    Năm thước đường, đi đã khó về còn khó hơn. Mỗi bóng người nhúc nhích là đạn nổ hàng loạt, liên hồi, đạn bắn chéo bốn phía, đạn lưới thật dày trên mặt đường và khắp vị trí. Làm sao trở về đây! Con cái bên kia đường đưa mắt theo dõi. Toán tôi bò ra giếng, bỗng mấy bóng đen vụt qua đường như sao sẹt, nhào vào bờ và được anh em kéo ra sau. Đạn nổ dòn tan cày nát mặt đường. Đây là mấy đứa bị thương nặng, tưởng là di chuyển không nổi, nhưng khi nghe lệnh rút, chúng thu hết tàn lực vùng chạy về chớp mắt không kịp thấy.

    Hỏa lực ba phía nổ vùi vào vị trí chúng tôi, các toán đột kích không còn liên lạc với nhau, Điểu và Can vẫn giữ căn nhà. Địch kiểm soát con đường bằng mấy cây thượng liên và trung liên, chúng bắn liên miên. Bên kia đường, Sự và Lộc đáp lễ bằng hỏa lực cơ hữu của Khăn Tím và của 2. Tôi lấy chân đạp vào thành giếng phóng người băng qua đường, lăn mình, nhảy, chạy và té ào vô bờ lề. Anh em kéo vôi tôi vô sau, tôi dừng lại bảo Lộc và Sự bắn từng loạt một để tụi nó dzọt về. Nhìn thấy Việt ngồi thành giếng trố mắt ngó về mà tội nghiệp. Sống và chết cách nhau có một con đường. Tôi hồi hộp xót xa cho mấy thằng em, tôi vừa quay mặt thét:

    • Bắn kèm mấy cây thượng liên.

    Thì những bóng người bay dzọt qua đường, tim tôi thắt lại, đạn nổ mịt mù. Lần lượt tôi gặp Nghênh, Duật, Mã Khện và tất cả anh em.

    Tôi ôm ghì từng đứa, tụi nó còn sống cả, Can và Việt nhào đến ôm tôi một cách dữ dội, đậm đà trìu mến, lính với tay sờ người nắm nhẹ áo tôi :

    • Đại úy, tóc râu Đại úy cháy hết rồi, mặt bị nhăm nhiều chỗ.

    Cả đại đội bất chấp đạn địch, đứng dậy nhìn nhau hãnh diện sung sướng. Tôi báo cáo Tiểu Đoàn :“Tất cả đã về vị trí”. Bỗng tôi thấy thiếu một cái gì, tôi nhìn Can và Việt hỏi :

    • Thằng Điểu đâu ?

    Tụi nó nói: “lần cuối chúng em thấy nó vừa khóc vừa chạy lung tung tìm xác Đại Úy ở bên ấy”.

    • Thôi chết tao rồi, tao phải cứu nó, hai thằng bây theo tau.

    Tôi, Can và Việt bò trở ra đường. Bỗng nhiên một bóng người nhảy qua khỏi hàng rào, nhảy qua khỏi miệng giếng phóng nhanh qua đường, nhào lăn rào rào vào vị trí la lớn:

    • Ê, tui bây thấy anh Hai đâu không?

    Điểu đứng dậy nước mắt đầm đìa, tôi lao đến ôm Điểu:

    • Tao định qua kiếm mầy đây.
  • Trời anh Hai, tụi nó nói anh Hai chết rồi, em đi lục hết căn nhà mấy chục lần, chỉ không dám ra ngoài hè, mà không thấy xác anh Hai đâu. Hôm qua Mạ có dặn nhỏ với em, phải sát cánh bên anh Hai, nếu có gì thì cũng phải nhớ đem anh Hai về cho Mạ…

  • Tóc tai, mày, râu ria Điểu cháy nám, áo quần rách bươm, nó khóc mùi mẫn vì thấy tôi còn sống. Rồi nó lại bẽn lẽn cúi đầu, hai hàng nước mắt lã chã rớt xuống đất. Trong một cuộc chiến bạc bẽo lại có một chút tình nghĩa trao nhau qua mấy giọt nước mắt nóng hổi.
    6 giờ chiều, xuống trình diện Tiểu đoàn trưởng, ông nói ngay:

    • Ông làm những chuyện nguy hiểm quá, lỡ kẹt bên đó thì nói làm sao với Lữ Đoàn?”

    Tôi dạ dạ, vâng vâng cho qua rồi nghiêm mặt đề nghị :

    • Thưa Thiếu tá, ngày mai cho tôi tấn công, tôi tin chắc sẽ tràn ngập vị trí tụi nó. Cho tôi thêm 2 thằng của Lộc, để 1 thằng của Lượm đi sau thu dọn chiến lợi phẩm. Chỉ xin Thiếu tá cho tôi hai chiếc tank kèm 2 bên hông của tôi. Ông hỏi:
  • Có chắc ăn không Phán?

  • Tôi cương quyết:

    • Chắc, và nếu tràn được vị trí, Thiếu Tá cho phép tôi đánh thẳng lên Kỳ Đài nếu kịp thời gian. Theo tôi, Tiểu Đoàn trưởng nên trình lên ông Già Hự (Đại tá Đàm Quang Yên Tư Lệnh Phó).

    Ông Già chấp nhận.

    Tôi trở về họp các Trung đội trưởng:

    • Ngày mai 8 giờ sáng, Đại đội 3 Khăn Tím bên trái, đại đội 2 của Lộc bên phải, dàn hang ngang, lấy con đường bên cửa Sập làm chuẩn, tiến song song. Sau khi 2 chiếc tank yểm trợ bằng hỏa lực xong, cả hai Đại Đội xung phong tràn ngập, vượt qua mỗi chốt thật nhanh, không cần thâu lượm chiến lợi phẩm, để cho Đại đội 1 đi sau làm chuyện đó. Tất cả balô và đồ ăn để lại, trang bị thật nhẹ, khi tới xóm nhà sát cửa thành thì chờ tôi.

