Categories
Sưu Tầm Việt Nam

Sơ lược về nguồn gốc một số địa danh miền Nam


48417346_904145039791709_4182736935812333568_n

Sơ lược về nguồn gốc một số địa danh miền Nam

Hồ Đình Vũ

Có nhiều nơi ở miền Nam mình đã đi qua, đã ở đó, đã nghe nói tới hoặc đã đọc được ở đâu đó…riết rồi những địa danh đó trở thành quen thuộc;nhưng chắc ít khi mình có dịp tìm hiểu tại sao nó có tên như vậy?
Bài viết này được hình thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương mình.
Xin mời các bạn cùng tham khảo và đóng góp ý kiến từ các nguồn tài liệu khác – để đề tài này được đầy đủ và phong phú hơn.

Phần 1
Tên do địa hình, địa thế
Bắt đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, tỉnh Bến Tre:
“Gió đưa gió đẩy,
về rẫy ăn còng,
về bưng ăn cá,
về giồng ăn dưa…”

Giồng
là chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất nhà ở và trồng rau, đậu, khoai củ cùng một số loại cây ăn trái. Bởi vậy nên mới có bài hát: “trên đất giồng mình trồng khoai lang…”
Một con giồng có thể bao gồm một hay nhiều xã. Ở Bến Tre, Giồng Trôm đã trở thành tên của một quận (huyện).
Lại nhắc đến một câu hát khác:
“Ai dzìa Giồng Dứa qua truông
Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em…”
Giồng Dứa ở Mỹ Tho, khoảng từ chỗ qua khỏi ngã ba Trung Luơng đến cầu Long Định, ở bên phải quốc lộ 4 là Giồng Dứa. Sở dĩ có tên như thế vì vùng này ở hai bên bờ sông có nhiều cây dứa. (Dứa đây không phải là loại cây có trái mà người miền Nam gọi là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá gai dáng như lá thơm nhưng to hơn và dày hơn, màu xanh mướt. Lá này vắt ra một thứ nước màu xanh, có mùi thơm dùng để làm bánh, đặc biệt là bánh da lợn).
Vừa rồi có nhắc đến truông, hồi xưa về Giồng Dứa thì phải qua truông, vậy truông là gì?

Truông
là đường xuyên ngang một khu rừng, lối đi có sẵn nhưng hai bên và phía trên đầu người đi đều có thân cây và cành lá bao phủ. Ở vùng Dĩ An có truông Sim. Ở miền Trung, thời trước có truông nhà Hồ.
“Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”
Tại sao lại có câu ca dao này?
Ngày xưa truông nhà Hồ thuộc vùng Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, còn gọi là Hồ Xá Lâm. Nơi đó địa hình trắc trở, thường có đạo tặc ẩn núp để cướp bóc nên ít người dám qua lại.

Phá
là lạch biển, nơi hội ngộ của các con sông trước khi đổ ra biển nên nước xoáy,sóng nhiều thường gây nguy hiểm cho thuyền bè. Phá Tam Giang thuộc tỉnh ThừaThiên, phía bắc của phá Tam Giang là sông Ô Lâu đổ ra biển, phía nam là sông Hương đổ ra cửa Thuận An.

Bàu
là nơi đất trũng, mùa mưa nước khá sâu nhưng mùa nắng chỉ còn những vũng nước nhỏ hay khô hẳn. Khác với đầm, vì đầm có nước quanh năm. Ở Sài Gòn, qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền chừng 1 km về hướng Hóc Môn, phía bên trái có khu Bàu Cát. Bây giờ đường xá được mở rộng, nhà cửa xây rất đẹp nhưng mùa mưa vẫn thường bị ngập nước. Ở Long Khánh có Bàu Cá, Rạch Giá có Bàu Cò.

Đầm
chỗ trũng có nước quanh năm, mùa mưa nước sâu hơn mùa nắng, thường là chỗ tận cùng của một dòng nước đổ ra sông rạch hoặc chỗ một con sông lở bờ nước tràn ra hai bên nhưng vẫn dòng nước vẫn tiếp tục con đường của nó. Ở Cà mau có Đầm Dơi,Đầm Cùn. Ở quận 11 Sài Gòn có Đầm Sen, bây giờ trở thành một trung tâm giải trí rất lớn.

Bưng
từ gốc Khmer là bâng, chỉ chỗ đất trũng giữa một cánh đồng, mùa nắng không có nước đọng, nhưng mùa mưa thì ngập khá sâu và có các thứ lác, đưng… mọc. Mùa mưa ở bưng thường có nhiều cá đồng.
“…về bưng ăn cá, về giồng ăn dưa”.
Ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có hai bưng là Bưng Trôm và Bưng Cốc.

Láng
chỗ đất thấp sát bên đường nước chảy nên do nước tràn lên làm ngập nước hoặc ẩm thấp quanh năm. Ở Đức Hoà (giữa Long An và Sài Gòn) có Láng Le, được gọi như vậy vì ở láng này có nhiều chim le le đến kiếm ăn và đẻ. Vùng Khánh Hội (quận 4 Sài Gòn) xưa kia được gọi là Láng Thọ vì có những chỗ ngập do nước sông Sài Gòn tràn lên. Người Pháp phát âm Láng Thọ thành Lăng Tô, một địa danh rất phổ biến thời Pháp thuộc.

Trảng
chỗ trống trải vì không có cây mọc, ở giữa một khu rừng hay bên cạnh một khu rừng. Ở Tây Ninh có Trảng Bàng, địa danh xuất phát từ một cái trảng xưa kia có nhiều cỏ bàng vì ở vùng ven Đồng Tháp Mười. Ở Biên Hoà có Trảng Bom, Trảng Táo.

Đồng
khoảng đất rất rộng lớn bằng phẳng, có thể gồm toàn ruộng, hoặc vừa ruộng vừa những vùng hoang chưa khai phá. Một vùng trên đường từ Gia Định đi Thủ Đức, qua khỏi ngã tư Bình Hoà, trước kia toàn là ruộng, gọi là Đồng Ông Cộ. Ra khỏi Sài Gòn chừng 10 km trên đường đi Lái Thiêu có Đồng Chó Ngáp, được gọi như thế vì trước kia là vùng đất phèn không thuận tiện cho việc cày cấy, bị bỏ hoang và rất vắng vẻ, trống trải. Ở Củ Chi có Đồng Dù, vì đã từng dược dùng làm nơi tập nhảy dù. Và to, rộng hơn rất nhiều là Đồng Tháp Mười.

Hố
chỗ đất trũng, mùa nắng khô ráo nhưng mùa mưa có nơi nước lấp xấp. Ở Củ Chi có Hố Bò, vì bò nuôi trong vùng thường đến đó ăn cỏ. Biên Hoà có Hố Nai, là nơi những người Bắc đạo Công Giáo di cư năm 1954 đến lập nghiệp, tạo thành một khu vực sầm uất.

Phần 2
Tên bắt nguồn từ tiếng Khmer

Miền Nam, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, người Việt và người Khmer sống chung với nhau,văn hoá đã ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Điều đó biểu hiện rõ nét qua một số địa danh. Một số nơi, tên gọi nghe qua thì rất Việt Nam nhưng lại bắt nguồn từ tiếng Khmer; người Việt đã Việt hoá một cách tài tình.

Cần Thơ
Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm, người nghiên cứu chưa thể vội vàng kết luận là Cần Thơ là một địa danh hoàn toàn
Việt Nam và vội đi tìm hiểu căn cứ ở các nghĩa có thể hiểu được của hai chữ Hán Việt “cần” và “thơ”. Cần Thơ
không phải là từ Hán Việt và không có nghĩa.Nếu dò tìm trong hướng các địa danh Việt hoá, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm của từ Khmer “kìntho”, là một loại cá hãy còn khá phổ biến ở Cần Thơ, thông thường được gọi là cá sặc rằn, nhưng người ở Bến Tre vẫn gọi là cá “lò tho”. Từ quan điểm vững chắc rằng “lò tho” là một danh từ được tạo thành bằng cách Việt hoá tiếng Khmer “kìntho”,người nghiên cứu có thể sưu tầm các tài liệu về lịch sử dân tộc, về sinh hoạt của người Khmer xa xưa trong địa phương này, rồi đi đến kết luận là địa danh Cần Thơ xuất phát từ danh từ Khmer “kìntho”.

Mỹ Tho
Trường hợp Mỹ Tho cũng tương tự. Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn Việt Nam, “mỹ” và “tho”, không tạo nên một ý nghĩa nào theo cách hiểu trong tiếng Việt. Những tài liệu thích ứng về lịch sử và sinh hoạt của người Khmer trong vùng thời xa xưa đã xác định địa phương này có lúc đã được gọi là “Srock Mỳ Xó” (xứ nàng trắng). Mình gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ Srock,chỉ còn giữ lại Mỳ Xó thôi.

Sóc Trăng
Theo cố học giả Vương Hồng Sển, đúng ra phải gọi là Sốc Trăng. Sốc Trăng xuất phát từ tiếng Khmer “Srock Khléang”. Srock có nghĩa là xứ, cõi. Khléang là kho chứa vàng bạc của vua. Srock Khléang là xứ có kho vàng bạc nhà vua. Trước kia người Việt viết là Sốc Kha Lăng, sau nữa biến thành Sốc Trăng.Tên Sốc Trăng đã có những lần bị biến đổi hoàn toàn. Thời Minh Mạng, đã đổi lại là Nguyệt Giang tỉnh, có nghĩa là sông trăng (sốc thành sông, tiếng Hán Việt là giang; trăng là nguyệt).Đến thời ông Diệm, lại gọi là tỉnh Ba Xuyên,châu thành Khánh Hưng. Bây giờ trở lại là Sóc Trăng.

