Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 3

CHIA XA


Cô gái áo xanh ngồi chống tay vô cằmTranh Nguyen Son

CHIA XA

Sau chỉ một ngày bỗng cách xa
Không lời từ giã, vội chia xa
Người đi biền biệt phương xa mãi
Ta vẫn nơi này dõi mắt xa

Nơi đó phương trời ôi quá xa
Đôi bờ ngăn cách xa là xa
Năm thêm dài tháng tình xa với
Ta hóa thành hai kẻ lạ xa!

Ngày đó tháng tư ta cách xa
Tháng tư khác tới vạn trùng xa
Đại dương ta vượt xa ngàn sóng
Ta đến chung bờ, thôi cách xa
Sao đã thành hai kẻ lạ xa!
Ta đã thành hai kẻ lạ xa…

ConGàQuè Azalea
(Tặng những người trong cuộc)

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 1

SAU BỐN MƯƠI NĂM


38894242_1068595583329908_9028002311091257344_n

SAU BỐN MƯƠI NĂM

Sau bốn mươi năm qua,
Những hình ảnh lạ xa,
Bao ngôn từ quái đản,
Ngỡ như bãi tha ma !

Tưởng rằng ta bước lạc,
Đến một thế giới khác…
Ta không hiểu vi`sao ?
Vì đâu ta ngơ ngác ?

Tưởng rằng bước chân ta,
Lạc loài giữa tà ma,
Cớ sao ta không hiểu ?
“Tình người” đã phôi pha !

Sau bốn mươi năm thôi,
Đã bốc mùi tanh hôi,
Cớ sao ta không hiểu ?
Khỉ biến thành người rồi !

Bốn mươi năm đợi chờ,
Ta sắp hóa bụi tro…
Sao ngược dòng vẫn lội ?
Ngủ vùi trong cõi mơ !

Vì sao chưa thức tỉnh,
Mở mắt nhìn quanh mình ?
Cớ sao mà không hiểu ?
Nhân loại đã khiếp kinh !

Ôm mãi một thây ma,
Cõng rắn cắn gà nhà,
Cớ sao còn chưa hiểu ?
Sắp đến chốn ta bà !

Bốn mươi năm trôi đi,
Nhìn quanh còn lại gì ?
Lũ đười ươi vẫn đó,
Nồng mùi tham sân si !
Con Gà Què Azalea
(Mpt. April 30, 2015)

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 1

DẠI KHỜ


VC30475

DẠI KHỜ

Rồi mỗi năm ngày hôm nay cũng tới
Nén hương lòng xin tưởng niệm tình tôi
Bốn mươi năm lời chia tay vẫn nhớ
Bởi ngây thơ nên suy nghĩ dại khờ…
Tôi đã ở lại để xem hư thực
Tiễn đưa anh lòng chẳng hề ray rứt
Cứ ngỡ một ngày rồi sẽ lại gặp nhau
Có ngờ đâu chia cách đến bạc đầu !!!

Bởi ngây thơ mong thỏa mãn tò mò
Tôi đã rơi xuống tận cùng kinh sợ
Vài ngày thôi đã biết rằng anh đúng
Tình đã xa theo pháo súng nổ đùng
Nổ vỡ tim tôi, nổ tan tành xuân sắc
Nỗi đau tôi, tưởng trăm ngàn dao cắt
Hỡi ngu khờ sao nỡ hủy tình tôi
Tò mò ơi ! Thôi đã mất cả rồi !!!

Đã bốn mươi năm, anh ở nơi nào đó
Có biết rằng hồn tôi thắt khăn sô
Đã bốn mươi năm, bốn mươi lần tạ lỗi
Bởi dại khờ nên đã giết đời tôi !
Con Gà Què Azalea

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
Chuyện ngắn

TÔ PHỞ


Beef-Pho_6

Tô phở

Vậy là hắn được tha về. Thứ gì của hắn còn xài được, hắn để lại hết cho anh em. Trong này quý. Chỉ giữ lại bộ đồ duy nhất mặc trên người. Miếng giấy ra trại xếp làm bốn, nhét mấy chục ngàn vô giữa, hắn cắm đầu đi thẳng. Không ngó lại. Tuyệt đối không ngó lại. Là mấy tay ở tù nhiều lần dặn vậy. Lưu luyến gì? Tiếc rẻ gì? Nhìn lại lỡ có huôn. Mình không nhớ nó, nhưng nó nhớ mình, nó khiến cho có chuyện vô lại thì sao?

Chưa có một dự tính nào trong đầu, nhưng hắn tự hứa với mình. Sẽ không bao giờ! Không bao giờ, trở lại nơi này lần nữa. Về đã! Về rồi tính tiếp. Chỉ cần nhảy lên hai chuyến xe đò là hắn tới quê. Là thấy được con mương trước nhà. Thấy hàng so đũa và cái mái lá xác xơ. Không biết má hắn giờ ra sao? Lâu lắm rồi không thấy bà lên thăm. Hắn đã nghĩ tới tình huống xấu nhứt. Hay bà chết rồi không chừng. Mấy năm trước, lúc mới vô tù, bà có lên thăm nuôi hắn đâu được một, hai lần rồi thôi. Thấy yếu lắm. Nói chuyện với hắn như trối! Câu nào cũng đầy nước mắt. Lớp già, lớp nghèo, sống lủi thủi một mình, thêm lớp nhớ con, bà như cây đèn chông lắc lư trước gió hằng đêm, tắt hồi nào không hay! Hắn đã sợ hãi khi nghĩ tới điều này. Sợ còn hơn lúc người ta tuyên án 3 năm tù ở với hắn. Hắn ăn năn, hắn hối hận, hắn tự nguyền rủa con người mình, ngày này qua ngày khác. Ngày tháng ở tù thì kéo dài tưởng chừng như vô tận. Hắn chai lỳ với mọi cảm xúc, chịu đựng vượt mức mọi thứ, để chờ ngày hôm nay. Ruột hắn nóng như lửa đốt, mà cái xe đò cứ rề rề, chạy rồi ngừng, ngừng rồi chạy liên tục. Tới thành phố thì đã quá trưa.

Thêm chuyến xe đò nữa là hắn đã có mặt ở nhà. Hắn hối hả tìm trạm xe buýt ra bến xe miền Tây. Miệng khô khốc, bụng đói cồn cào. Hắn dừng lại ở thùng bánh mì từ thiện, may mắn không chào đón hắn, thùng bánh mì trống trơn. Hắn uống liền 2 ca trà đá ở cái bình nước miễn phí đặt gần đó. Đầu hắn quay cuồng, cái đói ở đâu kéo tới thiệt lẹ.

Hai chân hắn bắt đầu run. Con đường trước mặt như quen như lạ. Đã có một thời hắn kiếm miếng ăn trên những con đường. Hắn khéo tay. Không có cái khoá xe nào mà hắn cần quá 1 phút để mở. Hắn mở khoá xe điệu nghệ như một nhà ảo thuật. Cái điệu nghệ đưa tới một án tù! Với hắn, trộm cắp cũng phải có nghệ thuật và nguyên tắc riêng của nó. Thứ nhứt, không chôm…xe cùi bắp! Bán chẳng được bao nhiêu, phí một lần ra tay. Lại nữa, chủ nhân thường là những người nghèo. Chiếc xe là cái cần câu cơm, là cả một gia tài. Mất đi, lập tức…đời là bể khổ! Chôm không đành. Thứ nhì, có lựa xe dữ, thì cũng không chơi ở mấy cửa hàng, trường học. Ở đó có người coi, có bảo vệ. Khó chơi đã đành. Chơi được, thì nạn nhân không phải người mất xe, mà là chính họ. Những người đi làm cái nghề giữ xe được mấy đồng bạc. Đền một chiếc xe là mạt, là ăn mày. Kẹt mấy cũng đừng chơi! Tội…

Ngon nhứt là canh me chôm trước cửa nhà, chôm của mấy tay có tiền, chạy xe xịn đi ăn chơi, mua sắm. Ăn hàng xong là nhẹ nhỏm, là khỏi băn khoăn, thắc mắc…

Hắn lắc lắc đầu, cố thoát ra khỏi cái ám ảnh ngứa nghề để đi tiếp. Ngẩng lên, thấy ngay tấm bảng đập vô mắt:

“Phở bình dân. Tái Nạm Gàu Gân. 35k 1 tô”. Xe phở đặt phía trước tiệm. Thùng nước lèo kế bên. Mấy tảng thịt bò treo lủng lẳng bắt mắt. Không nhớ đã bao lâu hắn không được ăn phở. Thèm và đói. Cái đói réo gọi. Đói dữ dội. Đói chảy nước mắt. Đói leo qua sức chịu đựng của hắn. Hắn lôi tiền ra đếm. Còn vỏn vẹn 30 ngàn về xe. Hắn cay đắng. Hắn bực tức. Tô phở bốc khói nhảy vô đầu hắn ngồi. Tô phở vực cái thói quen cũ trồi dậy. Hắn bắt đầu quan sát. Phố xá đông đúc, hàng quán san sát, xe gắn máy đậu dài hai bên lề đường. Hắn tản bộ thêm một đoạn, ngó mấy cái ngã tư, tính toán đường thoát. Hắn nhìn quanh quất, phải kiếm đồ nghề trước. Cái này thì dễ. Gần đèn xanh, đèn đỏ, có một tiệm sửa xe. Hắn lượm một cây căm xe cũ. Lượm thêm một cục đá xanh làm búa. Hắn ngồi ngay xuống lề đường, lo việc của mình, mặc kệ thiên hạ. Người qua lại đông, xe cộ chen nhau, không ai thèm để ý tới hắn. Thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ, biết càng thêm rắc rối chứ ích gì. Hắn bẻ gập cây căm cho ngắn lại, lấy cục đá đập dẹp cái đầu, rồi uốn, rồi mài dưới mặt đường, cẩn thận từng chút. Một bài học trong tù. Ở trong đó hắn còn làm ra nhiều thứ vật dụng quái chiêu hơn nhiều. Không có gì là không thể, nếu chịu khó và kiên nhẫn. Xong, hắn đưa lên trước mặt ngắm nghía. Không ngon lắm, nhưng cũng tạm được. Dân trong nghề kêu bằng đoản, trong tay hắn là cái chìa khoá vạn năng. Hắn đút cây đoản vô túi áo. Tay hắn chạm tờ giấy ra trại. Chạm vào thực tại. Tờ giấy nhắc cho hắn cái lý do hắn ở đây. Hắn hơi chựng lại. Hắn xoè tay ra trước mặt, hai bàn tay nhạy bén như của một nghệ sĩ ngày nào, giờ xám xịt, chai sần và thô kệch. Những ngón tay cứng đơ nằm gần nhau mệt mỏi. Hắn hoang mang, hắn không còn đủ tin tưởng vô chúng. Hắn co duỗi, hắn nhấp thử vài lần trong không khí. Chậm và thô quá. Hắn đốt điếu thuốc còn sót lại, hy vọng xoa dịu cơn đói. Khói thuốc làm người hắn nhộn nhạo. Hắn nhớ tới má hắn dưới quê, không biết sống chết ra sao. Một phần trong hắn lên tiếng:

– Thôi bỏ đi. Đã thề bỏ rồi mà. Làm khổ bà già nhiêu đó chưa đủ sao, thằng bất hiếu! Về! Về gấp như đã hứa. Về! Đói no gì cũng kệ, miễn là có mẹ có con. Cái nghề này đâu có bền. Sớm muộn gì cũng trở vô trỏng thôi!…

Hắn cúi xuống nhìn bộ quần áo mình đang mặc. Nhìn cái con người thân tàn ma dại của mình. Một phần khác trong hắn lên tiếng:

– Về! Dĩ nhiên là phải về. Nhưng về trong tình cảnh này sao? Chơi đại một chiếc kiếm vốn, đua về trốn luôn ở dưới mà làm lại cuộc đời! Chơi đi, đâu có khó gì…

Hắn đứng bật dậy. Người hắn loạng choạng. Từ sáng

tới giờ hắn có miếng nào trong bụng đâu! Đói chịu hết xiết. Muốn làm gì thì cũng phải ăn cái đã. Mọi chuyện tính sau. Tiệm phở đông nghẹt. Hắn bước vô, đứng ngay xe. Mùi phở bốc lên nồng nực, thơm phức. Cái mùi đủ làm cho người chết sống dậy. Hắn ấp úng gọi:

– Bà chủ…

Người đàn bà đứng nấu, đang tất bật với múc, chan. Mồ hôi nhể nhại. Nghe hắn gọi, không thèm ngó, sẳng giọng:

– Tui không phải chủ. Chủ ngồi trong kia kìa…

Hắn nuốt nước miếng ừng ực, nói tiếp:

– Bán cho tui tô 30 ngàn nhiều bánh được không?