    Đúng 8 giờ sáng ngày hôm sau, dàn quân, hai chiếc tank Ontos hạng nặng tiến lên, mỗi chiếc trang bị 6 cây đại bác 106 ly. Tôi chỉ vị trí cho 2 trưởng xa người Mỹ, rồi ra lệnh khai hỏa. Hy vọng 12 cây 106 này sẽ san bằng mục tiêu trước mặt cho con cái tôi được dễ dàng đôi chút. Nhưng mỗi chiếc tank chỉ bắn một phát đạn duy nhất, rồi chạy lùi biến mất, không biết chạy về đâu. Tôi hết hồn, quân đã dàn xong, bắt buộc tôi phải ra lệnh xung phong. Tôi hét thật lớn, hét khản cả cổ: XUNG PHONG ! Cả một đoàn quân, dàn hàng ngang, không một ai nhúc nhích. Con đường trước mặt, con đường của 21 ngày máu và nước mắt, con đường tráng nhựa đẹp đẽ, nhưng băng qua là đi vào cõi chết. Tôi tức giận chửi thề lung tung, rồi chụp cây đại liên M60 của một người lính bên cạnh, bắn một loạt dài, rồi một mình tôi vừa bắn, vừa băng qua đường cùng với toán cận vệ: Can, Việt, Điểu và 2 thằng mang máy. Qua khỏi đường xông tới trước, tiếng đại liên của tôi nổ dòn. Đúng lúc ấy cả đoàn quân hô xung phong và ào qua đường. Sau đó đoàn người vượt nhanh qua mặt tôi và lướt tới trước. Súng nổ vang rền, đoàn quân tiến đều. M16 bắn vãi vào chốt, lựu đạn ném vào chốt, đạp chốt, băng chốt, lướt qua, cố giữ đội hình. Tiếng nổ inh tai liên tục, đàn áp thật mãnh liệt và chạy tới trước. Đến 3 giờ chiều, chúng tôi đến xóm nhà sát cửa Sập. Tôi ra lệnh:

    • Mỗi ông cho tôi 1 toán 10 người, băng thật nhanh đến áp sát mặt thành xong, ngồi xuống. Toán kế tiếp chạy đến leo lên vai toán thứ nhất để toán này đổ dồn lên thành. Khi bám được mặt thành thì tác xạ tối đa và bằng mọi cách giữ vững vị trị làm đầu cầu.

    Con cái tôi hành động đẹp còn hơn tài tử xi nê. Tiếng đạn lớn, nhỏ nổ rền, hai toán lên thành chiếm xong vị trí.

    Tôi cho con cái đem bàn ghế ra chất sát tường và leo lên ngay. Tiếng đạn và pháo địch vẫn mãnh liệt trên nóc thành, phải khóa lại.
    Một chặng đường xương máu đã vượt qua, bây giờ mục tiêu chính, mục tiêu của niềm hãnh diện, mục tiêu của ơn sâu nghĩa nặng: Kỳ Đài Huế.

    Đây là nơi tượng trưng linh thiêng của dân tộc nói chung, và cho Huế nói riêng.

    Duật và 20 người tiến chiếm 6 cây súng thần công to lớn, từ đó Duật dùng hỏa lực kềm địch ở cửa Ngọ Môn, yểm trợ cho Nghênh và Mã Khện chiếm Kỳ đài.

    Phản ứng của địch bắt đầu yếu, 5 giờ 12 phút chiều, màu áo rằn ri Thủy Quân Lục Chiến VNCH đã làm chủ Kỳ Đài.

    Một thằng em rút đâu trong người ra một lá cờ vàng 3 sọc đỏ thật lớn. Tôi gọi về Tiểu đoàn :

    -Tất cả sạch sẽ, xin Thiếu Tá cho tôi treo cờ.

    Tôi còn nhớ rõ lệnh của Trung Tướng Lê Nguyên Khang:“Một người lính Thủy Quân Lục Chiến duy nhất còn sống sót cũng phải dựng lại cho được ngọn cờ vàng tại Phú Văn Lâu.”

    Trong niềm vui sướng tột cùng, Hạ sĩ Hạnh thét lớn :

    Thủy Quân Lục Chiến!

    Xong lấy trái hỏa châu đập mạnh, định bắn pháo bông lên trời ăn mừng.

    Trong cơn say chiến thắng, Hạnh xoay ngược đầu hỏa châu vào mình, hỏa châu nổ xuyên bụng. Hạnh cười tươi:-

    Em không sao Đại Úy.

    Phán nghĩ thằng em này tỉnh táo quá, chắc nó chết. Và nó chết thật.
    Tiểu đoàn trưởng bảo Phu Nhân giữ đầu máy chờ. Sau này tôi được nghe: “Khi báo cáo về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I, Chuẩn Tướng Trưởng xin Thủy Quân Lục Chiến dành vinh dự treo cờ cho Sư Đoàn I”. Sáng hôm sau ngày 24 tháng 2 năm 1968 (dương lịch), Phạm văn Đính dẫn một đơn vị của Sư Đoàn I từ cửa Thượng Tứ lên Kỳ đài làm lễ thượng kỳ.

    Hạnh phúc vô biên khi Cờ VNCH đuợc dựng lại tại Kỳ Đài Phú Văn Lâu sau 23 ngày bị cộng quân cho treo cờ của lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ, một tổ chức CS được lãnh đạo bởi Lê Văn Hảo và Thích Đôn Hậu

    Nhìn lá cờ vàng bay phất phới trên nền trời màu xám của Huế, tôi hãnh diện thật sự vì một thằng con của Huế đã góp phần dựng lại ngọn cờ này.