Bãi Xàu
Bãi Xàu là tên một quận thuộc tỉnh Sóc Trăng. Đây là một quận ven biển nên có một số người vội quyết đoán,
cho rằng đây là một trường hợp sai chính tả, phải gọi là Bãi Sau mới đúng. Thật ra, tuy là một vùng bờ biển
nhưng Bãi Xàu không có nghĩa là bãi nào cả. Nó xuất phát từ tiếng Khmer “bai xao” có nghĩa là cơm sống. Theo truyền thuyết của dân địa phương, có địa danh này là vì nơi đây ngày trước, một lực lượng quân Khmer chống lại nhà Nguyễn đã phải ăn cơm chưa chín để chạy khi bị truy đuổi.

Kế Sách
Kế Sách cũng là một quận của Sóc Trăng. Kế Sách nằm ở gần cửa Ba Thắc (một cửa của sông Củu Long),
phần lớn đất đai là cát do phù sa sông Hậu, rất thích hợp cho việc trồng dừa và mía. Cát tiếng Khmer là K’sach, như vậy Kế Sách là sự Việt hoá tiếng Khmer “k’sach”.

Một số địa danh khác
Cái Răng (thuộc Cần Thơ) là sự Việt hoá của “k’ran”, tức cà ràn, là một loại bếp lò nấu bằng củi, có thể trước kia đây là vùng sản xuất hoặc bán cà ràn.
Trà Vinh xuất phát từ “prha trapenh” có nghĩa là ao linh thiêng.
Sông Trà Cuông ở Sóc Trăng do tiếng Khmer “Prek Trakum”, là sông rau muống (trakum là rau muống).
Sa Đéc xuất phát từ “Phsar Dek”, phsar là chợ, dek là sắt.
Tha La, một địa danh nổi tiếng ở Tây Ninh (Tha La xóm đạo), do tiếng Khmer “srala”,là nhà nghỉ ngơi, tu dưỡng của tu sĩ Phật giáo.
Cà Mau là sự Việt hoá của tiếng Khmer “Tưck Khmau”, có nghĩa là nước đen.

Phần 3

Địa danh do công dụng của một địa điểm hay do một khu vực sinh sống làm ăn.

Đây là trường hợp phổ biến nhất trong các địa danh. Theo thói quen, khi muốn hướng dẫn hay diễn tả một nơi chốn nào đó mà thuở ban đầu chưa có tên gọi,người ta thường hay mượn một điểm nào khá phổ biến của nơi đó, như cái chợ cái cầu và thêm vào một vào đặc tính nữa của cái chợ cái cầu đó; lâu ngày rồi thành tên, có khi bao trùm cả một vùng rộng lớn hơn vị trí ban đầu.

Chợ
Phổ biến nhất của các địa danh về chợ là chợ cũ, chợ mới, xuất hiện ở rất nhiều nơi. Sài Gòn có một khu Chợ Cũ ở đường Hàm Nghi đã trở thành một địa danh quen thuộc. Chợ Mới cũng trở thành tên của một quận trong tỉnh An Giang. Kế bên Sài Gòn là Chợ Lớn, xa hơn chút nữa là Chợ Nhỏ ở Thủ Đức.Địa danh về chợ còn được phân biệt như sau;
– Theo loại hàng được bán nhiều nhất ở chợ đó từ lúc mới có chợ, như: Chợ Gạo ở Mỹ Tho, Chợ Búng (đáng lý là Bún) ở Lái Thiêu, Chợ Đệm ở Long An, Chợ Đũi ở Sài Gòn.
– Theo tên người sáng lập chợ hay chủ chợ (độc quyền thu thuế chợ), như: chợ Bà Chiểu, chợ Bà Hom, chợ Bà Quẹo , chợ Bà Rịa.
– Theo vị trí của chợ, như: chợ Giữa ở Mỹ Tho, chợ Cầu (vì gần một cây cầu sắt) ở Gò Vấp, chợ Cầu Ông Lãnh ở Sài Gòn.

Xóm
là một từ để phân biệt một khu vực trong làng hay một địa phương lớn hơn, về mục tiêu sản xuất, thương mại hay chỉ đơn thuần về vị trí.
Đơn thuần về vị trí, trong một làng chẳng hạn, có Xóm Trên, Xóm Dưới, Xóm Trong, Xóm Ngoài, Xóm Chùa, Xóm Đình…
Về các mục tiêu sản xuất và thương mại, ngày nay cách phân biệt các xóm chỉ còn ở nông thôn mà không còn phổ biến ở thành thị.
Những địa danh còn sót lại về xóm ở khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn: vùng phụ cận chợ Bà Chiểu có Xóm Giá, Xóm Gà. Gò Vấp có Xóm Thơm. Quận 4 có Xóm Chiếu. Chợ Lớn có Xóm Than, Xóm Củi, Xóm Vôi, Xóm Trĩ (Trĩ là những nhánh cây hay thân cây suôn sẻ to cỡ bằng ngón chân cái, dài chừng 2 mét, dùng để làm rào, làm luới hay làm bủa để nuôi tằm).

Thủ
là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông, vì khá phổ biến thời trước nên “thủ” đã đi vào một số địa danh hiện nay hãy còn thông dụng, như:Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài Gòn), Thủ Thừa (Long An),Thủ Dầu Một (Bình Dương). Đức, Thiêm, Ngữ, Thừa có lẽ là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này và đã giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đã được người dân gắn liền với nơi làm việc của họ. Còn Thủ Dầu Một thì ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi.

Bến
ban đầu là chỗ có đủ điều kiện thuận tiện cho thuyền ghe ghé vào bờ hoặc đậu lại do yêu cầu chuyên chở, lên xuống hàng. Sau này nghĩa rộng ra cho cả xe đò,xe hàng, xe lam…
Cũng như chợ, bến thường được phân biệt và đặt tên theo các loại hàng được cất lên nhiều nhất. Một số tên bến đặt theo cách này đã trở thành tên riêng của một số địa phương, như: Bến Cỏ, Bến Súc, Bến Củi ở Bình Dương. Bến Đá ở Thủ Đức.Bến Gỗ ở Biên Hoà.
Ngoài ra bến cũng còn có thể được đặt tên theo một đặc điểm nào ở đó, như một loại cây, cỏ nào mọc nhiều ở đó, và cũng trở thành tên của một địa phương, như:
Bến Tranh ở Mỹ Tho, Bến Lức ở Long An (đáng lý là lứt, là một loại cây nhỏ lá nhỏ, rễ dùng làm thuốc, đông y gọi là sài hồ).

Một số trường hợp khác

Có một số địa danh được hình thành do vị trí liên hệ đến giao thông, như ngã năm, ngã bảy, cầu, rạch…thêm vào đặc điểm của vị trí đó, hoặc tên riêng của một nhân vật có tiếng ở tại vị trí đó. Ở Sài Gòn có rất nhiều địa danh được hình thành theo cách này: Ngả Tư Bảy Hiền, Ngã Năm Chuồng Chó, Ngã Ba Ông Tạ…Ở Trà Vinh có Cầu Ngang đã trở thành tên của một quận. Trường hợp hình thành của địa danh Nhà Bè khá đặc biệt, đó là vị trí ngã ba sông, nơi gặp nhau của 2 con sông Đồng Nai và Bến Nghé trước khi nhập lại thành sông Lòng Tảo. Lúc ròng, nước của hai con sông đổ ra rất mạnh thuyền bè không thể đi được, phải đậu lại đợi con nước lớn để nương theo sức nước mà về theo hai hướng Gia Định hoặc Đồng Nai.
“Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.”
Tương truyền có ông Thủ Huồng là một viên chức cai quản “thủ” ở vùng đó, tham nhũng nổi tiếng. Có lần nằm mơ thấy cảnh mình chết bị xuống âm phủ phải đền trả những tội lỗi khi còn sống. Sau đó ông từ chức và bắt đầu làm phúc bố thí rất nhiều; một trong những việc làm phúc của ông là làm một cái bè lớn ở giữa sông trên đó làm nhà, để sẵn những lu nước và củi lửa. Những ghe thuyền đợi nước lớn có thể cặp đó lên bè để nấu cơm và nghỉ ngơi. Địa danh Nhà Bè bắt nguồn từ đó.

Kết
Miền Nam là đất mới đối với người Việt Nam, những địa danh chỉ mới được hình thành trong vài thế kỷ trở lại đây nên những nhà nghiên cứu còn có thể truy nguyên ra nguồn gốc và ghi chép lại để lưu truyền. Cho đến nay thì rất nhiều địa danh chỉ còn lại cái tên mà ý nghĩa hoặc dấu vết nguyên thuỷ đã biến mất theo thời gian. Thí dụ, Chợ Quán ở đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn, bây giờ chỉ biết có khu Chợ Quán, nhà thờ Chợ Quán, nhà thương Chợ Quán…chứ còn cái chợ có cái quán đố ai mà tìm cho ra được. Hoặc Chợ Đũi (có một số người tưởng lầm là Chợ Đuổi vì người buôn bán hay bị nhân viên công lực rượt đuổi) ban đầu chuyên bán đũi, là một thứ hàng dày dệt bằng tơ lớn sợi, bây giờ mặt hàng đó đã biến mất nhưng địa danh thì vẫn còn. Ngoài ra, đất Sài Gòn xưa sông rạch nhiều nên có nhiều cầu, sau này thành phố được xây dựng một số sông rạch bị lấp đi, cầu biến mất, nhưng người dân vẫn còn dùng tên cây cũ ở nơi đó để gọi khu đó,như khu Cầu Muối. Và cũng có một số địa danh do phát âm sai nên ý nghĩa ban đầu đã bị biến đổi nhưng người ta đã quen với cái tên được phát âm sai đó nên khi ghi chép lại, vẫn giữ cái tên đã được đa số chấp nhận, như Bến Lức, chợ Búng (Lứt là tên đúng lúc ban đầu, vì nơi đó có nhiều cây lứt; còn chợ Búng nguyên thủy chỉ bán mặt hàng bún, sau này bán đủ mặt hàng và cái tên được viết khác đi).

Hồ Đình Vũ

Categories
5 – Sưu Tầm 7 - Trang văn học 8 - Trang Tài liệu Việt Nam

DÙNG DẤU HỎI – NGÃ


TIENG VIET1

“Chữ Việt” Thời Sài Gòn xưa 
DÙNG DẤU HỎI – NGÃ


chỉ nhắc cái cơ bản dễ nhớ để viết chính tả tương đối ổn và hạn chế lỗi ở mức thấp nhất .