Chị ngừng tay, ngước lên nhìn hắn:

– Vô bàn ngồi đi!

Hắn tìm cho mình một chỗ trống, ngồi xuống. Tô phở đầy ắp, thịt cả đống, được thằng nhỏ bưng ra. Ngó chừng có phần còn nhiều hơn những tô khác. Hắn cắm cúi ăn, nghe từng miếng trôi qua miệng, xuống bụng, nghe cái ngọt ngào của từng muổng nước lèo thấm ra da thịt. Tới lúc hắn buông đủa, thì cái tô sạch nhách, một miếng hành cũng không còn. Mắt hắn sáng lên. Người hắn phấn chấn. Hắn kêu tính tiền. Thằng nhỏ chạy lại, hắn đưa tiền. Thằng nhỏ đếm:

– Thưa, mới 30, 35 ngàn một tô…

Hắn sượng ngắt, chỉ tay về phía người đàn bà:

– Tui kêu tô 30…

Thằng nhỏ day qua ngó chị như hỏi. Vài người ngồi quanh ngó qua hắn, nghi nghi, ngờ ngờ. Không lẽ cái bộ dạng của hắn tệ dữ vậy sao? Chị rời chỗ đứng đi về phía hắn, ngó cái tô phở trống trơn, rồi ngó hắn:

– Ăn được không chú Tư? No chưa?

Hắn gật, rồi nhắc lại:

– Tui kêu tô 30…

Chị gạt ngang, cười:

– Ai chẳng có lúc quên. Cái này là tui quên chứ không phải chú quên, bỏ qua nhe!

Giọng chị nhỏ lại:

– Tui để ý chú tự nảy giờ. Về quê hả? Về đời lâu mau rồi? Mới ra hả?…

Hắn lại gật:

– Sáng nay…

Chị giằng lấy 30 ngàn trong tay thằng nhỏ, nhét sâu vào túi áo hắn, để tay ở đó một chập, rồi nói lớn:

– Đi cho kịp chuyến xe, chú Tư.

Lại Tư! Hắn cu ky một mình, có anh có em gì đâu mà Ba, mà Tư! Người đâu ngộ thiệt! Quen biết hồi nào đâu mà kêu hắn thứ Tư, trật lất. Hắn nhìn chị, nghẹn ngang. Lí rí cám ơn, rồi đi thẳng.

Ngoài cửa, một cặp trai gái vừa tấp chiếc SH, nắm tay nhau đi vô, cùng lúc với hắn đi ra. Tay hắn giựt giựt. Cơ hội ngon ăn hết biết! Hắn vịn tay lên ghi đông chiếc xe, lắc nhẹ như tình cờ đi ngang bị vướng, tay kia rờ lên túi. Thò luôn tay vô trong. Tấm giấy ra trại còn nguyên. Tiền chị nhét vô còn nguyên. Cây đoản mở khoá biến đâu mất. Hắn thở dài, coi như xong! Chắc Trời khiến!

Hắn đi thật nhanh như chạy. Tiếng chị vang theo sau lưng:

– Về khoẻ nghen chú Tư. Có lên trên này chơi nhớ ghé nhe…

Chị nói mà bàn tay nắm lại, hình như có cái gì của hắn trong đó…

Sưu tầm

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 3

 ÂM VANG !


260017306_635043001070226_2417789925489556775_n

ÂM VANG !

Tiếng đàn em vang lên trong đêm vắng,
Anh có nghe thấy hồn Mandolin?
Réo rắt rung từng cung điệu trữ tình,
Ngón tay gầy em lướt trên phím đàn,

Bàn tay thon rung lên những âm vang…
Và âm thanh trong lòng em thánh thót,
Vượt bay qua ngàn mây cao chót vót,
Đến bên anh trở thành tiếng thầm thì,

Vâng lời anh mời gọi cuộc tình si !
Tình anh trao trên môi em trẻ dại,
Trổ ra loài hoa nghiệt ngã đầy gai,
Thanh xuân em tươi hồn anh cằn cỗi,

Em vụng về nuốt cay đắng đầu đời !
Đời bắt đầu hôm nay bao năm trước
Khóc oe oe chưa biết gì mơ ước
Em rớt vào thế giới chẳng hề mong

Anh đã đủ lớn khôn trong cuộc sống
Cuộc sống ta cách biệt khoảng trời mây
Anh toan tính bằng cả mười ngón tay
Em chưa kịp qua hết tuổi ngây thơ

Bước theo anh tâm trí vẫn khù khờ
Vẫn khù khờ rung tiếng mandolin
Từng âm vang như trói chặt quanh mình
Đàn réo rắt mà tưởng tiếng oe oe

Khóc chào đời, khóc đủ để đem khoe !
Vang trong đêm tiếng đàn em khờ dại,
Anh rời xa theo khúc nhạc bi hài
Và từ đó tiếng đàn không còn nữa !
Con Gà Què Azalea 

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 3

CÓ PHẢI LÀ TÌNH YÊU ?!


259477149_2153878684801587_6505079789958152999_n

CÓ PHẢI LÀ TÌNH YÊU ?!

Thật hay không có phải tình yêu tới,
Giữa u mê sóng vỗ nhấp nhô hồn ?
Trái tim tôi ngả nghiêng và khốn đốn,
Hồn dại khờ trĩu nặng nỗi đắng cay !

Thật hay không tình quá đỗi bi ai,
Trong lặng lẽ xin làm người chiến bại ?
Chẳng cùng nhau hẹn ước một tương lai,
Không chiến trường vẫn kẻ thua người thắng !

Có thật không tình như trăng tỏa sáng,
Hay đen ngòm tựa đêm tối mịt mù ?
Khi niềm tin đang mới vừa chợt nhú,
Bỗng héo tàn bị dối trá phủ vây !

Thật hay không tình đã chẳng còn đây,
Mới thương nhớ bỗng lìa xa mãi mãi,
Vừa đắm say đã vội vã tàn phai,
Bay đi mất như mây chiều lộng gió !

Có phải chăng tình đã chết co ro,
Hồn tê tái giữa mùa đông lạnh giá.
Mùa xuân về nắng ấm đã lạ xa,
Tình đã mất dù đã âm thầm tới !

Con Gà Què Azalea

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 3

KHÓC ĐI EM.


83bda-nuoc2bm25c42583t

KHÓC ĐI EM.

Khóc đi em cho cạn dòng nước mắt,
Bấy nhiêu năm đã đủ héo hắt lòng.
Ôm ấp chi một cuộc tình vô vọng,
Chiều đã tàn hồn trĩu nặng đắng cay.

Khóc đi em cho đớn đau tuôn chảy,
Ngập tràn trên đồng trống buổi hoàng hôn.
Giữa hoang vu không một nơi ẩn trốn,
Tình phơi trần, chết chẳng kịp kêu than !

Khóc đi em để trôi lời ta thán,
Rồi hóa thân thành sỏi đá vô tri.
Hồn em chắc sẽ không còn mộng mị,
Nằm chơ vơ trong nắng sớm mưa chiều…

Khóc đi em cho trái tim tàn héo,
Lần cuối cùng lặng lẽ khóc chia phôi.
Tình oan khiên lịm dần vào tăm tối,
Đợi chờ người dẫm đạp vẫn trơ trơ.

Khóc đi em nhìn thật sâu để nhớ :
Cuộc tình hờ  chỉ là thoáng phù vân,
Khóc đi em để chẳng còn vương vấn,
Khóc đi em đưa tiễn xác thân tàn !
Con Gà Què Azalea

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 3

CHỜ ĐẾN BAO GIỜ !


Cô gái áo xanh ngồi chống tay vô cằm

CHỜ ĐẾN BAO GIỜ !

Nâng niu kỷ niệm chắt chiu
Từng đêm hồn lạc qua nhiều cõi mơ
Tháng năm trôi… vẫn đợi chờ
Tuổi xanh héo úa bao giờ thấy nhau?
Đếm xuân vội vã tàn mau
Rưng rưng lệ ứa dạt dào xót thương
Tóc thề điểm bụi khói sương
Tình xưa nghĩa cũ vẫn vương nặng sầu !

Thôi thì thôi hãy quên nhau !
Còn gì đâu nữa mái đầu bạc phơ !
ConGàQuè Azalea

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 2

RỒI CŨNG PHAI TÀN !


RỒI CŨNG PHAI TÀN !

Đào vừa nở trong vườn,
Đỏ thẫm (*) dưới ánh dương,
Chỉ một cành nho nhỏ,
Cả một vùng ngát hương !

Hoa đào nở muộn màng,
Mừng xuân Mỹ vừa tàn,
Đua nhau cùng khoe sắc,
Mặc tết đã sang trang !

Chậu hoa đào bon sai,
Èo uột mà sống dai,
Chết đi rồi sống lại,
Dường như biết đầu thai !

Cũng giống như chủ thôi,
Đã chết tới gốc rồi,
Bỗng dưng bung cành lá,
Nụ cũng vội đâm chồi…

Rực rỡ rồi cũng phai,
Sắc thắm chẳng kéo dài,
Hoa sẽ tàn tơi tả,
Đảo chao theo gió bay !
ConGàQuè Azalea
(*) Hoa đào này thơm dịu, có tên Double Take Scarlet Storm Flowering Quince

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 2

MỘNG TÀN?!


Trăng Thu.Tranh Nguyen Son

MỘNG TÀN?!

Từ ngày ấy bỗng như mõm chó đen,
Ta muốn thành tiên cỡi hạc về trời,
Đời ở lại xin vẫy chào, bước tới…
Giấc mơ nào một phút vội tiêu tan !

Chẳng lẽ ta đành đoạn để mộng tàn?
Trong khoảnh khắc ta hóa hồn gỗ đá,
Trổ rong rêu phủ kín gấm lụa là,
Và cứ thế đôi cánh tiên nát vụn…
Tả tơi đời bay khắp cả không trung !!!
Con Gà Què Azalea

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 2

TUỔI HAI MƯƠI ! / NGƯỢC DÒNG


TUỔI HAI MƯƠI !

TUỔI HAI MƯƠI !

Hãy đưa tôi lại thuở xưa ơi,
Khi ngập trong hồn giấc viễn khơi…
Một mảnh tình riêng còn giấu kín,
Tuổi hai mươi mộng mị xa vời !
CGQ Azalea

NGƯỢC DÒNG

Chẳng biết bao lâu lội ngược dòng,
Cớ sao trống vắng buổi đầu đông !
Người thân lặng lẽ lìa xa hết,
Bè bạn âm thầm giã biệt xong !
Giữa sóng cuồng mê hồn đắm đuối,
Trong cơn quay quắt dạ mênh mông…
Bởi sinh ra đã lầm thiên kỷ,
Chỉ một mình thôi có bõ công?!
Con Gà Què Azalea

Họa :

Chỉ một mình thôi thiệt bõ công
Thả trôi lờ lững để xuôi dòng
Trống vắng tuỳ thời lòng ta biết
Sum vầy ly biệt thế cũng xong
Cuồng nộ thêm thương lần đắm đuối
Đôi bờ thương nhớ lắm mênh mông
Hỡi ơi ai biết người tri kỷ ?
Xanh mắt tô mày chẳng bõ công !!!
Nhat Yen

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
Chuyện ngắn

BÁO ƠN


441051146_430401276447063_1846340033782125114_n

 