    Trung úy Sự trình tôi :
    – Thằng Hạnh chết, mình còn 67 người.

    Đại đội ra đi hơn 170 người, sau 24 ngày, với bao nhiêu lần bổ sung quân số, chỉ có 3 mục tiêu: Con đường, Cửa Sập, và Kỳ đài mà bây giờ chỉ còn lại 67 người.

    Sáng hôm sau, tôi về phối trí đóng quân lục soát ở khu vực cửa Đông Ba, nhà Thương Nhỏ, chợ Xép. Ngã tư Anh Danh.

    Bộ chỉ huy của tôi đóng tại một tiệm cầm đồ, tiệm này có Tôn và Lưu cùng học với tôi một lớp hồi còn nhỏ. Trong nhà không còn ai cả. Chiều hôm đó tôi gặp lại rất nhiều bạn bè cũ. Tình hình chưa được an ninh hoàn toàn, nhưng đóng quân ở đây, chúng tôi nhẩn nha hơn trước nhiều. Tôi đi kiểm soát các vị trí và cho lệnh lục soát tàn quân địch.

    Lính canh bắt giải tới một người đàn ông lớn tuổi, gầy ốm, ăn mặc lếch thếch, áo vest nhàu rách, tóc tai rối bù, và dơ bẩn, miệng nói lí nhí. Người lính nói với tôi:

    • Lịnh giới nghiêm đã 11 giờ đêm, sao ông này còn lang thang trên hè phố, em nghi quá.

    Tôi sững sờ nhìn người đàn ông :

    • Thầy Cao Hữu Triêm, trời ơi thầy.

    Tôi gọi mấy tiếng lớn mà thầy cũng không nghe, thầy tiếp tục lẩm bẩm rất nhỏ, tôi cầm tay mời thầy ngồi :

    • Con là học trò cũ của thầy đây.

    Một ánh mắt lạc lỏng xa vời :

    -Ờ ờ, sao con khỏe không, thầy mấy ngày ni chưa ăn chi cả.

    Lính tôi kiếm cơm trắng và một đĩa gà luộc về, mời thầy xơi. Tụi nó còn kiếm được một bình trà nóng mời thầy. Sau một hồi thầy tỉnh tảo và cho biết:

    • Cô và cháu nhỏ sắp vào Đà Nẵng, thằng con lớn bị chết rồi. Thầy không muốn về nhà nữa, rồi thầy khóc, giọt nước mắt lăn dài trên đôi má nhăn nheo.
  • Thôi, thầy ở đây với con cho yên.

  • Tôi nói lính của tôi thay nhau hầu hạ thầy ân cần, đến ngày thứ tư thầy đòi đi, tôi thu xếp để thầy vào Đà Nẵng. Từ đó tôi mất tin tức của thầy. Mong thầy bình yên.

    Được sinh ra và lớn lên ở Huế, tôi cố trả một phần nào chữ hiếu cho nơi chôn nhau cắt rún. Máu của tôi, của anh em tôi, của đồng bào tôi đã tạo thành một cơn sóng thần cuốn đi tất cả kẻ thù, để dựng lại ngọn cờ trên Kỳ Đài tượng trưng cho Huế.

    Hai mươi năm sau, hồi tưởng lại máu và xương kia đã theo giòng Hương Giang cuốn tôi và bằng hữu ra biển, bắt làm người biệt xứ.

    Lạy trời, một ngày nào đó, cũng Cố Đô đó, cũng Kỳ Đài đó, cho tôi được góp phần dựng lại ngọn cờ một lần nữa để đền đáp ơn sâu và nghĩa nặng nơi tôi đã sinh ra, nuôi tôi lớn lên và cho tôi làm người ”.

    (Ngưng trích)

    Anh Phán! người Anh Hùng Thủy Quân Lục Chiến, Trung Tá Nguyễn Văn Phán! Huế muôn đời cám ơn anh, cám ơn những người lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa đã đem xương, trắng máu đào, bảo vệ non sông, bảo vệ Huế.

    Anh và đồng đội anh ra đi hơn 170 người, để bảo vệ con đường Thành Nội, bảo vệ cửa thành Cố Đô Huế, lấy lại Kỳ Đài, dựng lại ngọn cờ đã mất trong tay quân thù suốt 23 ngày.

    Ngày chiến thắng, khi ngọn cờ vàng bay phất phới trên tường thành cố Đô Huế, khi mà muôn ngàn giọt lệ của đồng bào Huế tuôn rơi vì được nhìn lại ngọn cờ vàng do chính tay các anh chíến sĩ Thủy Quân Lục Chiến VNCH dựng lại, thì anh và hơn 170 chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến chỉ còn lại 67 người.

    Hơn 103 chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến đã vị quốc vong thân.

    Tố quốc Việt Nam, hồn thiêng sông núi, anh linh tiền nhân ghi công các anh.

    Dân Huế đời đời ghi ơn những chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa.

    Ba mươi sáu năm sau, kể từ ngày bị buộc phải buông súng, sống kiếp đời lưu vong, hào khí của người anh hùng TQLC/ VNCH vẫn còn đây :

    Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển

    Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
    Đưa tôi về Lao Bảo, Khe Sanh
    Để đêm nghe vang động khúc quân hành
    Ôi lính chiến một thời kiêu hãnh quá.
    Khi tôi chết đừng đưa tôi ra biển
    Đưa tôi về Ben-Hét, Đắc-Tô
    Nơi bạn bè tôi xây mộng giang hồ
    Nguyện trấn giữ dãy Trường Sơn yêu quí.
    Khi tôi chết đừng đưa tôi ra biển,
    Đưa tôi về Bình Giả, Chiến khu D
    Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề
    Thân chiến sĩ nguyện xin đền nợ nước.
    Khi tôi chết đừng đưa tôi ra biển
    Đưa tôi về Cái Nước, Đầm Dơi
    Đêm U Minh nghe tiếng thét vang trời
    Mừng chiến thắng để dâng về Tố quốc
    Khi tôi chết đừng đưa tôi ra biển
    Trả tôi về với dân tộc Việt Nam
    Gói thân tôi ba sọc đỏ màu vàng
    Xin liệm kín với hồn thiêng sông núi.