1 . DÙNG TỪ LÁY THEO QUI ƯỚC :

– Dấu Hỏi đi với Sắc và Ngang .
– Dấu Ngã đi với Huyền và Nặng .

HỎI + SẮC :

– Gởi gắm , thổn thức , rải rác , khoảnh khắc , rẻ rúng , tử tế , cảnh cáo , sửng sốt , hảo hán , phản phúc , phản kháng , rửa ráy , quả quyết , khủng khiếp , khỏe khoắn , nhảm nhí , lở loét , lảnh lót , bảo bối , thưởng thức , thẳng thắn , thảng thốt , hiển hách , nhỏ nhắn , chải chuốt , rả rích , phảng phất , lả lướt , bổ báng , sản xuất .

– Mát mẻ , sắc sảo , mắng mỏ , vất vả , hối hả , hớn hở , xối xả , bóng bẩy , nóng nảy , sắp sửa , sắm sửa , hớt hải , lấp lửng , khúc khuỷu , tá lả , rác rưởi , trống trải , cứng cỏi , sáng sủa , sến sẩm , xấp xỉ , lém lỉnh , láu lỉnh , ngắn ngủi , chống chỏi , hốt hoảng , rắn rỏi , tức tưởi , chúi nhủi , nhắc nhở , nức nở , sấn sổ , ngất ngưởng , thắc thỏm , thấp thỏm , trắc trở , tráo trở , béo bở , ngái ngủ , gắt gỏng , kém cỏi , khấp khểnh , cáu kỉnh , kháu khỉnh , thất thểu , khốn khổ , tán tỉnh , ngúng nguẩy .

HỎI + NGANG :

– Nhỏ nhen , nhởn nhơ , ngẩn ngơ , vẩn vơ , lẳng lơ , lẻ loi , hỏi han , nở nang , nể nang , ngổn ngang , dở dang , giỏi giang , sửa sang , thở than , mỏng manh , chỉn chu , dửng dưng , trả treo , tả tơi , bỏ bê , mải mê , chở che , bảnh bao , hẩm hiu , phẳng phiu , khẳng khiu , rủi ro , mỉa mai , trẻ trung , nghỉ ngơi , ngủ nghê , tỉ tê , xỏ xiên , ngả nghiêng , đảo điên , hiển nhiên , lẻ loi , thảnh thơi , sản sinh .

– Dư dả , chăm chỉ , năn nỉ , thư thả , thon thả , thoang thoảng , trong trẻo , trăn trở , vui vẻ , thơ thẩn , thanh thản , mơn mởn , xăm xỉa , lêu lổng , hư hỏng , căng thẳng , dai dẳng , xây xẩm , san sẻ , xoay sở , hăm hở , xa xỉ , ngoe nguẩy , phe phẩy , đông đủ , tanh tưởi , chưng hửng , tiu nghỉu , sang sảng , nham nhở , chao đảo , gây gổ , sơ hở , cơ sở , tin tưởng , năng nổ , cưa cẩm , thăm thẳm , đưa đẩy , tưng tửng , say xỉn

NGÃ + HUYỀN :

– Bẽ bàng , vẫy vùng , nõn nà , vững vàng , đẫy đà , phũ phàng , bão bùng , sỗ sàng , vỗ về , rõ ràng , vẽ vời , sững sờ , ngỡ ngàng , hỗn hào , hãi hùng , sẵn sàng , kỹ càng , não nề , khẽ khàng , mỡ màng , lỡ làng .
Gần gũi , liều lĩnh , lầm lỗi , gìn giữ , buồn bã , tầm tã , suồng sã , rầu rĩ , thờ thẫn , hờ hững , sàm sỡ , xoàng xĩnh , phè phỡn , bừa bãi , thừa thãi , nghề ngỗng , lừng lẫy , ruồng rẫy , lờ lững , đằng đẵng , mò mẫm , lầm lũi , nhàn nhã, bằng hữu.

NGÃ + NẶNG :

– Lãng mạn , lũ lụt , hãm hại , nhẫn nhịn , lễ lộc , lỗi lạc , rũ rượi , lưỡng lự , chễm chệ , nhã nhặn , mẫu mực , chững chạc , dõng dạc , dữ dội , cãi cọ , nhão nhoẹt , kẽo kẹt , kĩu kịt , nhễ nhại , rõ rệt , lẫn lộn

– Gọn ghẽ , ngạo nghễ , vạm vỡ , lặng lẽ , lạnh lẽo , bạc bẽo , sặc sỡ , rực rỡ , rộn rã , vội vã , nghiệt ngã , hậu hĩ , hậu hĩnh , ngộ nghĩnh , gạt gẫm , hụt hẫng , dựa dẫm , nhẹ nhõm , bập bõm , chập chững , mạnh mẽ , chặt chẽ , sạch sẽ , ngặt nghẽo , khập khiễng , đục đẽo , ruộng rẫy , giặc giã , giặt giũ , giận dỗi , bụ bẫm , dạy dỗ , gặp gỡ , dụ dỗ , lạ lẫm , rộng rãi , tục tĩu , nhục nhã , dạn dĩ , rạng rỡ , rệu rã .

* TỪ KÉP LÀ TỪ THƯỜNG ĐI MỘT CẶP DẤU HỎI HOẶC NGÃ .

– Lã chã , bỗ bã , bẽn lẽn , bỡ ngỡ , mỹ mãn , dễ dãi , cũn cỡn , lững thững , ngẫm nghĩ , lỗ lã , lẽo đẽo , nhõng nhẽo , mũm mĩm , mẫu mã , vĩnh viễn , nhễu nhão .

– Thỏ thẻ , đỏng đảnh , lẻ tẻ , của cải , lẩm bẩm , lẩm cẩm , lảm nhảm , hể hả , kể lể , nhỏng nhảnh , lủng củng , thỉnh thoảng , lảo đảo , tỉ mỉ , thủ thỉ , lảng vảng , rủng rỉnh , loảng xoảng , hổn hển , lủng lẳng , lỏng lẻo , lải nhải , tủm tỉm , bủn rủn , xởi lởi , tẩn mẩn , lẩn quẩn , thỏn mỏn , chỏn lỏn , giả lả , bải hoải , bổi hổi , lẩn thẩn , lởm chởm , rỉ rả , thủng thẳng , bỏm bẻm , nhỏm nhẻm , xiểng niểng , lẩy bẩy

2 . TỪ NGUYÊN ÂM : DẤU HỎI

Ủa , ổi , ổng , ẩu , ủng , ỷ , ổn , ửng , ổ , ủy , ỏn ẻn , ong ỏng , im ỉm , âm ỉ , ấp ủ , ảo ảnh , ăn ở , êm ả , oi ả , yên ả , óng ả , ẩn ý , an ủi , ỉ ôi , ẩm ướt , ủ ê , uể oải , ít ỏi , ủn ỉn , oan uổng , ăng ẳng , ư ử , oẳn tù tì , ẻo lả , ủ rũ , yểu điệu , ỉu xìu , ảm đạm , uyển chuyển , quan ải , oản xôi , yểm trợ ( trừ : ễnh , ưỡn , ẵm , ỡm )

3 . TỪ HÁN VIỆT BẮT ĐẦU LÀ M , N , NH , L , V , D , NG THÌ DẤU NGÃ , CÁC CHỮ KHÁC DẤU HỎI .

Ghi nhớ 7 chữ này bằng câu “ Mình Nên Nhớ Là Viết Dấu Ngã “
– M : Mỹ nhân , Mẫu giáo , Mã đáo , Mãn nguyện , Mãng xà , Mãnh lực , Mẫn cán , Miễn nhiệm , Mão mũ
– N : Não bộ , Nữ nhi , Noãn hoa , Nỗ lực , Nã ( truy nã )
– NH : Nhẫn tâm , Nhãn tiền , Nhiễu loạn , Nhũ mẫu , Nhã nhạc , Nhã nhặn , Nhuyễn thể , Nhĩ ( mộc nhĩ ) , Nhưỡng ( thổ nhưỡng)
– L : Lão gia , Lễ nghi , Lĩnh hội , Lỗi lạc , Lữ khách , Lãng tử , Lưỡng tính , Lãnh địa , Luỹ thành , Lãm nguyệt , Lẫm liệt
– V : Vãn hồi , Viễn xứ , Vĩ đại , Võ sư , Vũ trang , Vĩnh hằng , Vững chãi
– D : Diễm phúc , Dũng khí , Dưỡng dục , Dĩ nhiên , Dõng dạc , Diễu hành , Dã ngoại , Dã tâm , Diễn thuyết
– NG : Nghĩa hiệp , Ngũ cốc , Ngữ hệ , Ngẫu nhiên , Nghiễm nhiên , Ngưỡng mộ , Ngã ( bản ngã )

4 . HỌ VÀ TRẠNG TỪ : DẤU NGÃ

– Họ Nguyễn , Võ , Vũ , Đỗ , Doãn , Lữ , Lã , Mã , Liễu , Nhữ
– Cũng , vẫn , sẽ , mãi , đã , những , hỡi , hễ , lẽ ra , mỗi , nữa , dẫu …

5 . DÙNG DẤU BẰNG CÁCH SUY LUẬN THEO NGHĨA . Ví dụ :

NỔI – NỖI :

– Chỉ sự trổi lên hơn mức bình thường thì dấu hỏi ( nổi trội , nổi bật , nổi danh , nổi tiếng , nổi mụn , nổi gân , nổi điên , nổi giận , nổi xung , nổi hứng , nổi sóng , nổi bọt , nổi dậy , chợ nổi , nông nổi , làm nổi , trôi nổi , hết nói nổi , chịu hết nổi , gánh không nổi )

– Cái nào mang tính biểu cảm thì dấu ngã ( khổ nỗi , đến nỗi nào , làm gì nên nỗi , nỗi lòng , nỗi niềm , nỗi ước ao , nỗi nhục , nỗi oan , nỗi hận , nỗi nhớ )

NGHỈ – NGHĨ :

– Liên quan đến sự dừng lại một hoạt động thì dấu hỏi ( nghỉ ngơi , nghỉ học , nghỉ việc , nghỉ hè , nghỉ lễ , nghỉ mệt , nghỉ dưỡng , nghỉ chơi , nghỉ mát , nghỉ thở , nghiêm nghỉ , nhà nghỉ , an nghỉ )

– Thể hiện cảm xúc suy nghĩ thì dấu ngã ( nghĩ ngợi , suy nghĩ , ngẫm nghĩ , nghĩ cách , thầm nghĩ , nghĩ quẫn , nghĩ bậy , cạn nghĩ )

MẢNH – MÃNH :

– Cái nào gợi hình dáng thì dấu hỏi ( mảnh trăng , mảnh ruộng , mảnh vườn , mảnh đất , mảnh xương , mảnh sành , mảnh vỡ , mảnh khảnh , mảnh mai , mảnh khăn , mảnh áo , mảnh vá , mảnh tình , mỏng mảnh )

Thể hiện tính chất thì dấu ngã ( dũng mãnh , mãnh liệt , ranh mãnh , ma mãnh , mãnh hổ , mãnh thú , mãnh lực ..)