BÁO ƠN
Vào thời cổ đại, ở những khu vực đông dân cư, vào mỗi ngày tốt lành cho kết hôn, thông thường sẽ có hơn chục gia đình kết hôn cùng một lúc. Một ngày nọ, có hai gia đình chuẩn bị lễ cưới cho con gái của họ, một nhà rất giàu, nhà kia thì bần cùng cực độ. Khi họ đi được nửa đường, kiệu hoa của hai gia đình đã gặp nhau. Trời đột nhiên đổ mưa to, những người khiêng kiệu của hai gia đình hạ kiệu hoa dưới mái nhà trạm, rồi mỗi nhà tìm một chỗ trú mưa.
Nàng dâu nhà nghèo khóc lóc thương tâm trên kiệu, khóc mãi không ngừng. Tân nương nhà giàu nghe vậy rất buồn, liền sai hầu gái đến hỏi xem tại sao cô ấy lại buồn như vậy. Nàng dâu nhà nghèo trả lời, nói: “Nhà mẹ tôi rất nghèo, bây giờ lại kết hôn với con trai của một người ăn xin, không biết ngày sau rồi sẽ ra sao, vì vậy tôi rất bi thương.”
Những lời này khiến nàng dâu nhà giàu thâm cảm, chạnh lòng thương xót, đồng tình với cô gái, bèn lấy từ hành lý ra hai túi hương nang thêu hoa, mỗi túi đựng một thỏi vàng nặng hơn 20 lượng là của hồi môn của mình, rồi sai thị nữ mang đến tận tay cô dâu nhà nghèo, nói rằng do nhân duyên tế hội bất ngờ, không thể tặng cho cô ấy một món quà tốt hơn, những thỏi vàng này có thể đổi lấy một số tiền để họ ngày sau không phải chết đói chết cóng. Nàng dâu nghèo cảm tạ, nhận những thỏi vàng.
Nàng dâu nghèo vừa định hỏi tên ân nhân, thì lúc này trời đã tạnh mưa, người khiêng kiệu thúc giục mọi người lên kiệu, sau đó từng nhà rời đi. Sau khi về nhà chồng, nàng dâu nhà nghèo đã giao lại hai thỏi vàng mà nàng dâu nhà giàu đã tặng cho chồng mình, lấy chúng làm vốn để kinh doanh. Hai vợ chồng rất cần cù chịu thương chịu khó, bắt đầu từ việc buôn bán nhỏ, dần dần việc buôn bán càng ngày càng làm lớn, gia đình nhanh chóng trở nên phú dụ. Họ rất nhanh trở thành một doanh nhân lớn ở địa phương, sau đó lại mua rất nhiều đất đai và điền trang. Nhưng những tài sản họ mua đều theo cặp, mua đất thì nhất định phải là hai mảnh đất, mua nhà thì hai căn nhất định phải giống nhau, tiền làm ăn kiếm được cũng phải chia thành hai phần. Bà chủ rất hào phóng và rộng rãi, được người dân địa phương khen là người tốt bụng.
Sau hơn mười năm chung sống, bà chủ sinh được một cậu con trai, coi cậu bé như viên ngọc trong lòng bàn tay, cẩn thận tuyển chọn nhũ mẫu cho cậu. Sau khi nhũ mẫu đến, tì nữ và bộc nhân chỉ vào một lầu nhỏ ba tầng ở phía sau nhà, nói với nhũ mẫu: “Bà chủ mỗi sáng sau khi tắm rửa xong, sẽ cầm lư hương lên lầu. Cô không được lên lầu lúc đó, nếu vi phạm quy định, cô sẽ bị xử phạt.” Nhũ mẫu hỏi nguyên do, những người khác đều nói: “Chúng tôi đã ở đây hơn mười năm, mọi người đều không biết, chỉ biết cần tuân thủ quy định.”
Đứa trẻ bú sữa nhũ mẫu dần lớn lên, đã có thể đi lại. Một hôm đứa trẻ muốn leo lên lầu, bị nhũ mẫu ngăn lại, đứa trẻ òa khóc, nhũ mẫu đành phải theo nó lên lầu. Cô phát hiện trong lầu không có vật gì, ngoại trừ một lư hương và một bàn thờ hướng về phía nam, phía trước có bức màn che. Nhũ mẫu bèn vén bức màn lên nhìn hồi lâu, đột nhiên bật khóc lớn. Những người khác nghe thấy âm thanh, liền nói với bà chủ, đưa nhũ mẫu đến gặp bà chủ để hỏi tội.
Nhũ mẫu nhận tội, nói: “Tiểu Lang muốn leo lên lầu, tôi sợ cậu ấy ngã nên trong lúc vội vàng không suy nghĩ kỹ đã vi phạm quy định. Nên phải bị phạt thế nào, tôi không oán trách gì.” Bà chủ hỏi nhũ mẫu tại sao lại khóc, nhũ mẫu rơm rớm nước mắt, nói: “Tôi thấy bên trong treo một gói hương nang thêu hoa, rất giống với gói hương nang mà tôi năm xưa đã nhét vào tay áo khi xuất giá. Vào ngày tôi xuất giá, trên đường đi, tôi đã đưa cả gói hương nang và thỏi vàng trong đó tặng một tân nương khác. Đương thời nhà tôi và nhà chồng đều rất giàu có, hai thỏi vàng đó tôi không để tâm, cũng không biết nó đáng giá thế nào. Tôi không ngờ mình sẽ có ngày lạc vào cơ cực như hôm nay.” Nói xong, nhũ mẫu lại òa khóc, nữ tì bèn ngăn cô lại.
Bà chủ hỏi cô: “Em lấy chồng năm nào, tháng nào?” Nhũ mẫu trả lời chính xác về ngày cưới. Bà chủ lại hỏi: “Ngày em xuất giá, trời có mưa không?” Nhũ mẫu đáp: “Nếu trời không mưa thì túi hương nang thêu hoa vẫn ở với em.” Bà chủ nghe xong im lặng, cũng không quở trách gì, chỉ lặng lẽ đi tìm chồng mình. Nhũ mẫu tưởng rằng mình sẽ bị đuổi việc, cô vô cùng buồn bã.
Ngày hôm sau, chủ nhà trang trí đèn lồng và dây hoa, mời một đoàn kịch, giống như để chiêu đãi những vị khách quý, tất cả người nhà và họ hàng đều được mời đến. Đến lúc khai tiệc, trong sảnh sắp xếp hai bàn tiệc, phía trên sảnh đặt hai chiếc ghế, bên cạnh đặt hai chiếc bàn nhỏ, trên đó chất đầy sổ sách kế toán cao khoảng một thước. Chồng của nhũ mẫu đang ở ngoài, bà chủ sai bốn người hầu mang anh vào, bốn nữ tì cũng mời nhũ mẫu ra khỏi phòng, bảo họ ngồi ở hai chiếc ghế phía trên, ngồi yên bất động.
Thế rồi, cả ông chủ và bà chủ hướng tới hai người bái tạ, rồi đứng dậy nói: “Người được quý nương tặng thỏi vàng năm xưa chính là hai vợ chồng chúng tôi. Nếu không có hai thỏi vàng mà quý nương tặng, chúng tôi sẽ không có ngày hôm nay. Vì vậy, gói hương nang thêu hoa của ân nhân được cất giữ trên lầu, chính là biểu thị chúng tôi vĩnh viễn không quên ân đức của ân nhân. Chúng tôi ngày ngày đều thắp hương tham bái, hy vọng có ngày được gặp lại ân nhân, nên gia sản đều được chia đôi, không dám một mình độc chiếm. Hiện tại chúng tôi đã được Thượng Thiên chiếu cố, cuối cùng không cô phụ ân tình. Số điền sản, tài vật hiện nay đều được phân thành hai phần, chúng tôi xin giữ lại một nửa, còn một nửa thỉnh ân nhân nhận giúp.” Nói rồi, ông chủ hướng tới họ hàng biểu thị không có gì dị nghị.
Nhũ mẫu và chồng bối rối đến mức lúng túng, chỉ có thể nhắc đi nhắc lại “Không dám, không dám”. Chủ nhân mời mọi người ngồi xuống, bắt đầu nâng cốc chia vui, yến tiệc bắt đầu, âm nhạc của đoàn kịch vang lên. Đến hai giờ sáng, sai người hầu thắp đèn đưa hai vợ chồng nhũ mẫu đến sống ở căn nhà phía đông, giường chiếu, đồ đạc bài trí trong đó đều không khác gì nhà chủ.
Có người thắc mắc, tại sao cặp vợ chồng nhũ mẫu chỉ ngồi không mà được hưởng thụ thành quả tốt đẹp như vậy? Nhưng thực chất, chính lòng trắc ẩn, lòng tốt của cô đã giúp người phụ nữ nghèo biến trở nên giàu có. Mà người phụ nữ nghèo đột nhiên thành giàu có, lại muốn được báo đáp ân nhân của mình, đây chính là sự an bài của số phận, tạo hóa sao có thể tùy tiện ban phát hạnh phúc cho con người?
Hương Thảo (Theo Epoch Times)

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 3

TIỄN ANH


Cau tau Galang 1

TIỄN ANH

Tiễn anh ra bến tàu,
Hồn em sao u sầu?!
Mừng anh đi định cư,
Em ở lại lòng đau !

Tiễn anh lìa nơi đây,
Dường như em đã thấy,
Từ nay là vĩnh biệt,
Chợt nghẹn ngào đắng cay !

Anh đến vùng băng giá,
Em về nơi nắng lóa,
Hai quốc gia xứ lạ,
Bắt đầu cuộc chia xa…

Chỉ còn giây phút thôi,
Hãy vui, đừng nghẹn lời…
Hôm nay em tiễn anh,
Tiễn lần cuối trong đời !

Rồi chỉ còn mình em,
Vô vọng dưới trăng đêm,
Lẻ loi trên biển vắng,
Nghe đau buồn nặng thêm !

Đến một ngày em xa,
Về nơi sẽ gọi : nhà…
Chẳng còn ai đưa tiễn,
Đành vĩnh biệt tình ta !!!
Con Gà Què Azalea

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 3

CÒN GÌ NỮA ĐÂU !


Cô gái ngồi chống tay vô cằm giữa những mảng đủ màuTranh Nguyen Son

CÒN GÌ NỮA ĐÂU !

Ôi ! đêm đông sương !
Tóc phủ tuyết sương,
Hơi sương mờ mắt, 
Lạc bước trong sương…

Từ dạo chia tay,
Đếm từng ngón tay,
Trên tay tình mất,
Vương vấn vòng tay…

Nhớ ngày chia ly,
Những câu từ ly,
Phân ly nghẹn thắt,
Bỗng thành biệt ly !

Người đã quên mau.
Tình phai tàn mau.
Trôi mau ngày tháng.
Tuổi xuân qua mau.

Tình ấy còn đâu !
Người ở nơi đâu?
Tìm đâu nào biết !
Còn gì nữa đâu !
ConGàQuè Azalea

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 3

SÂN GA VÀ CHUYẾN XE ĐỜI


SÂN GA VÀ CHUYẾN XE ĐỜI

Đời ta những chuyến xe,
Gặp vội rồi xa lẹ,
Nơi tạm dung hoang đảo,
(Như sân ga nhỏ bé).

Trong định mệnh chúng ta
Ai mới là sân ga?
Và ai xe đời nhỏ?
Hay cả hai ta là?

Khi chuyến xe đời anh,
Dừng nơi một khúc quanh,
Em bước lên vội vã
Xe phóng chạy thật nhanh

Xe dừng nơi ga nhỏ,
Giữa hồn em bỡ ngỡ,
Anh xô em xuống đời,
Ngây ngô và ngẩn ngơ !

Em bỗng thành sân ga
Nhìn theo chuyến xe lạ
(Là chuyến xe rất quen)
Chạy qua ga về nhà !

Con Gà Què Azalea
GL 8/1980

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 3

TÌNH SI


Lặng lẽ dưới Trăng

TÌNH SI

Giã từ nhau buổi ấy
Ngày tháng xanh xao gầy
Đếm tuổi xuân tàn úa
Trôi trên từng ngón tay

Đã mấy mươi năm qua
Ngàn dặm xa cách xa
Hương xưa còn thoảng mãi
Dấu tình không phai nhòa

Tình lắng sâu đáy hồn
Dại tê trên môi hôn
Mảnh tim nào rạn nứt
Chẳng còn nơi vùi chôn

Trong bóng hoàng hôn đời
Chút hạnh phúc nhỏ nhoi
Nồng ấm chiều tàn héo
Sao nỡ đành đánh rơi!

Như lưới nhện vướng quanh
Dấu tình bao vết hằn
Si cuồng thêm trăm nhánh
Thời gian trôi, trôi nhanh

Thời gian lặng lờ trôi
Bước chân xưa rã rời
Trên dấu xưa gục ngã
Tình si dâng chơi vơi…

Con Gà Què Azalea

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 1

NHỮNG ĐÔI GIÀY


woman-shoes-79222891

NHỮNG ĐÔI GIÀY

Từng chiếc giày ta mang dưới chân  
Giúp ta đi hết đoạn đường trần
Mỗi ngày nhiều loại ta đang diễn
Vai đứa hề, vai đỏm dáng sang

Cuộc đời ta là một sân khấu lớn
Giày càng nhiều, ta càng diễn hay hơn
Đời càng dài, càng đi thêm vững chải
Giày bon chen luồn lách bước chân dài

Giày giúp ta lên tột đỉnh quang vinh
Dẫn ta tới những nhơ nhuốc bùn xình
Rồi dìu ta vào vũng lầy trơ tráo
Ta điềm nhiên cởi ra từng lớp áo
Mặt điểm trang trét dầy thêm lớp phấn
Bỏ quên mình ta bán rẻ lương tâm…

Rồi một hôm trong bóng tối cuộc đời
Ta xỏ lầm đôi giày rách, than ôi !
Giày ai kia chà đạp ta bầm dập
Giày rách bươm, lê những bước chân trần !