    Thơ Của TQLC Trung Tá NGUYỄN VĂN PHÁN.

    Chiến trường vùng Gia Hội, bãi Dâu, quận II, thành phố Huế

    Orange County, CA.USA. Ngày 14/12/2015
    Liên Thành
    (Trích Huế Thảm sát Mậu Thân 1968. Trang 121-133)

    Ngày 22/2/1968 hai Tiểu Đoàn Biệt Động Quân 21 và 39 nhập trận lãnh trách nhiệm thanh toán cộng quân tại vùng Gia Hội.

    Xuất phát từ Quận III (Hữu Ngạn), họ tiến quân về Vỹ Dạ và từ đó đạp chân lên vùng Gia Hội, nơi cộng quân đang chiếm giữ.

    Gia Hội là khu thị tứ đông dân cư nhất tại Quận II (Tả Ngạn), một trong những khu thương mại của thành phố Huế, nhà cửa san sát nhau, dãy phố này nối liền với khu phố kia. Vì vậy bọn Việt Cộng đã lợi dụng địa thế trốn núp trong dân, bám sát dân, bám sát từng khu phố, dùng dân làm bùa che chở cho bọn chúng tránh sự tấn công của Quân Lực VNCH. Cộng quân đục vách phá tường di chuyển bên trong từ nhà này sang nhà kia để chống cự với Tiểu Đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân. Vì vậy, Gia Hội thực sự là một chiến trường đầy trắc trở và cam go, một trách nhiệm nặng ngàn cân mà Tổ Quốc và đồng bào giao cho Tiểu đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân. Kẻ thù đã dùng chiến thuật trộn lẫn với dân chúng để đối đầu với quân chính phủ, và vấn đề được các chiến sĩ Biệt Động Quân đặt ra là làm sao tiêu diệt được cộng quân mà vẫn phải bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào.

    Tiểu Đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân cận chiến trong thành phố Huế, trận đánh tại vùng Gia Hội

    Và Tiểu Đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân đã tạo được danh dự cho chính họ và cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Họ đã dùng chiến thuật tác chiến trong thành phố, chấp nhận thiệt hại cho chính bản thân và đơn vị, cận chiến với quân thù. Cuối cùng kẻ thù cộng sản đã bị đánh bật ra khỏi dân, BĐQ đã dứt điểm tiêu diệt toàn bộ Bộ Chỉ Huy của cộng quân tại chùa Tăng Quan Tự mà không gây tổn thương một sinh mạng nào cho dân.

    Tiểu Đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân cận chiến trong thành phố Huế, trận đánh tại vùng Gia Hội

    Hai tiểu đoàn BĐQ 21 và 39 đã chu toàn cả hai trách nhiệm: giảm thiểu đổ nát nhà cửa tài sản của đồng bào và bảo vệ tối đa sinh mạng dân lành trong vùng Gia Hội. Họ xứng đáng lãnh nhận sự thương yêu và lòng biết ơn của muôn vạn của đồng bào Huế !

    CHIẾN TRƯỜNG QUẬN III

    Tại Quận III (Hữu Ngạn), nơi đặt BCH Tiểu Khu, Quân Trấn, Bộ Chỉ Huy CSQG/Thừa Thiên-Huế, phái bộ Cố Vấn Quân Sự Hoa Kỳ (MACV), từ 2 giờ 33 phút sáng ngày mùng 2 Tết cho đến 6 giờ sáng, lực lượng cộng quân đã 3 lần tấn công vào Bộ Chỉ Huy CSQG/Thừa Thiên Huế, nhưng đều bị chúng tôi đẩy lui cả 3 lần. Bọn chúng đã vào tận cửa chính, nhưng không chiếm được Bộ Chỉ Huy. Lực lượng cảnh sát đã không thể dùng súng mà chỉ dùng lựu đạn. Chúng tôi có được lợi thế hơn bọn chúng, chúng tôi bố trí tại các cửa sổ của lầu I và lầu II, tung lựu đạn vào các toán đặc công xung phong vào ngay cột cờ và cửa chính của Bộ Chỉ Huy. Trong 3 đợt tấn công của cộng quân, lực lượng cảnh sát chúng tôi đã có 14 chiến sĩ cảnh sát hy sinh, một số bị thương nặng, nhẹ. Thi thể những người tử thương phải chôn ngay tại khuôn viên của Bộ Chỉ Huy, sau khi tình hình ổn định, các chiến sĩ CSQG mới được cải táng.

    Có một sự việc quan trọng cần phải được trình bày thêm:

    Ngay sau đợt tấn công lần thứ 2 của Cộng quân vào BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế, vào khoảng gần 4 giờ sáng ngày mùng 2 Tết, ông trưởng ty Đoàn Công Lập đã cho lệnh đập một lỗ hổng ở bức tường phía sau BCH/ CSQG, tiếp cận với trường trung học Kiểu Mẫu, ông ta và một tiểu đội cận vệ theo lỗ hổng đó thoát ra khỏi Bộ Chỉ Huy, với lý do là đích thân ông ta phải ra ngoài để bảo vệ Đài phát thanh Huế.