KỶ – KỸ :

– Gắn với bản thân con người thì dấu hỏi ( kỷ vật , kỷ niệm , kỷ luật , kỷ lục , kỷ yếu , ích kỷ , tự kỷ , vị kỷ , tri kỷ , thế kỷ , thập kỷ )

– Gắn với kỹ thuật , trình độ thao tác thì dấu ngã ( Kỹ nghệ , kỹ năng , kỹ xảo , kỹ thuật , kỹ sư , kỹ nữ , kỹ lưỡng , kỹ càng , kỹ tính , nghĩ kỹ , giấu kỹ , tuyệt kỹ )

CHÚ Ý :

Qui ước cơ bản chứ không tuyệt đối , vẫn có một số từ ngoại lệ không theo qui ước trên như :

HỎI + NẶNG : – Hủ tục, hủ bại.

chữ “nữa” viết dấu ngã trong đa số trường hợp, chỉ khi nói về số lượng chia hai như ” phân nửa”, “một nửa”, thì viết dấu hỏi.
Bài viết có thể hữu ích (有益) cho những ai thường phạm lỗi chính tả “hỏi ngã”. Tuy nhiên, phải nên nói rõ hơn là luật “trắc, bằng” thường đi kèm theo với dấu “hỏi” và “nặng huyền” thì thường đi kèm với dấu “ngã” thì chỉ nên áp dụng với chữ kép “thuần” Việt mà thôi. Còn nếu là những từ kép Hán Việt thì “quy luật” đó không có được hiệu nghiệm cho lắm. Tôi xin cho thí dụ:
Ví dụ như chữ “sản xuất” (產出) ở trên là tiếng Hán Việt và “tình cờ” nó đi theo cái luật “bằng, trắc”. Tuy nhiên, nếu là “cộng sản” (共產) hay “tài sản” (財產) thì nó lại không có hợp với luật “huyền nặng”!

Lý do là vì chữ Hán Việt không hề thay đổi từ “hỏi” sang “ngã” hay ngược lại, khi cái chữ đó đi kẹp với những chữ có những dấu khác nhau.

Một khi chữ “sản” đã được viết với dấu “hỏi” rồi thì cho dù nó có đi kẹp với dấu gì đi nữa thì nó vẫn phải viết với dấu hỏi mà thôi.

Giống như chữ “phản ứng” (反應) thì là đúng với quy luật, dấu “hỏi” đi kèm với dấu “sắc”, nhưng “phản hồi” (反囘) thì không theo quy luật vì viết với dấu hỏi, nhưng lại đi kèm theo với dấu “huyền” !
 

Categories
9 - Trang thời sự Việt Nam

Tô Lâm nhậm chức Chủ tịch nước Việt Nam


Tô Lâm nhậm chức Chủ tịch nước Việt Nam

 BM

Sáng 22/05, 100% đại biểu tham gia biểu quyết, đồng ý miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Công an với đại tướng Tô Lâm.
Người kế nhiệm đại tướng Tô Lâm là thượng tướng Trần Quốc Tỏ, Thứ trưởng Bộ Công an. Ông Tỏ sẽ điều hành hoạt động của Bộ Công an cho đến khi cấp có thẩm quyền kiện toàn chức danh Bộ trưởng.

Trước đó, vào buổi sáng cùng ngày, 472/473 đại biểu có mặt đã thông qua Nghị quyết bầu ông Tô Lâm giữ chức Chủ tịch nước Việt Nam nhiệm kỳ 2021-2026. Đúng 9 giờ, ông Tô Lâm bước lên bục thực hiện nghi lễ tuyên thệ.

Như vậy chỉ trong vòng 3 năm qua, nhà nước Việt Nam đã thay 3 chủ tịch nước khác nhau. Trong đó, 2 cựu chủ tịch nước là ông Nguyễn Xuân Phúc và ông Võ Văn Thưởng bị miễn nhiệm trước khi kết thúc nhiệm kỳ do liên quan đến sai phạm.BMVới cương vị tân Chủ tịch nước nhiệm kỳ 2021-2026, trong bài diễn văn nhậm chức, đại tướng Tô Lâm (67 tuổi, quê huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) nói: “Tôi xin hứa thực hiện nghiêm túc đầy đủ, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước đã được hiến định.”

Trần Thanh Mẫn làm Ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninhBMCũng trong sáng ngày 22/05, Quốc hội thông qua nghị quyết phê chuẩn chức danh Ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh đối với ông Trần Thanh Mẫn, Chủ tịch Quốc hội – người nhậm chức cách đây 2 ngày, vào hôm 20/05.
BMTheo Hiến pháp Việt Nam, Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Phó chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh là Thủ tướng Phạm Minh Chính. Các ủy viên Hội đồng quốc phòng và an ninh gồm 2 ông: Đại tướng Phan Văn Giang (Bộ trưởng Quốc phòng) và ông Bùi Thanh Sơn (Bộ trưởng Ngoại giao).

Hiện lãnh đạo Hội đồng Quốc phòng và An ninh gồm 5 người: Chủ tịch, phó Chủ tịch, và 3 Ủy viên.

Còn Bộ Công an hiện ngoài thượng tướng Trần Quốc Tỏ, có 5 thứ trưởng khác, gồm: thượng tướng Lương Tam Quang, thượng tướng Nguyễn Duy Ngọc, trung tướng Lê Quốc Hùng, trung tướng Nguyễn Văn Long, và trung tướng Lê Văn Tuyến.

Băng Băng

Source : https://baomai.blogspot.com/2024/05/to-lam-nham-chuc-chu-tich-nuoc-viet-nam.html

Categories
6 - Trang lượm lặt Việt Nam

DƯỚI BÓNG MÁT CỦA LÁ CỜ “BA QUE”


11178292_1631677003732354_4281267900250539646_n

DƯỚI BÓNG MÁT CỦA LÁ CỜ “BA QUE”

Bài posted lại lần 2

Thứ Ba, 24 tháng 1, 2023

Bài viết dành cho những kẻ mỗi lần mở miệng là phát ra tiếng “Ba que”