Nếu như chỉ có một đôi giày
Sao bước cho xong kiếp đọa đầy ?!
Chưa thể thảnh thơi ngồi bó gối
Đời còn chao đảo, biết sao đây?!

Con Gà Què Azalea
*Tặng Thầy Danh vì thầy đã nói chỉ cần 1 đôi giày và Cadao

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 2

VĨNH BIỆT NHỮNG ĐÔI GIÀY CAO GÓT


woman-shoes-79222891

VĨNH BIỆT NHỮNG ĐÔI GIÀY CAO GÓT

Này những đôi giày cao gót của tôi,
Đã từ lâu vẫn gắn bó chung đời,
Cùng yểu điệu dạo đồng xanh tươi thắm ,
Tam tứ ngũ tuần… vững chải bao năm.
Và e dè từng bước chậm đắn đo,
Từng bước âm thầm sống chết giằng co !

Sao bỗng dưng giày dỗi hờn lẳng lặng,
Không một lời, câm nín chẳng nói năng?
Dửng dưng lạnh lùng giữa lòng trống rỗng,
Đôi chân tôi đành lạc khoảng hư không…
Giầy từ chối hai bàn chân nhức nhối,
Hai bàn chân uất nghẹn xót thương tôi !

Thì thôi nhé hãy từ từ chớ vội,
Nằm thẳng hàng trong tủ xếp thành đôi.
Hãy làm thinh nép mình vào bóng tối,
Yên nghỉ thôi cửa đã đóng chặt rồi !

Cùng quấn quít thời gian dài vời vợi,
Khi lìa nhau chẳng thể nói thành lời,
Xin vĩnh biệt quá nửa đời chung lối,
Hỡi những đôi giày cao gót của tôi !

Con Gà Què Azalea

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
6 - Thơ Con Gà Què Azalea Thơ Con Gà Què 1

SƯ THÍCH RƯỢU TÌNH


SƯ THÍCH RƯỢU TÌNH

Đầu trọc uống say thiệt quá phê
Gái ngồi bên cạnh ôi đê mê
Tụng kinh phiền toái sư không muốn
Chỉ thích cùng nàng tò tí te !

Bớ chúng sinh mau dâng cúng đi
Tiền khôn đưa trước chớ lo chi
Mây mưa xong việc sư cầu vái
Ới Phật Hù ơi ! Tới nhị tì !
Con Gà Què Azalea