    Rất nhanh, tôi tự hỏi:
    – “Ông ta là trưởng ty, đơn vị đang bị địch tấn công, tại sao ông ta lại rời khỏi vị trí chiến đấu để đi bảo vệ một mục tiêu khác không cần thiết và cũng không thuộc đơn vị mình?”

    Mùa hè 1972, khi chúng tôi bắt được Trung tá điệp viên Hoàng Kim Loan thì câu hỏi này đã được sáng tỏ:

    Hoàng Kim Loan là người phụ trách “tổng nổi dậy”, hắn đã giao cho Ông Đoàn Công Lập một cuốn băng thâu sẵn lời kêu gọi đồng bào Huế tham gia cuộc Tổng Nổi Dậy, cuốn băng này sẽ được ông Đoàn Công Lập cho phát trên làn sóng phát thanh của Đài phát thanh Huế khi có lệnh của hắn. Vì tầm quan trọng cần phải phát động tổng nổi dậy nên Đoàn Công Lập phải bằng mọi giá đục tường chui ra để đến Đài Phát Thanh phát sóng lời kêu gọi trên

    (Tôi sẽ trình bày chi tiết hơn về kẻ phản bội này ở phần sau)

    Tại Bộ Chỉ Huy Tiểu khu Thừa Thiên và Quân Trấn Huế, cộng quân cũng tổ chức 3 đợt tấn công và quân trú phòng đã phản công mãnh liệt. Sau ba lần cố gắng nhưng bọn Việt Cộng vẫn không chiếm được nên chúng tạm thời rút lui.

    Riêng MACV, nơi phái bộ cố vấn quân sự Hoa Kỳ trú đóng, từ 2 giờ 33 phút sáng ngày mùng hai tết cho đến ngày mùng bảy tết, không một lực lượng nào của cộng quân tấn công vào cơ quan này. Lực lượng Hoa Kỳ cũng án binh bất động. Cộng quân tuyệt đối không tấn công họ, và chính họ khi thấy những tên Việt Cộng chạy ngang qua, họ cũng không hề nổ súng, đã vậy lại còn có một vài binh sĩ Mỹ đồn trú vẫy tay chào ”Hello” bọn chúng nữa. Hết biết!

    BẢY NGÀY ĐẦU VC TẤN CÔNG HUẾ, LỰC LƯỢNG HOA KỲ KHÔNG THAM CHIẾN.

    Điều cần nói rõ là ba cơ quan an ninh và quân sự quan trọng Việt – Mỹ đóng sát nhau: Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Thừa Thiên, MACV, và Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế. Đặc biệt cổng chính của Bộ Chỉ Huy MACV đối diện với cổng chính của BCH/CSQG/Thừa Thiên-Huế, chỉ cách nhau mặt đường Trần Cao Vân. Lưng của Bộ Chỉ Huy Tiểu khu Thừa Thiên đối diện xéo với cổng chính của BCH/MACV. Ba cơ quan trọng yếu nằm sát nhau như vậy, nhưng Việt Cộng chỉ tấn công 2 cơ quan của chính phủ VNCH, còn cơ quan MACV thì vẫn bình an vô sự

    Theo tôi, cộng quân không dám tấn công lực lượng Hoa Kỳ vì sợ vi phạm hưu chiến đối với phía Hoa Kỳ. Nếu bọn chúng tấn công lực lượng Hoa kỳ trong lúc này, thì vì tự vệ, phía Hoa Kỳ sẽ đáp trả mạnh lại ngay, như vậy hậu quả sẽ vô cùng bất lợi cho chúng về cả hai phương diện quân sự lẫn dư luận quốc tế, nhất là đối với đám phản chiến và báo chí phản chiến, những kẻ hiện đang hổ trợ cho cuộc xâm lăng của bọn chúng. Còn về phía Hoa Kỳ, cũng chỉ vì tôn trọng thỏa hiệp ngưng chiến mà không có hành động.

    Sau nầy cũng có giả thuyết nói rằng, Hoa kỳ để cho Cộng sản Hà Nội tự do tấn công VNCH mà không thiệp. Đó là một điều kiện trao đổi để Cộng sản Hà Nội ngồi vào bàn hội nghị Paris sau Mậu Thân, giúp Hoa Kỳ rút quân khỏi cuộc chiến trong danh dự.

    Hoặc là, Hoa Kỳ tạo điều kiện cho Cộng Sản Bắc Việt chiến thắng VNCH để đi đến quyết định chấm dức cuộc chiến mà chỉ có Hoa Kỳ và Cộng sản Bắc Việt là 2 thành phần chủ chủ chốt quyết định số phận miền Nam Việt Nam tại cuộc hòa đàn sắp mở tại Paris, Pháp quốc, còn Việt Nam Cộng Hòa và Mặt trận Giải Phòng Miền Nam chỉ là 2 thành phần phụ thuộc của Mỹ và Cọng sản Bắc Việt mà thôi.

    Xin lưu ý dây chỉ là ghi nhận một số dư luận và giả thuyết sau trân đánh Mậu thân 1968 mà thôi.

    Thế nhưng sau 7 ngày quân cọng sản hà Nội đã không làm nên cơm, nên cháo gì, mà lại còn thất bại trước sự phản công mãnh liệt của Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa. Ngoài ra cũng còn chưa tính đến việc Cọng Sản Hà Nộ bội ước tấn công Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn. Do đó người bạn đồng minh Hoa Kỳ thắm thiết của VNCH lại nhảy vào cuộc chiến Mậu Thân để gỡ gạt lại chút danh dự.