Theo tôi thấy, thì những kẻ hay dùng cái từ 3/// đó thường còn trẻ, đa số chưa đến 60, có nghĩa là vào năm 1975 chỉ còn là con nít. Còn những người lớn tuổi hơn, thậm chí cả đảng viên, họ cũng nói một cách khác. Ngay cả từ Ngụy Quân và Ngụy Quyền cũng đã được chính thức gỡ xuống. Cho rằng họ là những kẻ “chiến thắng” một cuộc chiến đi, nhưng tâm lý mặc cảm thua kém của họ vẫn thể hiện qua rất nhiều mặt. Những giá trị của xã hội thời VNCH vẫn còn đó, làm cho kẻ “chiến thắng” ăn ngủ không yên. Hằng triệu người Bắc di cư vào Nam, sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Hằng triệu người khác vượt biển Đông để từ bỏ chế độ CS sau “chiến thắng” 1975.
<!>
Rồi sau 1975, bao nhiêu triệu người miền Bắc lũ lượt kéo vào miền Nam làm việc và sinh sống. Hà Nội là thủ đô, được đảng CS chăm sóc trước miền Nam những 30 cơ mà? Sao không có làn sóng dân Nam kéo về Hà Nội? Đảng tuyên truyền rằng nhờ Mỹ đổ tiền vô nên miền Nam phồn thịnh! Sao lại bảo là Mỹ ác lắm đem quân vô giết dân Việt.
Điều nào đúng? – Cả hai đều sai!
Nói rằng thiên nhiên miền Nam trù phù hơn. Đó là ngụy biện hoặc là dốt nát. Karl Marx đã sai lầm căn bản ở điểm nầy khi xây dựng lý thuyết Cộng Sản. Theo lý thuyết đó, đất đai và phương tiện sản xuất là suối nguồn của sự giàu có, nên CS không cho tư nhân có quyền sở hữu đất đai và phương tiện sản xuất.
Nhưng thật ra sự phong phú nằm nơi con người, đất nước nào biết chăm sóc và trân trọng con người, đất nước đó sẽ hưởng được sự thịnh vượng. Hãy so sánh Nam và Bắc Hàn. Nam Việt và Bắc Việt cũng không ngoại lệ.
Miền Nam lúc nào cũng bị quân CS đánh phá và khủng bố, chính quyền dân chủ non trẻ với nhiều CS nằm vùng, mà vẫn xây dựng được cuộc sống hài hòa cho người dân. Phát triển mọi mặt từ kinh tế, giao thông công cộng, y tế , giáo dục… Đó là lý do tại sao miền Nam thịnh vượng. Và cái trình độ dân trí đó đã kéo miền Nam vượt lên hẳn so với Hà Nội.
Rồi những người miền nam liều mình vượt biển để tìm con đường sống trong cái chết. Nếu chẳng may bị bắt trở lại thì bị tù đầy với tội danh là “phản quốc”. Khi họ ổn định cuộc sống nơi nước ngoài, gửi những đồng tiền do chính sức lao động của họ về cho thân nhân ở trong nước thì đảng lại gọi họ là “kiều bào”, “khúc ruột ngàn dậm”, nghe sự nịnh nọt trơ trẽn mắc ói! Còn mấy cái mồm tuyên truyền thì kêu đi ra nước ngoài ăn bơ thừa sữa cặn… Nhờ những đồng tiền “bơ thừa sữa cặn” đó mà kinh tế VN vượt qua thời kỳ khô cằn do đường lối kinh tế XHCN, mọi thứ đều quốc doanh hóa, nhà nước quản lý hết… Đến lúc hết thở, nên nhà nước hết hồn, đành buông xả ra gọi là “đổi mới”!
Qua đó, có phải cái bóng mát của VNCH vẫn che cho dân trong những lúc khó khăn đó đến ngày hôm nay?
Vậy đó, Cộng Sản Bắc Việt vi phạm những hiệp ước quốc tế để giành chiến thắng nhưng những giá trị Nhân Bản của VNCH càng lúc càng âm ỉ đốt nóng những trái tim Việt Nam.
Các người cứ dùng lời lẽ sấc xược để tỏ vẻ khinh miệt người khác càng làm lộ rõ các người dốt nát và kém văn hóa mà thôi. Cộng Sản Chủ Nghĩa là đỉnh cao của Xã Hội Chủ Nghĩa. Mà XHCN cũng vỡ tan theo liên bang Sô Viết rồi, còn Thiên Đàng Cộng Sản có nằm mơ cũng không gặp.
Vậy mà các người cố gào 3/// để làm cho mình cao hơn ư? Rất tiếc cái chính nghĩa Cộng Hòa đó vẫn sáng mãi trong lòng dân Việt, nhất là nhân dân miền Nam. Có lẽ phải dùng đến những con số để chứng minh cho thấy cả guồng máy của nhà nước XHCNVN đã và đang sống dưới bóng mát của lá cờ mà họ gọi là 3/// đó.
Các người cứ lục tung hết sổ sách của cái gọi là “chính quyền XHCNVN” lên mà xem tổng ngân sách nhà nước dùng để trả lương cho toàn bộ công nhân viên chức nhà nước là bao nhiêu. Rồi các người xem con số đó có phải chưa bằng một nửa số tiền Việt Kiều gửi về hàng năm, trung bình là 10 tỷ USD, có năm cao hơn. Như vậy các người không ngủ dưới bóng mát của lá cờ vàng ba sọc đỏ là gì?
Tôi sẽ dẫn giải cho các người thấy, cả nước VN từ sau 1975 đến nay vẫn tiếp tục sống dưới bóng mát của lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.
Từ ngày Sài Gòn bị “phỏng giái”, (người dân Miền Nam nói như vậy đó, nói lái là một nét đặc thù trong văn hóa bình dân của dân nam kỳ), thì một mặt trận tiêu diệt Văn Hóa miền Nam được phát động rất quy mô và triệt để. Đó là trận chiến “Tẩy Não” dân Miền Nam, nhằm loại bỏ tư tưởng và ý thức hệ Tự Do Dân Chủ. Tất cả văn hoá phẩm từ sách báo đến âm nhạc đều bị tiêu hủy và cấm đoán. Nhưng làm sao trói buộc được tư tưởng của con người chứ?
Nhà nhà nộp sách đem đốt, việc nầy không khó, nhưng cấm dân miền Nam hát những bản nhạc đã in sâu vào tim vào óc của họ thì quả là không thể được. Khi mọi thứ đã hoang tàn đổ nát kể cả lòng người dân lành, thì những dòng nhạc trữ tình khe khẽ quay trở về như làn gió nhiệm mầu xoa dịu bớt cái nỗi thống khổ của đời thường XHCN. CSVN gọi dòng nhạc đó là “Nhạc Vàng” để cân với dòng “Nhạc Đỏ” sặc mùi chém giết mà giai điệu và tiết tấu mang đậm sắc thái TC. Nhưng tới hiện tại thì họ trở nên ganh tị với cái tên gọi đó, vì nó đích đáng và đúng trên nhiều khía cạnh.
“Nhạc Vàng” không cổ súy chiến tranh mà chỉ biểu lộ những đau thương của con người trong thời chiến. Vậy tại sao người ta cấm Nhạc Vàng? Có phải người ta sợ cái bóng dáng thiên thần dịu dàng và ngọt ngào đầy tình người sẽ làm hiện thân của Ác Quỷ nổi trội rõ nét hơn chăng?
“Nhạc Vàng” một tòa lâu đài văn hóa Việt Nam Cộng Hòa bất diệt, chẳng những không hoen rỉ qua thời gian mà còn lóng lánh hơn như một kho báu cho mọi tầng lớp con dân VN suốt 3 miền và kể cả những kẻ từng lên án, vùi dập lẫn sợ sệt nó. Bao nhiêu người đã khai thác cái kho báu vô tận nầy
“Nhạc Vàng” loài hoa mỹ miều kiêu sa, mọc lên từ bom đạn chiến tranh, tồn tại qua bao sự vùi dập, thể hiện tính Nhân Bản của một xã hội đầy tình người, đáng được trân quý như vàng. Hơn nửa thế kỷ qua, chưa có một đối thủ nào lăm le đứng gần chứ đừng nói là soán ngôi.
“Nhạc Vàng”, một hương vị kỳ diệu, không thể thiếu được khi thưởng thức một ly cà phê ngon hay một chén trà thanh thoát. Một tay guitar và nhạc vàng luôn là tâm điểm cho những buổi nhậu bình dân.
“Nhạc Vàng”, một loại trầm hương hảo hạng cho bất kỳ cuộc họp mặt nào từ quê ra tỉnh, từ đám cưới đến đám tang, từ sân khấu đại nhạc hội hàng ngàn khán thính giả đến quán cà phê dăm ba người cuối phố, thậm chí là niềm giải trí duy nhất trong chốn lao tù….
“Nhạc Vàng”, là ánh lửa rực rỡ của con Phượng Hoàng hồi sinh từ tro bụi sau khi những người nhân danh CSCN đã giết nó bằng mọi khả năng của họ. Ánh lửa đó đã bùng lên, lan tỏa đến từng trái tim của chính những người mang danh hiệu là Đảng Viên ĐCSVN, bất luận là ở đâu, Nghệ Tĩnh, Hà Nội hay Sài Gòn!
Nói mãi về “Nhạc Vàng” VNCH không bao giờ cạn ý.
Nếu những lời lẽ quanh co trên đây chưa thực sự vẽ ra cái bóng mát của lá cờ vàng, chưa chứng minh được âm nhạc VNCH là Vàng ròng 24 kara thì tôi xin được dẫn quý vị vào yếu tố kinh tế của Nhạc Vàng vậy.
Từ hải ngoại đến quốc nội, bao nhiêu doanh nghiệp phát triển nhờ Nhạc Vàng, bao nhiêu ca sĩ thành danh và nên sự nghiệp, bao nhiêu người trở nên giàu có, bao nhiêu công ăn việc làm cho cái kỹ nghệ âm nhạc nầy, từ thời băng từ, đến đĩa từ, CD, kế đến phong trào Karaoke, bao nhiêu kỹ thuật viên, phòng thâu, ca nhạc sĩ, cơ sở sản xuất, phát hành, bán sỉ lẻ, thiết bị âm thanh, ..v.v và v.v…
Bao nhiêu Đại Nhạc Hội, tụ điểm ca nhạc… Biết bao nhiêu ca sĩ, từ Bắc chí Nam đã thành triệu phú đô la nhờ vào cái bị gọi là “Văn Hóa Nô Dịch” đó.
“Nhạc Vàng” đã tham gia với người dân cả nước trong việc mưu sinh hàng ngày, từ quán cà phê, đến hàng loạt xe đò đường dài, đến anh bán kẹo kéo, đến những em bán hàng rong hằng đêm trên phố, đến những người hành khất… Lớp học hát, học đàn nở rộ, tiệm sản xuất đàn guitar gia tăng, quán cà phê nhạc sống, bình dị mà trữ tình ngày càng phổ biến.
Một chiếc điện thoại thông minh, một cái mi-crô không dây, khách ngồi uống nước mía bên vệ đường cũng có thể chia sẻ với nhau một bản tình ca… ấm áp. Cái bóng mát đó càng ngày càng mở rộng ra trên nhiều lãnh vực của cuộc sống và địa phưong, lan dần đến tận các tỉnh miền Bắc… Đó không phải là bóng mát từ nền âm nhạc Việt Nam Cộng Hòa thì là gì, lửa hỏa ngục chăng?
Tôi đã thấy, ca sĩ bậc nhất ĐVH, tranh thủ cho ra mắt 2, 3 album nhạc vàng trong vòng một tháng, hát giành hát giựt, sợ ca sĩ khác hát trước, mất số bán. Như một tên ăn trộm, khám phá ra kho báu, hốt vội hốt vàng, nhạc vàng là vàng ròng đó.
Tôi đã thấy cũng ĐVH hát “Cho một người nằm xuống” , dĩ nhiên là hát để thu tiền, có bao giờ ĐVH nghĩ đến những trái ngọt nầy do ai vun trồng mà nên? Sao không hát cho người thương binh VNCH còn sống vất vưởng ngày hôm nay. Mang danh một điva, một nghệ sĩ , ĐVH nếu có tâm hồn nghệ sĩ, sao không dám một có lần tri ân những người đã nằm xuống để bảo vệ cho thể chế đã sản sinh ra cái kho báu âm nhạc nầy. Phải chăng vì không có tâm hồn mà chỉ hát vì lòng tham nên bị người đời gọi là Ca Nô?
Tôi đã xem video clip của đại ca… sĩ Ngọc Sơn, đại gia từ nhạc vàng, hát trong một hội trường đầy ắp khán giả là quân đội mặc quân phục đại cán, ngực đầy huân chương “cách miệng”. Những ca khúc nhạc vàng cất cao, cả hội trường đứng dậy, hai tay đưa lên cao, đung đưa theo dòng nhạc…
Các vị đa số là đảng viên, các vị chắc đã học tập lý luận nhiều lắm, quý vị có thấy một nghịch lý vô cùng to lớn ở đây không? Hoặc là các vị có thấy xấu hổ trong lòng không? Cái mà quý vị diệt tận, giết sạch ngày hôm qua, thì hôm nay ngồi dưới cái bóng mát của cái “xác khô” VNCH mà chia sẻ hương thơm ngào ngạt của nó.
Các người là kẻ chiếm và thắng, các người hành hạ, chà đạp kẻ thất cơ lỡ vận nhiều rồi, chúng tôi không màng, lịch sử sẽ có lúc trả lại công đạo.
Nếu quý vị mạt sát VNCH thì móc cổ mà ói ra hết những gì quý vị nuốt vô từ nền văn hóa VNCH đi.