Trở về =>   Thơ Con Gà Què Azalea  –  Văn Con Gà Què Azalea

HOME

Categories
Chuyện ngắn

TAN THEO SƯƠNG MÙ


Cô gái áo vàng và mấy thứ xung quanhTranh Nguyen Son

TAN THEO SƯƠNG MÙ

NGUYỄN THỊ HOÀNG

Gần hai mươi năm nay, cùng với người vợ dấu yêu luôn luôn bên cạnh, ông Mishio du lịch đã nhiều nơi, dự bao nhiêu hội nghị, có mặt trong những buổi tiếp tân tiếng tăm và lộng lẫy nhất, những bữa tiệc sang trọng và danh dự nhất, đã tiếp xúc với bao nhiêu khuôn mặt, tên tuổi lẫy lừng, danh vọng bậc nhất, xứ này và xứ khác, nhưng chưa bao giờ ông nhìn thấy một bóng dáng đàn bà nào như thế. Chưa bao giờ. Chỉ có những vóc dáng Tây phương rỡ ràng và quyến rũ, những đường nét đa tình thanh lịch của Đông phương như Trung Hoa hay Đại Hàn, hoặc cả những tài tử điện ảnh là những nhan sắc nổi bật nhất trong giới nữ lưu cao cách, nhưng chưa bao giờ ông tìm thấy đúng những đường nét uyển chuyển, mộng mị và tuyệt vời cho một cảm hứng bức tranh chưa bao giờ vẽ…
Người đàn bà ngồi đó, một tay nâng tách trà, một tay tì nhẹ lên thành trường kỷ cần xà cử, hai chân khép nép xếp vào nhau, tà áo đen dài ẻo lả buông xuống tận mũi hài thêu hoàng hạc lượn, mái tóc đen hơn nhung vén cao từng lọn nhỏ và thanh trên đỉnh đầu tròn nhỏ nhắn, để hé một nét cổ trắng ngần chảy xuống khung ngực áo rộng hình vuông lấp lánh một cành huyết ngọc bên phía trái.
Trong khung mắt vương buồn, người đối diện vẫn tìm thấy một lấp lánh ánh sắc tươi vui, hân hoan, như một thứ ánh đèn lồng hò hẹn trong vườn cây làm tăm tối sao mờ, dấu hiệu của một giờ tình tự ngọt ngào đằm thắm… Nét mày cong thỉnh thoảng cau lại, như hỏi han ân cần, như hờn giận nũng nịu, như vòi vĩnh van lơn làm nõn nàng đôi gò má cao phơn phớt một thoảng hồng man mác toả xuống đôi môi san hô non mấp máy giấu che hai hàng răng màu lựu non hé hé từng lời nói tiếng cười. Giọng nàng nhỏ, thanh, nhưng nghe rõ, như tiếng vang xa được lọc qua những tầng thanh khí trong vắt vắng im, nghe xa vời như từ cõi nào vọng vang, mà gần gũi như thủ thỉ gần kề bên gối.
Một chút vâng, một chút thưa, nàng dịu nhẹ, khoan thai, trân trọng trong câu chuyện, từng lời từng chữ nhỏ nhẻ, vừa ân cần từ tốn, vừa kiểu cách đoan trang, làm người nghe cảm tưởng mình luôn luôn được trọng vọng, kính nhường yêu dấu vô chừng…
“Thưa ông, ông bà còn ở lại đây chừng bao lâu mới trở về Nhật”. Nàng hỏi, với một thoáng nghiêng đầu dịu dàng và ánh mắt nghiêng hẳn về người đối diện chờ câu trả lời.
Ông Mishio bâng khuâng nghe chính tiếng nói mình lạ hẳn đi:
“Chúng tôi có lẽ phải về ngay sau buổi tiếp tân chiều nay”.
“Cuộc vui còn dài, ông bà vắng mặt, chúng tôi, những người ở lại sẽ mến tiếc vô cùng”.
Nàng nói và đối xử với những cử chỉ, cung cách và lời lẽ đặc biệt Đông phương như thế.
“Chúng tôi cũng tiếc, có phải không, mình nhỉ” – ông quay sang phía bà vợ mặc áo kimono tím với những tấm hoa in màu trắng xám, ngồi ghế bên cạnh, nhưng mà không thể làm sao hơn – “vì chúng tôi có việc cần chờ ở nhà”.
Bà vợ ngồi bên cạnh, im lặng, thỉnh thoảng một nụ cười dịu dàng, hiểu biết nở trên đôi môi hình trái tim nhỏ xíu màu hồng non. Theo ông, bà không biết một ngoại ngữ nào cả, và ngay đến tiếng Nhật, nhiều khi những người khác nói bà cũng không nghe hiểu nữa. Người đàn bà nói:
“Như vậy” – là vì bà chỉ biết có ông và muốn nghe mình ông thôi. Ông là vũ trụ của bà.
Người đàn ông chợp mắt, những vệt tóc trắng mềm mại rủ xuống vầng trán cao.
Ông tiếp tục giới thiệu vợ mình với người đàn bà vừa được gặp:
“Nhà tôi ít nói, gần như là không nói chuyện, nhưng hiểu biết tất cả mọi vấn đề, còn thông thái và sâu xa hơn cả sự hiểu biết của tôi. Nhất là về hội hoạ, chính khi tôi đang hoạ tranh, đang phân vân về màu sắc nào cho thích hợp với đường nét của bức tranh, nhà tôi đã chọn hộ màu đúng như tưởng tượng. Việc gì cũng thế, nhà tôi như lột hết những ý nghĩ thầm kín của tôi và làm giúp trước khi tôi thực hiện được.
Người đàn bà ngắm nghía và Mishio với một vẻ thán phục và cảm mến chân thành:
“Bà thật đáng quý, hai ông bà như vậy, đã tạo ra một thế giới riêng tư, không cần gì đời sống chung quanh nữa rồi”.
“Vâng, chúng tôi có thế giới riêng tư, và vì vậy, luôn luôn phải chống đối với bất cứ xâm nhập nào của người ngoài, đôi khi…”
Bà vợ vỗ nhẹ bàn tay mũm mĩm lên cánh tay chồng nói một câu dài tiếng Nhật.
Ông ta quay lại phía người đàn bà áo đen, tiếp tục câu chuyện, nhưng vấn đề khác.
“Thưa bà, còn bà ở lại đây bao lâu?”
Mặc dù cuộc vui vẫn còn tiếp tục, nhưng nếu ông bà ra về, có lẽ tôi cũng phải từ bỏ hết đi theo, bởi vì, xin thú thật trong đám quan khách kia, tôi không tìm thấy một ai có thể ý hợp tâm đầu để trò chuyện, dù chỉ là những chuyện vu vơ. Như thế, là tôi cũng sẽ sang Nhật khi ông bà đi rồi…
Người đàn bà ra ý hiểu điều người lạ nói, liếc nhanh dò xét nét mặt chồng. Nhưng trong khuôn mặt khả kính của người đàn ông yêu dấu, bà không tìm thấy một thoáng xúc động nào cả, nên lại cúi mặt xuống, ngắm những móng tay màu hồng nhạt của mình, khẽ mỉm cười âm thầm.
Bên kia, người ta đang tán tụng, chúc mừng nhau theo nghi lễ. Hình như Tổng thống và phu nhân đang lần lượt bắt tay quan khách để ra về. Những người hầu cận rào rào chạy lên xuống những bậc thang lầu trải thảm nhung đỏ. Tiếng áo xiêm sột soạt cạnh những hàng ghế bọc gấm. Rồi tiếng chân như xa dần dưới kia lầu.
Người đàn ông ngồi lại bên cạnh vợ, chỉ tiếp những bạn bè bằng hai con mắt đằm thắm nhìn theo, nói với người đàn bà bằng thứ giọng nhỏ và trầm của ông.
“Hình như họ ra về hết. Bà đã về chưa?”
“Bao giờ ông bà đứng lên, tôi sẽ xin theo”.
“Không, chúng tôi theo bà”.
Nàng nói:
“Chúng ta ra ngoài kia xem cảnh yên ba của buổi chiều”.
Nàng nói, và lùi lại, nhường cho người đàn ông đi trước, rồi dịu dàng, niềm nở, với một chút tôn quý nàng nâng cánh tay bà Mishio, dìu bà ta theo mình, sau lưng người đàn ông.
Bà vợ cười, im lặng, cánh tay nhẹ hẫng tay nàng, và bước đi nữa, cũng như lãng đãng vật vờ trong sương sao.
Người đàn bà ra tựa lan can, nhìn xuống mặt hồ khói mây mịt mờ dạo chơi lãng đãng trên những bờ cây sẫm sắc chiều hôm. Tiếng ông Mishio ung dung đều đều bên cạnh.
“Không bao giờ có nét bút hoạ nổi những cảnh nét quá tuyệt vời trong thiên nhiên và đời thật, đáng tiếc”.
“Thế sao những bức tranh vẫn đẹp hơn những cảnh ngoài, thưa ông?”
“Chỉ khi người vẽ tìm thấy đúng một ảo giác nào đó. Với tôi, hoạ tranh do xúc động hơn là ảo giác, nhưng chính sự xúc động thái quá làm xô lệch hết màu sắc và đường nét. Ví dụ như…”
Giọng ông chìm rồi tắt.
Người đàn bà tưởng chừng như họ, cả hai vợ chồng, đã tan biến vào thinh không.
Nàng quay lại ông Mishio đang ngẩn ngơ nhìn phía sau mình. Người vợ đã đi đâu mất. Ông ta có vẻ buồn bã, băn khoăn.
“Nhà tôi đi xuống dưới ấy rồi”.
“Dưới ấy là ở đâu ông?”
“Dưới ấy mà…”
Ông Mishio nói lửng lơ, rồi thở dài kín đáo và tì tay vào lan can, hai mắt đắm chìm vào bóng chiều tịch mịch vây phủ quanh lầu. Trong mắt ông bây giờ, những người khách cuối cùng qua lại đó, cũng ẩn hiện, lãng đãng như khuất chìm trong sương, những tiếng động cũng nhỏ và xa như tiếng ông trên môi mấp máy. Mọi sự đều mơ hồ xa tắp trong cảm nhận mịt mùng lênh láng của ông bây giờ. Người đàn bà trong mắt ông bỗng nhỏ lại, mất hết bề dài, chiều dày, chỉ còn lại một nét thuôn mơ mòng trong hai mắt ông hình dung bức tranh sẽ vẽ. Nhất định sẽ vẽ bức tranh chờ đợi. Nhập nhoà trên bức tranh phác hoạ với tưởng tượng và ký ức, ông thấy như có khoé mắt nhìn trách móc của bà Mishio. Ông nói thầm trong im:
“Không phải như mình đang nghĩ và làm đâu mình yêu quý ạ, nhưng tôi chỉ muốn thực hiện bức tranh mong ước thôi. Cả một đời người, chỉ vẽ được một bức tranh như thế thôi, mình nỡ buồn lòng và hẹp lượng sao? Cho tôi vẽ, nghe mình, nghệ thuật là nghệ thuật, mình phải hiểu, như mình đã gần và đã hiểu tôi, hai mươi năm xưa, và hai mươi năm từ ấy đến bây giờ…”
Mặc dù băn khoăn về việc bỏ đi đột ngột của bà vợ, ông Mishio vẫn trao cho người đàn bà lạ tấm thiếp, căn dặn đường đi và nơi chốn rõ ràng, mời nàng đi sang Nhật bớt chút thời giờ ngắn ngủi ghé thăm ông bà ở Kyoto, một ngôi nhà u tịch gần ngôi chùa cổ.
Khi người đàn bà tìm được nhà ông Mishio, trời chợt mưa lất phất. Cơn mưa nhẹ và mờ như bụi phủ trên vườn cây xanh tĩnh mịch quanh ngôi nhà cũ hoang vắng với mái nâu cũ kỹ loáng thoáng bóng rêu phong, với những đọt cây lô nhô từ sau hiện như bầy rắn nhỏ đang tìm đường chạy trốn khỏi những khối cây cối rậm rạp lạnh lẽo bốn bề. Trời nhuộm một màu sáng bạc như bạn hữu một cơn bão lớn về đêm, bay vừa qua một trận biến động đất trời, bây giờ, những người chết vì trận thiên tai như còn lảng vảng oan hồn đâu đó.
Nàng gọi, không thấy một bóng người nào lai vãng trong khoảng sân lát gạch loáng thoáng bóng những cây tùng lùn thấp già cỗi trồng trong những chậu sứ khổng lồ màu sắc vừa rực rỡ vừa kỳ dị được lấy trộm từ một cung điện nào từ ngàn năm. Lối đi là những mặt gỗ cắt ngang của một thân cây lớn, khảm thành hàng không đều nhau trên mặt đất màu nâu đen cẩn những đường viền sỏi trắng và tím. Đây đó lởm chởm những cụm cỏ già màu lục sẫm, thỉnh thoảng một bông hoa tím dại ngơ ngẩn mọc lên như một dấu hỏi lặng câm giữa màu xanh u tịch của vườn cây. Thoang thoảng mùi thơm của một loài lan quý nào nở kín bên hiên vắng.
Cánh cửa bằng giấy phía phòng khách mở hé cho thấy một tấm thảm màu đỏ gạch, thêu những vòng hoa xanh và tím sặc sỡ. Mấy đôi dép Nhật Bản xếp ngay ngắn ở lối ra vào. Tiếng một con chim bay qua mái hiên, cất tiếng hót ngại ngần trong thinh không hiu hắt. Người đàn bà đi chậm từng bước nhỏ, cái dù nghiêng trên vai, qua khoảng sân vắng, vào trong hiên, đứng đợi một người nào ra chào đón. Nhưng không có ai cả, nhưng những dấu vết quanh nhà chứng tỏ vẫn có người ra vào, qua lại luôn luôn. Sự hiện diện thường trực và bí mật của một bóng người làm cho không khí chừng như lạnh lẽo và trang nghiêm hẳn đi trong một cảm nhận bàng hoàng và sợ hãi về một cõi nào ở ngoài đời sống thật.
Tiếng mưa từng sợi chảy từ những tầng lá cao xuống cây hoa thấp là đà sát mặt đất, âm vang buồn bã xa lạ và lạnh lẽo, làm nàng chợt cảm thấy mình đang lạc lối trong một cõi nào cách trở và huyền hoặc, không bao giờ còn tìm đường trở về được những lối đời quen thuộc trước kia, nếu không có một dẫn dắt vô hình và thân thuộc nào đó.
Chiếc xe thả nàng xuống cổng nhà đã mất hút bóng từ lâu ngoài con đường vắng vẻ lạnh lẽo. Bỗng nhiên nàng lạnh người nghĩ nếu mình đang tới lầm nhà một người nào khác hoặc đã đến nơi nhưng ông bà Mishio đã đi vắng, còn lâu lắm mới trở về.