    Trong suốt đêm mùng 2 tết, cộng quân tấn công Bộ Chỉ Huy CSQG/Thừa Thiên-Huế và Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Thừa Thiên, thì Phái Bộ Cố vấn Quân Sự Hoa Kỳ MACV vẫn tắt đèn im lặng như không có chuyện gì xảy ra, cho đến khi một viên đạn M79 từ hướng BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế bay sang và nổ ngay giữa sân của Bộ Chỉ Huy MACV, ngay lập tức còi báo động trong căn cứ MACV vang lên, và hai chiếc xe tăng lớn ù ù từ trong căn cứ di chuyển ra trấn giữ cửa chính của MACV. Họ ngỡ cộng quân tấn công. Nhờ ăn ké như vậy mà kể từ giờ đó Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế không còn bị cộng quân tấn công nữa!

    Viên sĩ quan cảnh sát nào đó (?!) đã bắn quả đạn M79 qua MACV quả thật đã nhanh trí, có như vậy mới lôi được hai cái bùa hộ mạng xe tăng của Mỹ ra án ngữ ngay cổng MACV và cổng Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát. Nếu không có 2 xe tăng đó, chưa chắc lực lượng Cảnh Sát chúng tôi đã giữ vững được Bộ Chỉ Huy, vì đạn và lựu đạn thì đang cạn dần mà số chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia bị thương và tử thương cứ tăng lên.

    Huế trong tình trạng cực kỳ nguy hiểm, Huế có thể mất vào tay cộng quân bất cứ khi nào, với tình hình khẩn trương như vậy mà vị Tỉnh Thị Trưởng Thừa Thiên Huế kiêm Tiểu Khu Trưởng, Trung Tá Phan Văn Khoa, không có mặt tại nhiệm sở để điều động lực lượng phản công. Ông đã bị kẹt tại tư thất, và sau đó may mắn thoát được vào ẩn nấp tại bệnh viện Trung Uơng Huế và nhờ một vị nữ tu Công Giáo che chở, mãi đến ngày mùng bảy Tết mới thoát về được Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Thừa Thiên, vì vậy trong suốt thời gian này, người chỉ huy và điều động lực lượng phản công những đợt tấn công của địch là Thiếu Tá Nguyễn Văn Tố, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu Thừa Thiên.

    Ngay từ giờ đầu cộng quân tấn công Huế, trên hệ thống truyền tin của Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu, chỉ độc nhất một giọng nói của Thiếu Tá Nguyễn Văn Tố ra lệnh và điều động các đơn vị trực thuộc phản công. Trong suốt 26 ngày, bất cứ khi nào tôi vào tần số truyền tin của Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu cũng đều gặp ông. Có thể nói trong những giờ phút nguy nan đó, Tiểu Khu Trưởng vắng mặt, Tiểu Khu Phó là Thiếu Tá Bảo bị thương nặng bị loại ra khỏi vòng chiến ngay từ đầu, Trung Tâm Hành quân của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu đã bị cộng quân bắn sập một phần, gây hư hại nặng nề, còn lại một mình Thiếu Tá Nguyễn Văn Tố, Tham Mưu Trưởng, ông đã chứng tỏ bản lãnh can đảm hiên ngang lạ thường. Ông điều động, chỉ huy, chống trà đẩy lui ba bốn đợt cộng quân tấn công vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, gây tổn thất nặng cho bọn chúng, đến độ bọn chúng phải đành bỏ ý định đánh chiếm Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Thừa Thiên. Ông thật sự là một cấp chỉ huy bình tĩnh đảm lược, một loại sĩ quan ngoại hạng có thể ứng phó trong những trường hợp vô cùng nguy nan.

    Ngày mùng 7 Tết, khi lực lượng Hoa Kỳ nhảy vào trận đánh giải tỏa áp lực địch ở vùng Quận III thị xã Huế, Thiếu Tá Nguyễn Văn Tố là người duy nhất phản đối lối đánh cầm chừng, chiến thuật kỳ lạ của quân đội Hoa Kỳ: Sáng sớm càfé thuốc lá xong, xuất quân bắn tạch tạch… đùng đùng… chiều lại rút về, đêm đến cộng quân lại ra tái chiếm những mục tiêu mà bọn chúng đã mất ban ngày! Cứ như thế và như thế! Chính Thiếu Tá Tố đã to tiếng với viên Đại Tá Cố vấn Hoa Kỳ. Cuối cùng ông sử dụng 2 đại đội Địa Phương Quân do Thiếu Tá Nguyễn văn Tăng, Quận Trưởng kiêm chi Khu Trưởng Quận Hương Thủy tiếp ứng tăng phái cho Tiểu Khu, làm nỗ lực chính, cùng với sự yểm trợ của một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ với 2 xe tank của họ. Thiếu tá Nguyễn Văn Tố cho lệnh giải tỏa vùng Bệnh Viện Trung Ương Huế, Tòa Hành Chánh Tỉnh, lên đến Tòa Đại Biểu Chính Phủ, và dọc đường Nguyễn Huệ về đến vùng An Cựu.

    Sau Mậu Thân, Thiếu Tá Nguyễn Văn Tố được Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng đại diện Quân Lực và Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa trao gắn thăng cấp đặc cách Trung Tá tại mặt trận và trao tặng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu.

    Trước 30/4/1975 Đại Tá Nguyễn văn Tố là Tỉnh Trưởng, tỉnh Phú Yên.

    Ngày mùng 8 tết, 7 giờ sáng, Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu qua hệ tống truyền tin gọi tôi trình diện Trung Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng. Vừa ngạc nhiên vừa phân vân không biết chuyện gì, tôi hỏi người bạn là sĩ quan phụ tá Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Hành Quân, anh ta cũng chẳng biết, anh chỉ nói :

    • Trung Úy sang Trung Tâm Hành Quân gặp Trung Tá gấp, ông đang đợi Trung Úy.