Còn như quý vị trơ trẽn, miệng thì mỉa mai: “đu càng, ba que, quần què” mà giành nhau đưa tay vào chấm mút, thật đáng khinh thay!

Hoàng Ngọc Mai

Categories
6 - Trang lượm lặt Việt Nam

VNCH ĐÃ CỨU TRỢ NHÂN ĐẠO CHO MIỀN BẮC TRONG TRẬN LỤT NĂM 1971


434661132_1464942414450125_859600485040280244_n

CHUYỆN ÍT AI BIẾT: VNCH ĐÃ CỨU TRỢ NHÂN ĐẠO CHO MIỀN BẮC TRONG TRẬN LỤT NĂM 1971

Cứu trợ nhân đạo cần vượt qua thể chế, chính kiến, thậm chí “kẻ thù” trong chiến tranh!
Ngày nay chúng ta thường xuyên đọc tin Hàn Quốc viện trợ nhân đạo để cứu đói Bắc Triều Tiên, dù chính quyền Kim Jong Un luôn dùng những lời lẽ thấp kém để nhục mạ cả tổng thống và thể chế chính trị của họ.
Ít người biết chế độ VNCH, ngay trong thời điểm chiến tranh 2 miền khốc liệt, nhưng khi miền Bắc xảy ra lũ lụt cực lớn vào năm 1971, họ đã cho phép báo Tin Sáng (một tờ báo đối lập) lạc quyên ủng hộ đồng bào miền Bắc. Không chỉ vậy, chính quyền VNCH khi đó thông qua Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế, cũng trợ giúp người dân thuộc “kẻ thù” của họ. Trang lưu trữ Thời báo New York còn ghi:
“SAIGON, Nam Việt Nam, Thứ Ba, ngày 7 tháng 9 — Chính phủ Nam Việt Nam đã cung cấp thực phẩm và tiền bạc cho các nạn nhân của trận lũ lụt nặng nề ở miền Bắc Việt Nam ở khu vực xung quanh Hà Nội, Bộ Ngoại giao Sài Gòn thông báo tối qua.
Đây là lần đầu tiên Chính quyền Sài Gòn viện trợ như vậy cho kẻ thù của họ ở miền Bắc.
Thông cáo của Bộ Ngoại giao đã đề nghị 50.000 đô la cho Hội Chữ thập đỏ Quốc tế để mua “những vật phẩm cần thiết cho việc cứu trợ ở miền Bắc”.
Ngoài ra, Nam Việt Nam còn tặng 500 tấn gạo và 1.000 hộp (thùng) sữa đặc nhằm thể hiện sự đồng cảm “tình anh em” giữa hai nửa Việt Nam bị chia cắt.”.
Tất nhiên đây là tầm của một quốc gia, cá nhân thì không đáng nói. Nhưng quyên góp nhân đạo là hành vi bất vụ lợi, vì vậy nếu bạn có lòng bi mẫn thì hãy mở lòng, bất chấp người giúp bạn làm cầu nối với nạn nhân là ai, chính kiến ra sao.
Đó mới thực là Thiện Nguyện!
– Nguyễn Đình Bổn

P/s: Như thường lệ, do bị chính quyền giấu nhẹm nên người dân miền bắc khi ấy hoàn toàn không biết đây là những khoản viện trợ từ VNCH. Cũng giống như Triều Tiên nhận viện trợ Hàn Quốc và chỉ mang ơn “ngài Ủn” thôi.

Categories
8 - Trang Tài liệu Sưu Tầm Việt Nam

BÀI THƠ HỎI NGÃ (để viết chính tả đúng hơn)


427882735_3704232729835467_8474797180123169002_n

BÀI THƠ HỎI NGÃ
TIẾNG VIỆT TA… HAY THẬT…!
MŨM MĨM béo, MỦM MỈM cười.
CỦ quả dành để biếu người CŨ xưa.
KIỄNG chân, chậu KIỂNG đu đưa
KẺO hết, KẼO kẹt đêm mưa võng buồn.
HỔ thẹn chưa HỖ trợ lương.
GÃ kia GẢ bán người thương vì tiền
HẢO tâm lo chuyện HÃO huyền.
Đi buôn LỖ vốn, nước màu LỔ loang.
PHỦ phê chừ mới PHŨ phàng
Nửa đường GÃY gánh, GẢY đàn tìm vui.
GÃI đầu tính ngược, tính xuôi.
Còn lưng NỬA vốn NỮA thời tính sao.
GIÃI bày GIẢI nghĩa dễ đâu
Chưa kịp ẩu ĐẢ qua cầu ĐÃ xong.
Run RẨY phát RẪY dọn nương
GỠ rối điềm GỞ rộng đường nhân sinh.
Chú RỂ bứt RỄ cây quỳnh
Ra sức BỬA củi cho mình BỮA ăn.
BẨM thưa, bụ BẪM con người
Nói năng tao NHÃ, chim kia NHẢ mồi.
MÃ ngoài mồ MẢ xinh tươi
Nhường cơm SẺ áo cho người SẼ vui.
Linh CỮU vĩnh CỬU ai ơi
CỮ kiêng CỬ động bệnh thời sẽ qua.
TẺ nhạt, gạo TẺ của ta
Gần mà giữ KẼ thà ra KẺ thù.
KHẺ mỏ, nói KHẼ như ru
CỖ bàn, CỔ kính công phu phụng thờ.
BỖNG dưng trầm BỔNG bất ngờ
BĨU môi dè BỈU ai chờ đợi ai.
Bắt BẺ, BẼ mặt tía tai
LẺ loi lý LẼ gạt ngoài chẳng nghe.
Ngoài vườn CHỎNG gọng CHÕNG tre.
CẢI thiện, CÃI lại khó mà hoà nhau.
CHĨNH (hũ) tương nghiêng, CHỈNH sửa mau.
CỦNG cố lời nói cho nhau CŨNG đành.
CỞI trói CỠI (cưỡi) ngựa phi nhanh
Xem ai cứng CỎI được dành CÕI tiên.
BẢO ban, BÃO tố khắp miền
HẢNH nắng, HÃNH diện tuỳ duyên tuỳ thời.
Hồ đầy XẢ nước cho vơi
Giữ gìn XÃ tắc kẻo thời suy vong.
Chèo BẺO, bạc BẼO dài dòng
Quê hương rất ĐỖI ĐỔI thay phố phường.
NGHĨ mình ngơi NGHỈ dưỡng thương
TĨNH tâm TỈNH ngộ tìm đường ẩn cư.
TIỂU đội còn bận TIỄU trừ
Ngỡ rằng bảnh TẺN thành dư TẼN tò.
SẢI tay chú SÃI thập thò
Nhân sự thừa THÃI bị toà THẢI ra.
Đứng SỮNG, SỬNG sốt sợ ma
Trẻ thơ nói SÕI nhặt SỎI đá trôi.
TRẢ nợ bằng một TRÃ xôi
NÃY giờ còn đợi hạt thôi NẢY mầm.
Ẩn SĨ, SỈ nhục giận căm
GIẢ dại GIÃ gạo thăng trầm cho qua.
QUẪN trí nghĩ QUẨN sa đà
Chấp nhận xúi QUẨY hơn là QUẪY đuôi.
Đâm THỦNG, THŨNG xuống thấp rồi
Đòn BẨY được dịp lên đồi BẪY chim.
Đội NGŨ giấc NGỦ lim dim
Ân SỦNG ướt SŨNG nằm im chờ thời.
TỦM tỉm, đánh TŨM không lời
VĨ cầm, VĨ tuyến… VỈ ruồi giúp ta.
Rác RƯỞI gấp RƯỠI hôm qua
ĐẨY xe, ĐẪY giấc người ta chối từ.
ĐẢNG phái, ĐÃNG trí ưu tư
DỞ hơi, DỞ thói tật hư DỠ nhà.
LẨN quẩn, LẪN lộn tuổi già
ĐỈNH chung, ĐĨNH đạc cũng là ĐỈNH cao.
ĐỂ dành, hiếu ĐỄ về sau
Cô bé tròn trịa thật là DỄ thương.
DỎNG tai, DÕNG dạc khiêm nhường
RẢNH rỗi san lấp RÃNH mương trước nhà.
Qua NGÕ, NGỎ lời hát ca
QUẢNG cáo – thực tế cách ba QUÃNG đường.
RỦ rê quyến RŨ nhiễu nhương
RỔ sảo, RỖ mặt vấn vương một thời.
CHỬA đẻ, CHỮA bệnh ai ơi
Trường hợp HÃN hữu xin thời bỏ qua.
Phá CŨI làm CỦI bếp nhà
Xén bớt công QUĨ, QUỈ ma chẳng từ
Hạt DẺ, đất DẼ suy tư.
Sàng SẢY ít gạo đến giờ chưa xong
RỬA nhục thối RỮA mặc lòng.
Hen SUYỄN, suy SUYỂN đợi mong bao ngày.
CƯỠNG đoạt chim CƯỞNG trong tay
Xin đừng cà RỠN… RỞN gai ốc rồi.
SỬA chữa, SỮA mẹ em ơi
SẪM màu, SẨM tối xin mời ghé thăm.
MẨU bánh dành biếu MẪU thân
Đắt RẺ, ngã RẼ bao lần em qua.
SỖ sàng, SỔ toẹt chẳng tha
GIẢ thật, GIÃ gạo cho qua tháng ngày.
Gây GỔ, cây GỖ chuyền tay
Cánh HẨU chầu HẪU ngồi chờ đổi ngôi.
Mưa rỉ RẢ mệt RÃ người
RÃO gân cốt, RẢO bước thời đi nhanh.
Cây SẢ, suồng SÃ là anh
TẢ thực, TÃ lót để dành trẻ con.
Chàng HẢNG ai mở HÃNG buôn
KỶ luật KỸ xảo mình luôn ghi lòng.
HỦ tục, HŨ gạo ngày đông
Hỏi NGÃ khó, chớ NGÃ lòng NGẢ nghiêng…!
( Đinh Trực sưu tầm )
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao !

HOME

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

100 CÂU THƠ VỀ LỊCH SỬ VN MÀ CHỈ CÓ HỌC SINH THỜI VNCH ĐƯỢC HỌC!


122973111_2637728096557495_9185161834400309918_n

100 CÂU THƠ VỀ LỊCH SỬ VN MÀ CHỈ CÓ HỌC SINH THỜI VNCH ĐƯỢC HỌC!

1. Vua nào mặt sắt đen sì?
2. Vua nào trong buổi hàn vi ở chùa?
3. Tướng nào bẻ gậy phò vua?
4. Tướng nào dùng bút đánh lừa Vương Thông?
5. Ngựa ai phun lửa đầy đồng?
6. Voi ai nhỏ lệ ở giòng Hóa Giang?
7. Kiếm ai trả lại rùa vàng?
8. Súng ai rền ở Vũ Quang thuở nào?
9. Còn ai đổi mặc hoàng bào?
10. Nữ lưu sánh với anh hào những ai?
11. Nhà thơ lên đoạn đầu đài?
12. Tướng Tàu chui ống chạy dài Bắc phương?
13. Tướng Nam chẳng thiết phong vương?
14. Rắc lông ngỗng, thiếp nghe chàng hại cha?
15. Anh hùng đại thắng Đống Đa?
16. Đông du khởi xướng bôn ba những ngày?
17. Lũy Thầy ai đắp, ai xây?
18. Hồng-Sơn Liệp-Hộ, triều Tây ẩn mình?
19. Vua Bà lừng lẫy uy danh?
20. Ấu nhi tập trận, cỏ tranh làm cờ?
21. Vua nào nguyên-súy hội thơ?
22. Hùng-Vương quốc-tổ đền thờ ở đâu?
23. Đại vương bẻ gẫy sừng trâu?
24. Rừng Lam khởi nghĩa áo nâu anh hùng?
25. Hại dân bán nước tên Cung?
26. Đục chìm thuyền địch dưới sông Bạch-Đằng?
27. Lý triều nổi tiếng cao tăng?
28. Bình-Ngô ai soạn bản văn lưu truyền?
29. Mười ba liệt sĩ thành Yên?
30. Bỏ quan treo ấn tu tiên thủa nào?
31. Ai sinh trăm trứng đồng bào?
32. Bình-Khôi chức hiệu được trao cho người?
33. Tây-Sơn có nữ tướng tài?
34. Cần-vương chống Pháp bị đầy xứ xa?
35. Tổ ngành hát bội nước ta?
36.. Khúc ngâm Chinh-Phụ ai là tác nhân?
37. Vua nào sát hại công thần?
38. Nhà văn viết truyện Tố-Tâm trữ tình?
39. Thái-Nguyên chống Pháp dấy binh?
40. Hà-Ninh tổng đốc vị thành vong thân?
41. Vua nào mở nghiệp nhà Trần?
42. Nêu gương hiếu tử diễn âm lưu truyền?
43. Công lao văn học Nguyễn-Thuyên?
44. Lừng danh duyên hải Dinh-Điền là ai?
45. Nhà thơ sông Vị, biệt tài?
46. Vua nào chống Pháp bị đầy đảo xa?
47. Ngày nào kỷ niệm Đống Đa?
48. Biên thùy tiễn biệt lời cha dặn dò?
49. Mê-Linh xây dựng cơ đồ?
50. Bến Hàm-Tử bắt quân thù xâm lăng?
51. Húy danh Hoàng-Đế Gia-Long?
52. Tướng nào hương khói Lăng-Ông thuở giờ?
53. Rồng thiêng kết nghĩa Âu-Cơ?
54.. Thánh Trần nay có bàn thờ ở đâu?
55. Đời nào có chức Lạc-Hầu?
56. Tướng Châu-Văn-Tiếp, ở đâu bỏ mình?
57. Danh nho thường gọi Trạng Trình?
58. Cha con cùng quyết hy sinh với thành?
59. Đầm Dạ-Trạch nức uy danh?
60. Sớ dâng chém nịnh không thành, từ quan?
61. Công thần vì rắn thác oan?
62. Ai mời bô lão dự bàn chiến chinh?
63. Vua nào dòng dõi Đế-Minh?
64.. Vĩnh-Long thất thủ, liều mình tiết trung?
65. Ngày nào trẩy hội Đền Hùng?
66. Ngày nào sông Hát, nhị Trưng trẫm mình?
67. Núi nào ngự trị Sơn-Tinh?
68. Sông nào ghép lại bút danh thi hào?
69. Gốc nguồn hai chữ đồng bào?
70. Bôn ba tổ chức phong trào Đông du?
71. Hùm Thiêng trấn đóng chiến khu?
72. Vua nào thành lập Hội Thơ Tao-Đàn?
73. Dẹp Thanh giữ vững giang san?
74. Thiết triều nằm lả khiến tàn nghiệp Lê?
75. Hóa-Giang giữ trọn lời thề?
76. Mười năm kháng chiến chẳng nề gian lao?
77. Móng rùa thần tặng vua nào?
78. Bình Chiêm, Dẹp Tống, Lý trào nổi danh?
79. Dâng vua sách lược “Trị-Bình”?
80. Trạng nguyên tướng xấu ví mình hoa sen?
81. Người Tàu dựng đất Hà-Tiên?
82. Họ Lương chống Pháp, Thái-Nguyên bỏ mình?
83. Quy-Nhơn thất thủ, quyên sinh?
84. Lê Triều sử ký soạn thành họ Ngô?
85. Công thần mà bị quật mồ?
86. “Vân-Tiên” tác giả lòa mù là ai?
87. Đại-Từ nổi tiếng tú tài?
88. Đem nghề in sách miệt mài dạy dân?
89. Dâng vua cải cách điều trần?
90. Sánh duyên công chúa Ngọc-Hân, vua nào?
91. Thi nhân nổi loạn họ Cao?
92. Xây thành đắp lũy, họ Đào là ai?
93. Họ Phan lãnh ấn khâm sai?
94. Phòng khuya vọng tiếng thuyền chài tương tư?
95. Đông y lừng tiếng danh sư?
96. Lời thề diệt địch trên bờ Hóa-Giang?
97. Vân-Đồn ai thắng danh vang?
98. Am mây ẩn dật chẳng màng lợi danh?
99. Mùa xuân nào phá quân Thanh?
100. Bao giờ trở lại thanh bình Việt Nam?

100 Câu Đố Lịch sử (của Đào Hữu Dương)

Câu trả lời là :

1- Mai Hắc Đế, mặt sắt đen sì

2- Lý Thái Tổ thuở hàn vi ở chùa

3- Hưng Đạo bẻ gậy phò vua

4- Nguyễn Trãi dùng bút, đánh lừa Vương Thông

5- Ngựa Thánh Gióng phun lửa đầy đồng

6- Voi Hưng Đạo khóc giữa dòng Hóa Giang!

7- Kiếm Lê Lợi trả rùa vàng

8- Súng Cao Thắng nổ Vũ Quang thuở nào.

9- Lê Lai cứu chúa đổi bào

10- Hai Bà Trưng sánh anh hào ra oai!

11- Cao Bá Quát lên đoạn đầu đài

12- Thoát Hoan chui ống chạy dài bắc phương.

13- Trần Bình Trọng khinh Bắc Vương

14- Mỵ Châu, lông ngỗng rắc đường hại cha!

15- Quang Trung đại thắng Đống Đa

16- Cụ Phan sang Nhật bôn ba tháng ngày! (Phan Bội Châu lập phong trào Đông Du)

17- Đào Duy Từ đắp Lũy Thầy

18- Nguyễn Du xử thế, triều Tây ẩn mình!

19- Bà Triệu lừng lẫy uy danh

20- Đinh Bộ Lĩnh lấy cỏ tranh làm cờ

21- Thánh Tông nguyên súy Hội thơ

22- Lâm Thao Nghĩa Lĩnh đền thờ Hùng Vương

23- Sừng trâu bẻ gẫy: Phùng Hưng

24- Lê Lợi khởi nghĩa, anh hùng Lam Sơn

25- Họ Hồ phản bội cha ông

26- Yết Kiêu, Dã Tượng, thần sông Bạch Đằng!

27- Vạn Hạnh, triều Lý cao tăng

28- “Bình Ngô”… Nguyễn Trãi hùng văn lưu truyền

29- Quốc Dân Đảng, (mười ba) Liệt Sĩ thành Yên

30- Từ Thức treo ấn tu tiên (động) Bích Đào.

31- Âu Cơ (sinh) trăm trứng đồng bào

32- Bình Khôi, Trưng Nhị được trao chúc này

33- Bùi Thị Xuân, nữ tướng tài

34- Hàm Nghi chống Pháp, bị đày xứ xa.