Người đàn bà nhìn vào trong, trên chiếc chiếu hoa mà ngà và tím, cái bàn vuông sạch sẽ đặt một bình hoa cúc tím nhạt. Mấy cái hoa còn rung rinh ướp kín những giọt mưa sương lóng lánh. Một đĩa bánh ngọt và hộp thuộc bằng đồi mồi bên cạnh những chiếc khăn lau bằng giấy cắt hình hoa cúc thật khéo. Như chủ nhà dọn sẵn và chờ đợi một người khách có hẹn từ trước. Nàng nghĩ:
“Hai ông bà ấy chắc chắn là có nhà vì sắp đón một người khách nào đó”.
Nàng quả quyết và lấy hết can đảm, tháo giày, thong thả dè dặt từng bước một, bước hẳn vào trong nhà, mở ví, lấy hộp bánh và những gói trà ngon, làm quà tặng chủ nhà đặt lên bàn.
Có tiếng guốc gỗ lóc cóc thật nhẹ phía hành lang bên trái. Rồi tiếng cửa giấy động khẽ. Nàng chờ một tiếng nói, một bóng người, nhưng không có ai cả.
Chờ một lúc, một lúc lâu như hàng ngày ở đời sống quen thuộc ở quê nhà, nàng đành lên tiếng:
“Chào ông bà Mishio, có tôi đến thăm…”
Một tiếng cười nhẹ, như gió cầm thoảng qua. Rồi tiếng dép sột soạt trên tấm chiếu hoa. Người đàn bà ngẩng lên nhìn. Bà Mishio tươi thắm với chiếc kimono màu hoa đào với những cành lá trắng, mái tóc láng lẫy như hôm đầu tiên gặp nhau, cài thêm một búp hoa hồng ngọc. Đôi môi không thoa son hồng tươi hé một nụ cười dịu dàng làm lắng dịu những băn khoăn trong lòng người đối diện, bà Mishio bỗng nói, không bằng tiếng Anh, không phải là tiếng Nhật, nhưng người đàn bà vẫn nghe và hiểu, như thường nghe và hiểu được ngôn ngữ của những người chuyện
trò trong chiêm bao:
“Mời bà ngồi, tôi biết thế nào bà cũng sẽ đến, chắc chắn là bà sẽ đến, cho nên mấy hôm nay vẫn có mong chờ. Tiếc thay, ông nhà tôi lại đi vắng hôm nay. Có lẽ ông ấy cũng sắp về, thôi tôi xin phép được đón tiếp bà vậy và ước mong bà sẽ hài lòng những giờ dừng lại trong gia đình chúng tôi”.
Người đàn bà nhìn quanh, tỏ vẻ thán phục cách trang hoàng của chủ nhân. Bà Mishio tươi cười:
“Bà sắp khen, phải không, nhưng lối trang hoàng này đã cũ quá, như thế này đã gần hai mươi năm, không thay đổi”.
Người đàn bà lạ kinh ngạc:
“Tại sao gần hai mươi năm, bà có thể giữ nguyên mọi vật trong nhà không thay đổi?”
“Có gì khó đâu, thưa bà, chỉ do người ta muốn giữ gìn hay thay đổi đó thôi. Giữ gìn thì hai mươi năm hay hai trăm năm còn nguyên vẹn đó. Nhưng nếu muốn thay đổi thì chỉ cần một ngày, một giờ, một chớp mắt ta thôi”.
“Thưa bà nói về cái gì?”
“Tất cả mọi thứ đều như thế cả, phải không bà, những vật bên ngoài cũng như những ẩn tình trong lòng người”.
Người đàn bà lại nhìn quanh, không thấy dấu vết một đồ chơi, quần áo gì của trẻ con hay một kẻ thứ ba nào ngoài hai ông bà chủ nhân.
“Thưa bà Mishio, các em hẳn đi học ở xa?”
Bà Mishio ngồi xếp chân trên chiếc gối thêu, vén tay áo kimono rón rén pha trà trong bình ra tách ngọc.
“Mời bà dùng trà, trà ướp hoa cúc của tôi tự làm cho nhà tôi dùng đó, nhà tôi chỉ uống được trà do tôi làm thôi cho nên, những lúc đi đâu, nhà tôi chỉ nâng tách trà mà không uống, bà có thấy không?”
“À, bà lại nhắc, bà nhớ từng chi tiết ấy sao?”
“Thường thì tôi không nhớ gì những lần đi theo nhà tôi, vì không có gì quan trọng đáng nhớ cả, nhưng mà từ hôm đó đến nay thì tôi cố nhớ lại từng chi tiết từ đầu và tôi nhận ra…”
“Cái gì vậy thưa bà?”
Bà Mishio nhìn ra ngoài vườn hoa lặng lẽ, bỗng thở dài, với một giọng nói nửa u buồn, nửa hoảng hốt.
Có lẽ sẽ có một cơn bão nhỏ đâu đây, và nhà tôi về nửa đường sẽ gặp cơn bão nhỏ.
Người đàn bà lạ cũng nhìn trời u ám bên trên những mái cong rêu phủ.
“Bà có cần đi đón và mang dù hay áo ra cho ông hay không?”
“Nhà tôi có mang dù theo, không sao. Nhưng với cơn bão thì trăm ngàn cái dù cũng vô ích thôi”.
Giọng của bà Mishio có vẻ trách móc, tiếc than lạ lùng làm cho bà khách bối rối và ái ngại.
“Xin lỗi bà, có lẽ tôi xin về thì hơn, hôm khác trời tốt, nếu còn nấn ná ở lại Nhật, tôi sẽ lại thăm ông bà”.
Tiếng cười bà Mishio có vẻ giễu cợt và chua chát:
“Xin bà nán lại cho qua buổi trưa nhà tôi sẽ về, dù là về trong cơn bão nhỏ, nếu biết có bà lại trong lúc đi vắng, nhà tôi hẳn buồn tiếc vô cùng và sẽ trách tôi vô ý không giữ chân bà lại”.
“Bà thật khéo nói, vậy tôi xin ở lại chờ ông về để thăm ông. Biết đâu không có dịp trở lại và gặp nhau lần khác nữa”.
“Thật rủi ro, bà đến thăm vào hôm trời không đẹp nên không thể đưa đi ngoạn cảnh được cũng không xem hoa trong vườn”.
Người đàn bà lại nhìn quanh và băn khoăn vì câu hỏi về con cái của mình chưa được trả lời. Hình như bà Mishio không muốn nói đến con cái.
“Chắc là các em cũng sắp về”.
Bà Mishio lạnh hẳn mặt đi.
“Chúng tôi không có con”.
“Dạ…”
Người đàn bà nghĩ thầm, chắc là hai ông bà Mishio có một bí mật nào đó về mối tình của họ. Họ chênh lệch tuổi tác, trông rõ hẳn. Ông gần gấp đôi tuổi bà và vì thế, hẳn ông đã có một đời vợ trước, có nhiều con đã lớn lên, và đến khi lấy bà vợ trẻ sau này thì… vì một nguyên do nào đó, không muốn có con nữa. Vì thế cho nên nhắc đến con cái, bà đã buồn bã không muốn trả lời.
Nhưng như đoán biết những ý nghĩ thầm kín trong trí khách, bà Mishio nói:
“Tôi chỉ mang thai có một lần, vào lúc gần ba mươi tuổi, nhưng bị tiểu sản và tôi cũng… rồi thì gần hai mươi năm nay…”
Khách kinh ngạc:
“Nếu vậy, bây giờ bà đã… bốn mươi sao, xin lỗi tôi phải hỏi như thế, bởi vì trông bà chỉ chừng hơn hai mươi tuổi”.
“Phải, tôi chỉ hơn hai mươi tuổi. Nhưng mà đã gần năm mươi… bà thấy là lạ lắm, phải không, đời tôi như vậy… đã hai mươi lăm năm nay… hình như trời hẩng nắng ngoài kia, nắng giữa hai cơn mưa, mời bà nhấp tách trà rồi ra xem cảnh”.
Khách đi theo người chủ ra ngoài. Những tia nắng long trên hàng mưa còn đậu trong vắt trên những đợt tùng láng lẫy. Những bông hoa đủ màu đủ vẻ lộng lẫy rung động trong cơn gió mát lạnh.
Càng đi về phía trái ngôi nhà, vườn hoa càng rộng và hoa càng trồng nhiều cho đến khi tiếp giáp với hồ sen rộng mênh mông. Những bông sen Nhật Bản trắng nõn nàng, cánh xếp chồng chất như từng mảnh lụa cắt khéo, với những tấm lá lớn đựng đầy nước mưa lóng lánh trên hồ như thủy ngân. Những đám bèo Nhật Bản li ti từng tai nấm tí hon xếp từng vầng trôi giạt quanh quẩn giữa vùng nước xanh rêu in bóng những đợt cây già nghiêng mình soi năm tháng. Tiếng một con cóc kêu nhỏ trong một bụi cây nào ẩm ướt cuối vườn.
Bàn tay lạnh ngắt và trơn láng như bụng một con thằn lằn của bà Mishio bỗng nắm lấy bàn tay bà khách. Giọng bà Mishio như chỉ còn là hơi gió thoảng trong lá cây.
“Những bông hoa này, hồ thả sen này, tôi chăm nom đã hơn hai mươi năm nay…”
“Hai mươi năm, không thay đổi”.
“Bây giờ thì thay đổi”.
“Sao bà cho là thay đổi?”
“Nhà tôi thay đổi, thì mọi thứ cũng phải thay đổi theo chứ, bà xem rồi cả tôi nữa, tôi là thứ bị thay đổi trước nhất, bà sẽ thấy như thế”.
“Thưa bà, ông thay đổi, làm sao bà biết như thế?”
Bà khách quay nhìn lại. Mặt bà Mishio trắng như phiến giấy với hai con mắt bỗng hừng lên một màu hồng vàng kỳ lạ như mắt cá thia đỏ. Trong con mắt chợt đổi màu long lanh ấy, con ngươi như sáng lên với một tia lửa hắt hiu ảm đạm, như ngọn đèn nhỏ được treo từ một đáy sâu nào xa hút âm u.
“Từ lúc ấy, nghĩa là gần hai mươi năm nay, nhà tôi chỉ trau chuốt những bức tranh dở dang, nhưng không bao giờ vẽ một bức tranh mới nào. Nhà tôi bảo là những cảm xúc đã chết hết, đã chết theo…”
“Chết theo…”
“Phải, chết theo… như bây giờ nhà tôi muốn vẽ tranh lại, nhà tôi đang đến hoạ một cảnh gần chùa, cách đây không xa lắm. Nhà tôi vẽ, là mọi sự thay đổi cả”.
“Như thế… bà nên mừng đón sự thay đổi của ông chứ”.
Sắc mặt bà Mishio trở lại tươi thắm và bình thường như cũ.
“Vâng, thưa bà, đó là điều đáng mừng, bao nhiêu năm nay, tôi chờ đợi sự thay đổi đó, khuyên nhủ nhà tôi cần phải thay đổi đi như thế kia mà, nhà tôi đã khăng khăng giữ lấy đời sống cũ, những bức tranh cũ, những xúc động cũ. Nhưng bây giờ thì nhà tôi đã tìm thấy điều tôi mong muốn, dù rằng như vậy thì tôi sẽ… Thôi thưa bà, xin bà đừng nói đến những điều đó nữa… Kìa, hình như nhà tôi đã về. Đúng là nhà tôi về. Lạy trời, cơn bão đã không tới. Không chừng là sẽ tới, nhưng muộn hơn, khi nhà tôi đã ở trong nhà, và bà nữa, bà cũng đã đến nơi…”
Người đàn bà nhìn ra ngoài cổng. Qua những tàn thông tùng xanh ngắt cách khoảng nhau thành những ô hình thoi và hình chữ nhật trong mắt nhìn bỡ ngỡ, người đàn ông tay xách hộp thuốc vẽ, và giá, tay cầm dù thong thả đi vào. Nhận ra dấu vết của khách tới thăm, ông ta dừng bước, nhìn vườn hoa, cất tiếng chào hỏi. Nét mặt ửng lên một thoáng hồng tươi đầm ấm và giọng nói hơi run, tỏ ra ông vừa mừng rỡ vừa xúc động lạ thường.
“Đúng là bà, không ngờ bà lại giữ lời hứa đến thăm chúng tôi từ xa xôi. Mời bà vào trong nhà… nhà tôi hẳn đã pha trà cúc hoa rồi chứ. Này mình ơi, chọn cho bà đây một cái kimono đi mình, bà sẽ ở lại với chúng ta…”
Người đàn bà nhìn lại, định cầm tay bà Mishio tỏ dấu hoan hỉ và cám ơn sự đón tiếp nồng hậu của hai ông bà, nhưng một thoáng nhìn quanh quất, nàng không thấy bà chủ nhà đâu nữa. Chỉ còn tiếng gió quạt nhẹ nhàng trên những tàn lá cây xanh loáng loáng những giọt nước mưa đong đưa óng ánh nắng vàng yếu ớt như một nụ cười gượng gạo cuối cùng. Chỉ còn, vẫn tiếng một con cóc, buồn bã kêu lên trong cụm hoa nào cuối vườn, và tiếng một cành hoa nào rụng xuống mặt hồ sen, âm vang mơ hồ, xa xôi, như tiếng một giọt nước mắt âm thầm rơi từ khuôn mặt mùa thu ảo não.
Bà Mishio nói, đã lâu không được đón tiếp một người khách nào nên bây giờ cơn vui làm no lòng và bà không thấy thích ăn cơm bằng được ngồi tiếp khách bên cạnh, mặc dù từ chối bữa cơm khi có khách như vậy là một việc khiếm nhã. Bà thành khẩn xin lỗi và luôn tay tiếp thức ăn cho chồng và bà khách quý. Bữa cơm thanh đạm, nhưng ngon lành, gồm một chén canh cải nấu với cá, một đĩa tôm lột vỏ chiên bột ăn kèm với khoai chiên, một đĩa nhỏ dưa gang ướp mật rượu và đường màu mã não, những khoanh trứng gà luộc trên một đĩa xà lách thật tươi ghim từng trái táo đen, hạnh nhân và hạnh đào mào đỏ. Tất cả được trình bày khéo léo trong bát đĩa bằng một thứ gỗ đen và nhẹ, cẩn hoa và chim bạc, bướm và những cánh tùng già. Những hột cơm trắng, dẻo vít lên đầu mút đũa nhẹ tênh mà đủ thắm. Người đàn bà đã được bà Mishio mời đi tắm nước nóng, thay một chiếc kimono đẹp nhất của chính bà cất giữ từ nhiều năm, màu đỏ và những bông hoa đen trắng lớn, một đôi dép nhẹ cùng màu, mớ tóc vấn cao để lộ chiếc gáy trắng mỏng lưa thưa những dải hoa vải mong manh. Ba người quỳ gối quanh chiếc bàn vuông thấp, mỗi người một mâm cơm riêng trước mặt. Bà Mishio ngồi tiếp thức ăn một lúc rồi lấy cớ đang bận những việc gì đó ở nhà sau, cáo từ và rút lui.