    Vừa gặp tôi, Trung Tá Tỉnh Trưởng Phan Văn Khoa nói ngay:

    • Liên Thành, em đảm nhiệm Quận Trưởng Quận III kể từ giờ này. Nhiệm vụ chính là hành quân phối hợp với Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trong vùng Quận III, truy bắt hết đám cơ sở Việt Cộng, tìm kiếm dân chúng còn trú ẩn tại nhà hoặc ở những vùng đang có giao tranh, bảo vệ và đưa họ về tạm trú tại trường Trung Học Kiểu Mẫu. Lực lượng Cảnh Sát có được bao nhiêu ?
  • Trình Trung tá, khoảng 200 Cảnh Sát Dã Chiến và 300 Cảnh Sát Đặc Biệt tại hàng.

  • Tiểu Khu sẽ tăng cường cho em thêm 1 Đại đội Địa Phương Quân. Liên lạc với Trung Tâm Hành quân và Thiếu Tá Tố tham mưu trưởng để nhận lệnh hành quân.

  • Trung tá Tỉnh trưởng ra lệnh một tràng dài không để cho tôi hỏi một câu nào, tôi đành cắt ngang:

    • Trình Trung Tá, vậy Cảnh Sát Đặc Biệt của Ty Cảnh Sát giao lại cho ai ?
  • Kiêm luôn!

  • Những ngày kế tiếp, chúng tôi phối hợp cùng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Thật là nản lòng vì lính Mỹ hành quân theo lối cưỡi ngựa xem hoa. Sáng tà tà xuất phát từ MACV, lục soát đến vùng Bưu Điện, bệnh viện Trung Ương Huế, ngã sáu Lê Thánh Tôn, Lý Thường Kiệt bắn tạch tạch… đùng đùng vài ba phát, chiều lại rút quân về MACV nghỉ ngơi. Họ đánh giặc theo kiểu trời ơi đất hỡi. Có lẽ họ đang câu giờ cho mục đích gì đó của chính phủ họ, hoặc giả họ chỉ chủ trương hành quân lục soát chứ không chiếm giữ, có “ông trời” mới biết được ý định của họ.

    Chúng tôi nôn nóng vì đã tám chín ngày thành phố không có điện, không có nước, dân chúng bị kẹt tại nhà lấy gì ăn uống, đó là chưa kể có số đồng bào bị thương vì súng đạn cộng quân pháo kích bừa bãi, xem sinh mạng đồng bào như cỏ rác. Số đồng bào bị thương đó cần phải được săn sóc cứu chữa ngay.

    Lực lượng chúng tôi theo sau lực lượng Hoa Kỳ, đợi vùng nào họ giải tỏa xong, chúng tôi nhào đến tìm kiếm đồng bào đưa họ ra khỏi vùng nguy hiểm ngay, sau đó đưa họ về tạm trú tại trại tỵ nạn trường trung học Kiểu Mẫu, sát ngay Đại Học Văn Khoa, ngay đầu cầu Tràng Tiền, cạnh bờ sông Hương. Thế nhưng đã hai ngày rồi, tính từ ngày mùng 7 Tết, lực lượng Hoa Kỳ vẫn chơi trò “đi dạo mát”.

    Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu gọi tôi:

    • Thẩm quyền lớn muốn biết đám mắt xanh đã “lia” được vùng nào rồi. Ông đã gặp được số đồng bào nào bị kẹt trong vùng chưa? đưa họ về trường Kiểu Mẫu gấp!

    Tôi trả lời:

    • “Lia” cái đầu tui! Tụi nó đi một đoạn rồi dừng lại bố trí hút thuốc, chẳng đánh đấm gì cả! Việt cộng còn trong vùng rất ít, chỉ bắn lẻ tẻ mà thôi.

    Một vài ngày sau thì lực lượng Hoa Kỳ mới tấn công mạnh vào các vùng như Phú Cam, Kho Rèn, khu vực Dòng Chúa Cứu Thế, An Cựu, Cầu số 7, khu Chợ Cống. Lực lượng chúng tôi theo sau, vùng nào giải tỏa xong tôi dùng loa phóng thanh kêu gọi đồng bào :

    • Tôi Trung úy Liên Thành, phó Trưởng Ty CSĐB, Quận Trưởng Quận III, thưa đồng bào: Quân đội VNCH, Hoa Kỳ và lực lượng CSQG đã giải tỏa vùng này, yêu cầu đồng bào rời nhà di chuyển ra đường lớn, chúng tôi sẽ đón và đưa đồng bào về trường Trung học Kiểu Mẫu tạm trú an toàn hơn. Tại trường Kiểu Mẫu, chính quyền địa phương đã có chuẩn bị cho đồng bào thực phẩm và phương tiện y tế.

    Tôi đã phân chia trách nhiệm rõ ràng cho 3 lực lượng dưới quyền, vì vậy khi lực lượng Hoa Kỳ thanh toán xong cộng quân vùng nào, chúng tôi nhào đến bắt tay vào công việc ngay. Tỷ như CSĐB trách nhiệm chính là truy lùng bắt giữ ngay những thành phần cơ sở Việt cộng nằm vùng, những kẻ đã cùng phối hợp với đám công an của tên Đại Tá Công An Việt Cộng Nguyễn Đình Bảy bắt đi hơn 300 đồng bào lánh nạn trong Dòng Chúa Cứu Thế, trong số này có Thượng Nghị Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Trần Điền. Sau này đã tìm được 300 xác, trong đó có xác của Thượng Nghị Sĩ Trần Điền trong một số mồ chôn tập thể rải rác ở các vùng Lăng Xá Bầu, Lăng Xá Cồn thuộc quận Hương Thủy. Còn Đại Đội Địa Phương Quân do Tiểu Khu tăng cường, ngoài trách nhiệm lục soát trong vùng, họ yểm trợ cho Cảnh Sát Dã Chiến di tản đồng bào trong khu vực về trại tạm cư Kiểu Mẫu.