Bà Mishio chỉ trở ra một lần để dọn dẹp bàn ăn thay thế một tấm khăn trải bàn thêu tay khéo, dọn trà bánh và chưng một bình hoa rồi mới biến mất sau nhà bếp.
Ông Mishio xin lỗi khách về sự vắng mặt bắt buộc của vợ và tỏ vẻ hân hoan nếu được khách chiếu cố đến những bức tranh đã vẽ từ hai mươi năm xưa của ông.
Phòng tranh chỉ cách phòng khách một bức tường giấy mỏng. Những cửa nhỏ sát hàng hiên sau được kéo lên. Ánh nắng vàng tươi nhảy múa chao lượn trong những góc phòng quen bóng tối. Gần một trăm bức tranh treo san sát nhau quanh bốn bức tường thấp của gian phòng rộng thênh thang. Một số, không đủ chỗ, đã phải chồng chất lên nhau xếp vào các góc. Màu sắc trong xanh u trầm, mờ nhạt, như những vết khói mờ tan loãng dần trong hư vô.
Trên giá vẽ của kệ trong góc phòng, một bức tranh lớn được phủ một tấm lụa vàng đã bạc màu. Người đàn bà tò mò tiến lại gần giá vẽ. Ông Mishio có vẻ bối rối, nửa muốn ngăn cản, nửa ngại ngần. Cuối cùng ông nói:
“Đó là bức tranh dở dang cuối cùng của tôi. Từ đó đến nay, tôi gác bút luôn, không thêm được nét nào nữa”.
“Bà nói, ông vừa vẽ trở lại, và hôm nay ông vừa đi hoạ thắng cảnh nào gần đây”.
Ông Mishio cười buồn rầu:
“Tôi tưởng là có thể vẽ lại được, nhưng tay đã cứng mất rồi. Trái tim già cỗi và những ngón tay cứng khô”.
Người đàn bà băn khoăn.
“Bức tranh kia chưa xong, sao ông không hoạ tiếp tục. Ông hoạ gì trong đó”.
“Vợ tôi, tôi vẽ bà ấy mang thai ba tháng hồi đó, tôi say mê vẽ đến bất kể một thứ gì khác, nhất là bức tranh ấy… đến nỗi… mỗi ngày dù mệt nhọc đến đâu, nhà tôi cũng bắt buộc ngồi làm mẫu cho tôi vẽ chừng ba bốn tiếng đồng hồ sau công việc mệt nhọc. Hồi đó, chúng tôi nghèo cực kia, tranh tôi không bán được, vợ tôi cũng chưa có tiếng tăm gì để làm ra được chút tiền, nhà tôi phải âm thầm tần tảo lo liệu lấy mọi việc để giúp tôi yên ổn thời giờ tâm trí hoạ tranh. Thời ấy, tôi không nghĩ ra mọi điều tai hại của sự say mê của mình, cũng như không hề lưu tâm tới những khổ sở mà nhà tôi vì tôi phải chịu đựng những mệt mỏi, đau đớn quá mức để ngồi cho tôi vẽ, nhà tôi bị hư thai, và phải mổ… rồi thì…”
Người đàn bà bỗng lắng nghe. Hình như một tiếng khóc nức nở mơ hồ từ bên kia bức tường giấy vọng sang. Người đàn ông như không nghe tiếp tục những ý nghĩ đắm chìm.
“Tiếc thay, tôi đã dành lại cặp mắt cho nét vẽ cuối cùng. Cho nên không kịp nữa. Và bức tranh đã dở dang”.
Người đàn bà thắc mắc:
“Về sau, bà không ngồi tiếp cho ông vẽ xong đôi mắt?”
“Đôi mắt ư? Trong bức tranh bây giờ là hai vầng tối trống không. Và trong đời sống thì… chỉ còn là cái nhìn xa vắng. Bà không thấy điều đó sao?”
“Đôi mắt bà… tôi thấy, nếu ông tiếp tục bức tranh bà thì đôi mắt bây giờ không chừng đẹp hơn xưa”.
“Tôi không thể hình dung lại, tưởng tượng nhà tôi để vẽ lại. Cái gì xoá nhoà, mờ mịt, một khoảng cách vô bờ giữa chúng tôi ngăn chia tầm mắt và biến đổi cái nhìn”.
Người đàn bà lạ lùng:
“Sao bà không ngồi đây, và ông vẽ bà?”
“Tôi không thể vẽ cái bóng”.
Người đàn bà cảm thấy có nỗi gì bí ẩn, muốn hỏi nhưng người đàn ông đã khép cánh cửa sổ lại, ánh sáng đã lần về trời, căn phòng mờ tối lạnh lẽo và hai người trở ra phòng khách, tiếp tục những chén trà nóng thơm ngát mùi hoa cúc.
Người đàn bà tỏ ý muốn mời bà Mishio lên ngồi nói chuyện, vì nàng không thể ở lại lâu, còn phải trở về Osaka để cùng đi mua sắm với mấy bà bạn.
Ông Mishio thở dài:
“Ở Kyoto này thì không có gì vui cả, nhưng nếu bà ở lại với chúng tôi, ngày mai chúng tôi sẽ đưa bà đi xem ngôi chùa cổ. Còn nhà tôi thì… bây giờ là buổi trưa, buổi trưa nào nhà tôi cũng phải vắng mặt để ra ngoài ấy”.
“Dạ, ông bà còn có một ngôi nhà nào khác?”
“Không, chỗ của nhà tôi”.
Người đàn bà bỗng nhớ tới bức tranh dở dang trong phòng tranh cũ. Có cái gì làm bà nghĩ tưởng lan man không dứt đến bức tranh kia, và những câu nói nửa vời của ông Mishio. Nàng hỏi không ngăn được lòng trí tò mò.
“Xin ông… cho tôi được xem bức tranh của bà trong ấy, tại sao ông lại phải che tấm lụa như vậy, phòng không có bụi mà? Những bức tranh khác để trần cũng có hư hao gì đâu”.
“Nhà tôi muốn che lại như thế, và tôi phải che lại từ ngày ấy. Bà muốn xem thật ư? Chắc là nhà tôi không bằng lòng đâu, nhưng mà… từ xa xôi đến, chẳng lẽ bà chỉ muốn ngắm một bức tranh lại không thể được. Mời bà cứ trở lại phòng tranh và xin tùy tiện”.
Người đàn bà đứng lên, trong lúc ông Mishio ngồi lại một mình ở phòng ngoài.
Nắng bỗng tắt khi nàng nâng khung cửa sổ lên chờ chút ánh sáng hắt vào phòng. Căn phòng mờ tối lạnh lẽo phảng phất mùi ẩm mốc, mùi thơm lạnh và nồng của một thứ gỗ trầm xưa cũ.
Người đàn bà rón rén lại gần bức tranh trên giá và giở tấm lụa vàng lên. Nàng lùi lại một bước và cảm thấy một luồng nước lạnh luồn khắp châu thân làm hai chân cơ hồ dán in xuống đất và hai tay run cứng lại treo nửa vời. Nàng nhìn đăm đăm bức tranh kỳ diệu lồ lộ khuôn mặt kiều mị của người đàn bà đã nhìn thấy. Vẫn đôi môi đỏ, cặp má hồng đầy, cái vẻ tươi thắm và thanh tú sống động của khuôn mặt vương vất sợi tóc đen nhánh lung linh. Bức tranh như diễn tả đầy đủ một khuôn mặt sống thật đang linh động trong mắt người nhìn ngắm. Nhưng… không như ông Mishio nói chưa vẽ xong cặp mắt ngày ấy, người đàn bà nhận ra đúng là màu mắt và dáng nét, cái nhìn vừa dịu dàng vừa u uất của người đàn bà, và vẻ dị thường của ánh mắt nàng đã nhìn thấy tình cờ trong vườn hoa buổi sáng. Nàng nhớ rõ là ông Mishio đã nói chưa vẽ cặp mắt, trong tranh, mắt chỉ mới là hai khoảng trống. Không lẽ nhiều năm, và ông đã quên, hay một lúc nào ông đã vẽ tiếp đôi mắt bà, nhưng ông chẳng nhớ. Thắc mắc, và sợ hãi trong một cảm giác rờn rợn kỳ lạ, nàng lùi lại từng bước vội vã, đi nhanh ra phòng khách. Nàng nói cho ông Mishio biết điều vừa trông thấy, và nàng cũng nhờ ông vào che lại bức tranh như cũ mà trong lúc vội vàng nàng đã quên.
Ông Mishio đứng phắt dậy, im lìm như trời trồng một lúc lâu khi nghe nàng nói. Mái tóc trắng rung rung, vầng trán xếp lại từng nét nhăn xót xa, hai tay run run lần về phía trước, ông như chết điếng đi một lúc lâu rồi lẳng lặng bước vào phòng tranh. Người đàn bà rón rén theo sau, đứng ở khung cửa nhìn vào.
Hai tay bưng mắt, người đàn ông đứng lặng trước bức tranh, rồi ông tháo bức tranh ra khỏi giá, áp vào ngực, nước mắt giàn giụa chảy dài xuống má. Người đàn bà nghe tiếng ông hỏi vọng ra…
“Bà để… tấm khăn lụa đâu rồi?”
“Bên cạnh giá vẽ, trên mặt bàn ấy”.
Im lặng một lúc, rồi bỗng người đàn ông kêu lên:
“Tôi tìm khắp không thấy tấm khăn lụa vàng đâu cả, xin bà nhớ lại cho, bà có mang khăn ra khỏi phòng không?”
Người đàn bà rợn người:
“Tôi… có cầm khăn ấy đi đâu. Ông tìm lại xem”.
“Cái khăn không còn trong phòng nữa. Chắc là nhà tôi đã lấy đi rồi”.
Người đàn bà lạc giọng đi:
“Bà… đã về”.
“Có lẽ và lại đi rồi, lần này thì… không chừng nhà tôi đi chẳng trở về nữa…”
Không ngừng được, người đàn bà níu lại cánh tay ông Mishio:
“Ông nói cái gì, có chuyện gì vậy? Xin ông nói ra”.
Ông Mishio thận trọng đặt bức tranh trở lại chỗ cũ, yên lặng kéo cánh cửa lại và lặng lẽ đi ra khỏi phòng. Ông ngồi xuống chiếu, hai tay chắp trước ngực, mắt khép lại, tâm thần phiêu diêu trong một cõi xa vời mộng mị nào. Rồi trên môi thoang thoảng một nụ cười nhợt nhạt, ông Mishio lẩm bẩm một mình như không có ai trước mặt:
“Mình hiểu lầm tôi, mình đã hiểu lầm tôi rồi, không phải như mình nghĩ đâu”.
Ông Mishio nghe như trong xa vắng có tiếng nói rất khẽ đáp lại lời mình thì thào:
“Ông đừng chối, tôi thấy rõ ông hơn cả chính ông nhìn thấy ông mà. Mặc dù chưa đến đâu, chưa xảy ra chuyện gì cả, nhưng mà câu chuyện đã khởi đầu, nếu cứ tiếp tục, một lúc nào đó điều tôi đang nghĩ về mình sẽ đúng”.
Ông giang tay trong không khí mong níu kéo một chéo áo kimono mơ màng đâu đó:
“Không, không phải thế, chẳng có chuyện gì xảy ra, dù chỉ là trong ý nghĩ tôi thôi. Tôi chỉ yêu quý mình, suốt đời tôi chỉ biết có mình mình mà thôi”.
Ông lắng nghe. Không còn lời nào đáp lại, dù là trong xa vắng. Ông tưởng như lời mình không còn ai nghe nữa và một giây ông cảm nhận tất cả nỗi quạnh hiu của tuổi già, và cô đơn đã kéo dài từ bao nhiêu năm và từ đây nối tiếp, mãi mãi vô tận của đời người, không biết tới bao giờ.
Người đàn bà chậm rãi từng bước nhỏ qua khung cửa vắng. Mù sương buổi sáng giăng mắc một vùng cảnh vật đắm chìm trong giấc ngủ. Ngôi chùa cổ cao rộng mênh mông đen thẳm cắt thành một khối khổng lồ im lìm và bí mật trong vùng mù sương trắng bạc. Những hàng cây bốn phía lù lù đen sẫm như những tượng người quái dị cao lêu nghêu vươn tay lên trời mở lời cầu nguyện nín câm. Các tháp chuông cao lớn đứng lù lù ở một góc u tịch như khối đen chứa đựng những bí mật chết chóc truyền kiếp nào từ bao nhiêu thế kỷ.
Đến trước hiên chùa, nàng dừng lại nhìn quanh tìm kiếm. Ông Mishio đã hẹn gặp ở chỗ này, đúng chín giờ. Bây giờ hình như đã quá chín giờ, và ngoài kia bức tường, lũ học trò đã sắp hàng vào lớp của ngôi trường nhỏ bên kia chùa đã từ lâu. Nắng chưa lên, nhưng một vài bóng người đã len lén vào chùa, thấp thoáng sau những tàn lá thưa, dâng hương lễ bái. Một cái gì u ám, bí mật phủ trùm, ám ảnh quanh trí nàng, như một lớp mù sương. Và hình như đêm qua, sau một buổi chiều dài ngồi chờ không thấy bà Mishio về, trở lại nhà trọ ngủ cho qua đêm trước khi tới chỗ hẹn với ông bà Mishio, nàng đã chiêm bao, thấy một điều gì lạ lùng, liên quan tới bà Mishio và bức tranh. Hình như nàng mơ thấy bà ấy về, nói chuyện về bức tranh, về việc tiểu sản ngày trước của bà, liên hệ tình cảm giữa ông và bà, về sự có mặt của nàng trong đời sống đang yên lặng. Và những gì gì nữa, hình như rất quan trọng, nhưng nàng không thể nhớ, và chính vì vậy nàng băn khoăn, hoang mang không cùng.
Bỗng nàng nghe một tiếng kêu nhỏ, trầm ấm, như một tiếng reo vui, nhưng cũng là một hơi thở dài kín đáo.
“Kìa, bà đã đúng hẹn”.
Người đàn bà cũng mừng rỡ:
“Ông mới đến, bà đâu, thưa ông?”
Ông Mishio đan những ngón tay vào nhau, đầu cúi xuống, những vệt tóc trắng bay phơ phất trên vầng trán căng hằn mấy vết nhăn vừa đánh dấu một đêm phiền muộn không ngủ.
“Bà có thể lại kia, chúng ta ngồi lại cho qua câu chuyện, câu chuyện cuối cùng”.
Hai người thong thả đi bộ về phía hiên chùa ngồi xuống những bậc thềm lạnh lẽo không nắng chiếu.
Người đàn bà hỏi lại vì sao bà Mishio chưa tới, ông thở dài, tránh không nhìn hai con mắt đằm thắm của người đàn bà.
“Nhà tôi không đến. Và vì thế, lẽ ra tôi cũng không đến, nhưng mà lỡ hẹn với bà, vả lại, đây là lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, đúng ra là tôi được gặp bà, vả lại hôm nay là ngày… ngày gì bà có biết không, ngày Giáng sinh… và ngày nhà tôi… không còn nữa, tôi đến đây để cầu cho nhà tôi…”
Người đàn bà sững sờ:
“Ông nói gì, bà đã…”
“Vâng, nhà tôi đã chết”.
“Chiều hôm qua?”
“Không, cách đây gần hai mươi năm rồi, ngày đó, ngày tôi vẽ bức tranh”.
Người đàn bà ớn lạnh khắp châu thân nhớ đến đôi mắt như màu cá thia vàng kỳ dị đã nhìn thấy trên khuôn mặt trắng nhợt của bà Mishio trong vườn hoa hôm qua.
“Vậy thì bà hôm qua…”
“Vâng, hôm qua nhà tôi, nhưng mà…”
Một bà già thủng thỉnh, yên lặng từng bước trên đôi guốc gỗ cao, chống gậy trúc, một tay cầm thẻ nhang đi gần lại phía chùa, nhìn lên, trông thấy hai người, quay lưng đi lảng ra chỗ khác. Bước chân bà làm bầy bồ câu đang mổ thóc trong sân bay vụt lên, tiếng cánh rào rào như mưa rơi trên sông lụa.
Ông Mishio đột ngột quay lại nhìn đăm đắm trong hai mắt mơ màng của người đàn bà, giọng ông nhỏ xuống như lời thú tội bàng hoàng:
“Nếu tôi cắt nghĩa về những sự việc xảy ra giữa chúng tôi, và để bà hiểu được vì sao nhà tôi đã có mặt, rồi vắng mặt, và bây giờ… không đến, không bao giờ đến nữa, tôi phải thú thật với bà những gì ám ảnh trong lòng tôi bấy lâu nay, từ hồi gặp bà ở hội nghị, từ hôm… trong lòng tôi băn khoăn mỗi một điều, làm thế nào có thể hoạ được bức chân dung của bà dù chỉ là vài ba nét loáng thoáng. Như xưa kia, hồi mới gặp nhau, tôi ao ước làm thế nào hoạ được lên lụa những đường nét diễm kiều thanh cao của nhà tôi. Tôi… tôi phải nói hết ra mọi điều, để khi ra về rồi, phương trời nào đó, bà có thể nghĩ, vì mình một đời sống nào ở xa xôi, đã biến đổi, đã sống lại một người, đã chết đi một người, đã vì mình mà một đời sống kỳ diệu, một phối hợp phi thường giữa âm và dương, gần hai mươi năm ròng rã đã phút giây trở thành mây khói xa vời. Sẽ nghĩ…”
Giọng ông bỗng đổi thay, chìm xuống như một dây tơ chùng:
“Đêm qua… đêm qua, những đêm trước… tôi chiêm bao thấy bà, từ khi… từ khi gặp bà, tôi vẫn chiêm bao thấy bà. Và cũng từ hôm ấy, tôi muốn vẽ tranh lại. Sau hai mươi năm thề rằng không bao giờ vẽ nữa sau bức tranh không mắt của nhà tôi. Tôi mang giá vẽ ra khỏi nhà, đi xa, tìm cảnh khuất vắng, pha màu, mong vẽ một cảnh nào đó, nhưng tôi cầm bút lên, bất cứ nét nào cũng là nét dáng của bà mà thôi. Tôi phải dập xoá bức tranh và mang khung tranh lụa trắng trở về. Nhưng vô ích, nhà tôi biết hết, thấy hết, nhà tôi biết tôi nghĩ gì về bà, tôi chiêm bao thấy bà, tôi sẽ hoạ hình bà lên khung lụa mỗi lần ra khỏi nhà một mình… Và nữa, nhà tôi cũng biết tôi đã soi bóng mình xuống hồ sen…”
Người đàn bà cười mơ mộng:
“Ông soi ngắm mình dưới hồ sen sao?”
“Xin bà đừng cười, tôi phải nói ra điều không thể nói. Chính với hình bà, từ hôm gặp nhau, tôi sống lại đời sống thật, tôi muốn thấy lại mình sự thật ra sao. Bao nhiêu năm nay, với hình bóng trẻ trung không thay đổi của nhà tôi bên cạnh, đời sống bình yên kia tôi cứ tưởng mình vẫn còn như hai mươi năm xưa, nhưng mà tôi đã già rồi, tôi đã chôn sống tôi hai mươi năm với một cái bóng, với một người đã chết. Điều đó cũng không làm cho người chết sống lại, mà làm chết luôn đời sống của tôi. Hai mươi năm, tôi không tình cảm, không hoạ tranh, không giao du với ai, không biết đến gì trong đời sống bên ngoài, chỉ có nhà tôi, nhà tôi… Tôi nhận ra những điều đó khi nhìn thấy mái tóc trắng của mình cúi xuống trong hồ nước, và tôi ân hận vô cùng, tôi tiếc đời sống vô cùng. Từ phút đó, bao nhiêu ân tình và lòng chung thủy đối với nhà tôi gần hai mươi năm, dù cũng còn đó, nhưng chừng như tiêu tan thành mây khói hết. Giữa chúng tôi sợi dây nối kết giữa âm dương cũng dứt lìa, và nhà tôi… nhà tôi…”
Người đàn bà ngắt lời ông Mishio:
“Như vậy là… bà mất đúng khi bị tiểu sản?”
“Vâng, nhà tôi mất lúc ấy, nhưng mà vì… vì mối tình u uẩn khăng khít của chúng tôi, vì… nỗi chết quá bất ngờ, ai oán, nhà tôi đã phải trở về quanh quẩn với tôi. Nhà tôi chỉ cần một điều kiện, là bao giờ lòng tôi thoáng đa mang, dù cách nào, một hình bóng khác thì mối tình kia không còn lý do tồn tại, và nhà tôi cũng sẽ biến tan theo mối tình nồng nàn. Bây giờ thì…”
“Bà ấy không có vẻ gì khác lạ cả. Bà ấy vẫn đi đứng nói cười, như mọi người, tôi hay bất cứ một người nào cũng không tin đó chỉ là cái bóng”.
“Nhà tôi về từ cõi kia, trở về với tôi với lời hứa, là khi nào tôi đổi thay, vẻ tươi trẻ nhà tôi giữ gìn cho tôi suốt hai mươi năm nay sẽ không còn, nhà tôi sẽ già bằng tuổi. Từ chiều hôm qua, nhà tôi đi không trở về, và nếu có trở về, như nhà tôi nói trong chiêm bao đêm qua, sẽ không còn tươi trẻ nguyên vẹn như bao lâu nay nữa, vì rằng, tôi đã thú thật với bà từ đầu câu chuyện”.
Người đàn bà bứt rứt mân mê tà áo:
“Vì tôi, vì tôi thật ư? Tôi không tin như vậy. Bà cũng có thể hiểu lầm, sự quen biết và thăm viếng giữa chúng ta, tôi tìm đến, là chỉ vì quý mến hai ông bà giữa bao người xa lạ khác. Còn ông đối với tôi, chẳng qua cũng chỉ là chút tình cảm, như bao nhiêu người khác đã gặp đều có cảm tình với tôi. Chỉ khác là giữa chúng ta có một thông cảm im lặng và sâu xa nào đó thôi. Sự thông cảm ấy, bà cho là…”
“Cám ơn bà đã nói như vậy, nhưng điều ấy không giải toả được những thắc mắc trong lòng tôi, những u uẩn trong hồn người. Bây giờ thì muộn rồi, nhà tôi đã xa hẳn tôi. Tôi mất nhà tôi, sau suốt hai mươi năm còn gắng gượng lẩn quất quanh tôi, kéo dài chút tình đằm thắm. Nhưng tôi được gì, tôi có gì, tôi còn gì không. Đối với bà, tôi chỉ có chút lòng cảm mến, đúng ra là tôi đã tìm lại nguồn rung cảm thuần tuý nghệ thuật mà gần hai mươi năm trời nay đã khô cạn, héo khô. Mà dù có thể nào rồi ngày mai ngày kia, bà lại đi, bà có phương trời của bà. Còn tôi, tôi với cái bóng già cỗi của mình trong hồ sen, với hình ảnh nhà tôi chỉ còn trong trí nhớ, với những vết tích thân yêu trong ngôi nhà vắng lặng kia, một mình… một mình với những chiếc dép màu quanh thềm nhắc nhở bước chân ra vào lững thững, những chiếc kimono còn vương vất mùi hương hơi trong tủ, những chiếc gối thêu hoa, những chăn nệm đượm nồng, những tách trà cúc hoa…”
Những giọt nước mắt bồi hồi nhỏ xuống má môi người đàn bà:
“Nhưng ông sẽ còn bức tranh, bức tranh bây giờ đã có hai con mắt của bà… bức tranh sẽ là bà…”
“Bà lầm rồi, như tôi nói, bao giờ nhà tôi mất đi hẳn, những nét trong tranh cũng sẽ nhạt mờ theo. Còn hai con mắt mà bà thấy đó, không phải là con mắt đâu, mà cái nhìn muốn nói với tôi tất cả những điều tôi vừa nói với bà đó. Nhà tôi đã lấy tấm lụa vàng đi, vì rằng… bức tranh bây giờ chỉ còn là cái tấm vải trống trơn không còn dấu vết màu sắc hình nét nữa. Bà không tin lời tôi, nếu bà có thể trở lại phòng tranh, bà sẽ thấy lời tôi nói. Nhưng ở đây cuối cùng rồi bà cũng sẽ thấy một cái gì đó làm cho bà tin những điều tôi nói là có thật”.
“Ông nói cái gì là cái gì…?”
Ông Mishio đứng dậy. Người đàn bà đứng dậy theo. Sương đã tan hết trong sân chùa cổ. Mùi hương thoang thoảng từ một bệ thờ nào đó. Bỗng ông hỏi ngập ngừng:
“Bao giờ bà đi?”
“Trưa nay, tôi đã ghi lại vé máy bay”.
“Vậy thì… phút này, xin từ biệt bà, và xin gặp lại ở đời sau, cả ba chúng ta, nếu còn có đời sau cho mỗi người”.
Trong cơn xúc động bàng hoàng, người đàn bà trao bàn tay nhỏ nhắn của mình cho ông Mishio. Hai bàn tay ông dịu dàng, thân ái và kính cẩn, nâng bàn tay người đàn bà lên mặt mình, im hơi lắng nghe những nhịp luân chuyển của sự sống trong mạch máu, lòng dịu lắng trong một nỗi xúc động buồn thảm và mông lung, ông nghĩ, từ phút này, ta chỉ còn lại niềm quạnh hiu cuối cùng cho đời người, và ông giữ bàn tay người đàn bà trong hai bàn tay mình một lúc lâu, thành khẩn, như người đi lễ bái giữ những nén hương đã đốt trong tay mình lúc cầu khẩn.
Rồi họ cùng bước xuống thềm, cùng đi ra sân bây giờ nhoà nhạt bóng cây thêu bóng nắng. Tiếng một hồi chuông nhỏ văng vẳng từ cõi tịch liêu xa vời nào đó.
Bỗng từ đằng kia, đi lại, thoắt chậm thoắt nhanh một bóng người áo trắng. Cái bóng tới gần mãi trong hai mắt sửng sốt nhìn không chớp của người đàn bà. Nàng đưa hai tay về phía trước, kêu lên:
“Bà… bà Mishio!”
Ông Mishio cũng vừa nhận ra vóc dáng mảnh mai và nét mặt xinh tươi rạng rỡ của bà. Bà mặc cái kimono trắng, mỏng và thưa, với từng tầng vải mong manh như kết tụ bằng tơ trời, hai tay rộng thùng thình buông xõa chập chờn như những mảnh mây chiều, với một cái nón tre che hở nửa mặt. Bà Mishio chập chờn tiến lại trước mặt hai người, dừng lại, nhìn ông bằng đôi mắt trong suốt, nửa trách hờn, nửa mãn nguyện, rồi im lặng, bà đi lướt qua ông, ngược chiều với hai người, bước nhanh như bay biến về phía sau chùa.
Người đàn bà băng mình chạy theo. Nàng lạc vào một vùng sân lô nhô đây đó những bức tượng đồng đen kỳ dị. Bà Mishio đi lầm lũi, vẫn khi chậm khi nhanh, len lỏi vào giữa những bức tượng đồng đen. Người đàn bà hoa mắt cố theo dõi đuổi theo kịp bà Mishio, với ý nghĩ níu được bà lại với ông, dù chỉ một lần cuối cùng, để giải thích mọi điều bà đã lầm lẫn, và buồn lòng bỏ đi mãi mãi.
Quanh co một lúc, đến cuối sân chùa, một vùng bóng cây đen che khuất nắng sáng trên cao, chỉ còn lại những lớp sương mù trắng che kín mặt đất âm u, làm cho những gốc cây, những pho tượng đồng đen như nổi lềnh bềnh trong không trung mờ mịt, bà Mishio bỗng chậm bước, rồi dừng lại. Người đàn bà mừng rỡ cất tiếng gọi. Bà Mishio xoay mình, từ từ quay mặt lại. Người đàn bà kêu thét lên. Vẫn là vóc dáng và xiêm y của bà Mishio vừa nhìn thấy, vẫn cái nón tre che hờ nửa mặt, nhưng trong một thoáng nhìn lên, khuôn mặt người đàn bà Nhật đã hoàn toàn biến đổi. Khuôn mặt nhăn nheo tối tăm, những sợi tóc phất phơ bạc trắng, đôi môi trũng xuống héo hon, khắp cả là những nét già nua, dấu vết thời gian của hai mươi năm tàn phá. Chỉ còn trên khuôn mặt tàn héo cằn cỗi lạ thường kia, là hai con mắt, đúng là hai con mắt cá thia vàng của bà Mishio mà người đàn bà đã nhìn thấy trong vườn hoa, nhưng bây giờ, con ngươi đã nhoà đi một màu trắng đục như sương pha, và tròng mắt trong sáng long lanh hôm qua chỉ còn là một màu vàng đục mờ ủ ê, buồn bã. Nàng nhìn xuống. Bà Mishio đứng như chôn hờ trong vũng khói sương trắng xoá, hai chân lao đao muốn ngã, những cánh tay áo phất phơ run rẩy theo hai bàn tay buông duỗi khẳng khiu. Hai vai như còng xuống, khoảng lưng cúi khom, bà Mishio, với tất cả vẻ già nua dị thường ma quái, lững lững đi về phía cuối sân chùa, và người đàn bà thấy, như trong giấc mơ xa, bà Mishio đi vào một pho tượng đồng đen vừa mọc ra giữa vùng sương trắng.

NGUYỄN THỊ HOÀNG
Osaka, 1970