    Tổng cộng có gần 400 đồng bào được giải thoát trong vùng đường Duy Tân, chợ An Cựu, chợ Cống, Cầu số 7, đưa về trại tạm cư Kiểu Mẫu an toàn.

    Những ai đã chứng kiến cảnh đồng bào Huế chạy giặc băng qua cánh đồng An Cựu trong cơn mưa phùn gió bấc của những ngày đầu xuân năm Mậu Thân, cho dù lòng dạ có cứng rắn đến đâu cũng không khỏi chảy đôi giòng lệ xót thương. Đồng bào chạy trong làn mưa bụi và lạnh cắt da. Họ phờ phạc, đói khát, hoảng sợ. Mẹ ôm con, bà ôm cháu, con cõng cha già chạy lúc thúc…lính và cảnh sát dẫn họ chạy thoát khỏi vòng lửa đạn. Họ không khóc, không la, âm thầm, câm nín chịu đựng…chịu đựng đến tột cùng của khổ đau, cố gắng vượt qua cánh đồng An Cựu, chỉ dài khoảng hơn cây số là đến trường Kiểu Mẫu nơi an toàn, mà sao xem chừng như xa vạn dặm.

    Trở lại toán Đặc Nhiệm Cảnh Sát Đặc Biệt, đang truy lùng đám cộng sản nằm vùng và những tên An Ninh Thành của tên đại tá công an Việt Cộng Nguyễn Đình Bảy, tức Bảy Lanh, những kẻ đã bắt hơn 300 đồng bào gồm dân lành vô tội, quân nhân, công chức, CSQG và thượng nghị sĩ Trần Điền tại Dòng Chúa Cứu Thế đem đi chôn sống. Trưởng Toán Đặc Nhiệm là Anh Nguyễn Bá Sơn sau hai giờ lục soát trong vùng đã gọi tôi:

    • Trình Tango, chúng tôi bắt được 6 tên, bọn chúng khai là thuộc bộ phận An ninh Thành Ủy của Bảy Lanh, và hai cha con Thiên Tường. Thằng con thứ ba và thằng đầu của Thiên Tường là thằng Đua chúng tôi đã lục soát kỹ mà không tìm thấy, không biết bọn chúng trốn ở đâu!
  • Mấy thằng con anh có bị gì không?

  • Có 3 anh em bị chúng bắn bị thương, một rất nặng cần tải thương gấp.

  • Tôi nhận rõ, sẽ cho xe đến chở ngay.

  • Tiếng của Nguyễn Bá Sơn lại rè rè trong máy:

    • Trình thẩm quyền, 6 tên đó và hai cha con Thiên Tường thì sao ?

    Nghĩ đến hơn 300 người bị bọn chúng bắt đi chỉ một phần sống, chín phần chết, và một số khác khoảng gần 200 người đã bị bọn chúng bắn tại chỗ khi bọn chúng làm chủ khu vực Dòng Chúa Cứu Thế, An Cựu, Cầu số 7, Chợ Cống, tôi thét to trong máy truyền tin :
    – Thuyên chuyển bọn chúng về Vùng V Chiến thuật.
    – Nhận rõ thẩm quyền.

    Chiều đến, vì không đủ lực lượng, Thiếu Tá Tham Mưu trưởng cho lệnh rút về. Tối đến cộng quân lại tràn vào chiếm cứ toàn vùng.

    Quân Đội Hoa Kỳ sau đó đã thật sự tham chiến đánh đấm đàng hoàng. Vào ngày 11 Tết Âm Lịch, tức ngày 9 tháng 2 năm 1968 Dương Lịch, họ mới thanh toán xong chiến trường Quận III thị xã Huế, trận đánh tại quận III xem như kết thúc với kết quả như sau:

    934 VC chết, bắt sống 4 tù binh, tịch thu 307 súng đủ loại.

    Hoa Kỳ: 31 chết. 201 bị thương nặng, 80 bị thương nhẹ.

    Thiệt hại sinh mạng và tài sản của dân chúng trong vùng thật quá lớn lao, ngoài sức tưởng tượng. Người chết quá nhiều, đại đa số là do cộng quân và đám nằm vùng sát hại, số còn lại do bọn chúng pháo kích bừa bãi, hoặc tác xạ không cần lựa chọn mục tiêu và đối tượng, dân chúng thì cũng là dân chúng Ngụy, cũng là tay sai đế quốc Mỹ xâm lược, đâu cũng là nhân viên tình báo Mỹ Xê-I-A, vì thế bọn chúng thoải mái tác xạ tự do. Trong nhà, ngoài vườn, đường lớn, đường nhỏ, đâu đâu cũng là xác người đã sình thối.

    Các công thự, công ốc, có nhiều nơi bị phá hủy đến sáu hoặc bảy mươi phần trăm, như Ty Bưu Điện, Tòa Hành Chánh Tỉnh, thư viện Đại Học Huế, Đài Truyền Hình Quốc Gia, nhà lao Thừa Phủ, trường trung học Thiên Hựu, Dòng Chúa Cứu Thế, v.v…

    Ngoài ra dòng sông An Cựu có 6 cây cầu: Cầu An Cựu, Cầu Kho Rèn, Cầu Phủ Cam, Cầu Bến Ngự, Cầu Nam Giao, Cầu Ga, vậy mà chỉ còn lại cầu Nam Giao và Cầu Ga khả dĩ còn sử dụng được, bốn cây cầu kia hoàn toàn bị hư hại nặng không thể dùng được nữa.

    Chém cơm của người Mẹ Việt Nam với hai người lính trẻ Hoa Kỳ Tại vùng ven đô Huế, Mậu Thân 1968.