35- Đào Tấn, tổ hát bội nước ta

36- Đặng Trần Côn với khúc ca Chinh Phụ sầu…

37- Gia Long giết hại công hầu

38- Tố Tâm Ngọc Phách xiết bao trữ tình! (Hoàng Ngọc Phách tác giả tiểu thuyết Tố Tâm)

39- Đội Cấn chống Pháp, dấy binh

40- Hoàng Diệu tổng đốc, vị thành vong thân

41- Trần Cảnh mở nghiệp nhà Trần (Trần Cảnh tức Trần Thái Tông)

42- Chuyện Hiếu Văn Phức, diễn âm lưu truyền (Lý Văn Phức, tác giả Nhị Thập Tứ Hiếu diễn ca)

43- Chữ Nôm khai sáng, Nguyễn Thuyên

44- Công Trứ dựng nghiệp dinh điền chẳng sai!

45- Tú Xương thơ phú biệt tài

46- Duy Tân chống Phàp, bị đày đảo xa

47- Mùng Năm Tết, giỗ Đống Đa

48- Nam Quan, Nguyễn Trãi nghe cha dặn dò

49- Trưng Vương xây dựng cơ đồ

50- Quang Khải: Hàm Tử “cầm Hồ” hiên ngang (Trần Quan Khải: Đoạt sáo Chương Dương độ. cầm Hồ Hàm Tử quan

51- Nguyễn Ánh tên huý Gia Long

52- Tướng Lê Văn Duyệt, Lăng Ông phụng thờ

53- Lạc Long kết nghĩa Âu Cơ

54- Thánh Trần, Vạn Kiếp ngai thờ tử lâu

55- Đời Hùng: Lạc Tướng , Lạc Hầu

56- Long Hồ thủy chiến, tướng Châu bỏ mình (Châu Văn Tiếp)

57- Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức Trạng Trình

58- Tri Phương, phò mã hy sinh thủ thường (Nguyễn Tri Phương và phò mã Nguyễn Lâm)

59- Triệu Quang Phục, Dạ Trạch Vương

60- Chu thần thảo sớ chém phường nịnh gian (Chu thần tức Chu Văn An)

61- Nguyễn Trãi vì rắn thác oan

62- Nhân Tông triệu tập Diên Hồng đánh Nguyên (Trần Nhân Tông)

63- Lộc Tục dòng dõi Đế Minh (Lộc Tộc tức Kinh Dương Vương)

64- Mất thành, Thanh Giản quyên sinh cùng đường! (Cụ Phan Thanh Giản để mất thành

Vĩnh Long)

65- Mười tháng ba, Giỗ Hùng Vương

66- Tháng hai mồng sáu Nhị Trưng trầm mình

67- Tản Viên ngự trị Sơn Tinh (Tản Viên thuộc dẫy núi Ba Vì ở Hà Tây).

68- Sông Đà núi Tản bút danh thi hào

69- Trăm con một bọc : Đồng Bào

70- Phan Bội Châu khởi phong trào Đông Du

71- Hoàng Hoa Thám lập chiến khu

72- Lê Thánh Tông mở Hội Thơ Tao Đàn

73- Quang Bình giữ nước đuổi Thanh (Nguyễn Quang Bình tức Nguyễn Huệ)

74- Ngọa triều Long Đĩnh khiến tàn Tiền Lê.

75- Hoá Giang Hưng Đạo hẹn thề

76- Mười năm Lê Lợi một bề đuổi Minh

77- Thục Phán được móng rùa thiêng (Thục Phán An Dương Vương)

78- Thường Kiệt đánh Tống bình Chiêm lẫy lừng (Lý Thường Kiệt tức Ngô Tuấn)

79- Lương Đắc Bằng dâng sách “Trị Bình”

80- Đĩnh Chi tướng xấu, ví mình hoa sen (Mạc Đĩnh Chi)

81- Mạc Cửu dựng đất Hà Tiên

82- Ngọc Quyến chống Pháp, Thái Nguyên bỏ mình (Lương Ngọc Quyến)

83- Quy Nhơn, Võ Tánh hy sinh

84- Đại Việt Sử Ký, công trình họ Ngô (Ngô Sĩ Liên soạn bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đời Lê)

85- Lê Văn Duyệt bị san mồ

86- Đồ Chiểu tác giả lòa mù “Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu)

87- Đại Từ nổi tiếng Hải Thần (Nguyễn Hải Thần,hoạt

động cách mạng chống Pháp)

88- Nhữ Học in sách, ân cần dạy dân. (Lương Nhữ Học)

89- Trường Tộ, cải cách điều trần. (Nguyễn Trường Tộ, thời vua Tự Đức)

90- Vua Quang Trung sánh Ngọc Hân chung tình

91- Cao Bá Quát chống Triều Đình

92- Duy Từ đắp lũy, đào kinh bậc thầy (Đào Duy Từ)

93- Phan Kế Toại lãnh ấn Khâm Sai

94- Trương Chi tiếng hát đọa đầy Mị Nương

95- Hải Thượng y thuật danh nhân

96- Lời thề sông Hóa thánh Trần diệt Mông (Trần Hưng Đạo)

97- Khánh Dư nổi tiếng Vân Đồn (Trần Khánh Dư)

98- Trạng Trình ẩn dât chẳng còn lợi danh

99- Mùa Xuân Kỷ Dậu đuổi Thanh

100- Dân quyền, dân chủ an lành Việt Nam.

Trang sử miền Nam.

¤¤¤H…A¤¤¤

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

“24 ĐỀ VIỆT VĂN KỲ THI TÚ TÀI thời Việt Nam Cộng Hòa


122973111_2637728096557495_9185161834400309918_n

Xin giới thiệu 24 đề văn trong cuốn Bài Việt văn kỳ thi tú tài của nhà giáo Phạm Thế Ngũ, Phạm Thễ xuất bản, Quốc học Tùng Thư, xuất bản 8/11/1967, thời Việt Nam Cộng Hòa.

Đọc xong sẽ thấy giá trị văn hóa của bằng Tú Tài khi xưa và nền giáo dục thời VNCH ra sao.

Đề 1:

Bình giảng câu nói sau đây của một danh nhân:

“Muốn được hạnh phúc đừng nên đi tìm sự sung sướng. Hãy theo đuổi một công việc không vụ lợi: khoa học, nghệ thuật, phục vụ đồng bào, hy sinh cho Tổ quốc”.

Đề 2:

Thế nào là văn minh? Các nước Tây phương thường quan niệm nền văn minh của họ dựng trên những cơ sở gì và tính chất văn minh hợp bởi những yếu tố gì?

Đề 3:

Từ khi có những sáng chế máy móc truyền bá học vấn và nghệ thuật (phim ảnh, đĩa hát, rađio…) người ta sinh ra biếng đọc sách và quyển sách đã bị giảm đi nhiều phần quan trọng. Nhà văn Pháp G. Duhamei nhìn thấy ở đó một đe dọa cho văn hóa của nhân loại, Mối lo ngại ấy có chính đáng không? Sự thay thế sách vở bằng máy móc có lợi hay có hại?

Đề 4:

Một nhà phê bình đã viết:

“Nghệ thuật phải lấy chính nó làm cứu cánh. Cái đẹp không dùng để làm gì ngoài sự để cho đẹp. Khi một vật đã trở nên hữu ích thì thôi nó không còn đẹp nữa”.

Nhiều người trái lại cho rằng nghệ thuật phải theo đuổi một mục đích công lợi như truyền bá đạo lý hay đấu tranh cho một chủ nghĩa chính trị.

Thử giải thích qua các quan điểm đối lập ấy và nếu có thể, rút ra một kết luận.

Đề 5:

Định nghĩa mấy mẫu người được tôn thờ trong lý tưởng Đông phương như: Thánh hiền – Quân tử – Trượng phu – Anh hùng – Hào kiệt. Có thể so sánh nó với tư tưởng và ngôn ngữ Pháp: le saint, le héros, le sage…

Đề 6:

Giả thiết trong một bức tâm thư nhận được của bạn, ta đọc thấy những dòng này:

“Cương thường là cái quái gì? Chỉ là những dây xích nô lệ để trói buộc con người trong xã hội phong kiến ngày xưa…”

Ta hãy phúc thư bạn đề nghị cùng bạn xét lại vấn đề, nhất là hãy giải thích cho bạn theo ý ta thì cương thường là gì và có những giá trị gì trong xã hội ngày xưa.

Đề 7:

Bởi đâu mà Nho gia ra xưa có khuynh hướng chuộng nhân và hay ca tụng cái thú hưởng nhàn trong thi văn của các cụ? Khuynh hướng ấy có thể nào còn chấp nhận được trong đời sống của chúng ta ngày nay không?

Đề 8:

Bình luận hai câu thơ sau:

“Không đi khắp bốn phương trời

Vùi đầu án sách uổng đời làm trai”.

Thanh niên nước nhà ngày nay có thể rút ở đó một bài học không?

Đề 9:

Tìm hiểu câu nói sau đây của một nhà văn hóa Pháp:

“Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên hết cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học đủ cả”.

Đề 10:

Có những văn gia, thi gia ca tụng sự đau khổ mà họ coi như có một giá trị về đường luân lý hay văn nghệ. Những quan niệm ấy có xác đáng không? Sự đau khổ hay nói rộng ra sự bất hạnh người ta phải chịu ở đời có thể khi nào là một cái hay không?

Đề 11:

Một nhà tư tưởng có nói:

“Cả nhân loại, qua bao nhiêu thế kỷ, có thể coi như một người sống mãi và tiến bộ mãi”.

Theo ý bạn thì nhân loại cho tới ngày nay quả có tiến bộ về mọi mặt không?

Đề 12:

Sự phát triển của máy móc trong thời đại hiện kim. Những hậu quả hay và dở trong mọi địa hạt.

Đề 13:

Lương Khải Siêu có đem hai chữ “tố vương” (vua không ngôi) để tặng người làm báo. Trái lại, gần đây ở các nước Tây phương lại thường có thành kiến không hay với báo chí. Người ta cho rằng tờ báo chỉ chăm lo chiều ý độc giả, kích thích những đam mê xấu xa của công chúng để nhằm những mục tiêu tư lợi. Thói quen đọc báo làm tê liệt sự suy nghĩ cá nhân và giọng tuyên truyền của nhà báo làm hoài nghi mọi đầu óc đứng đắn.

Bạn có ý kiến gì về vấn đề trên.

Đề 14:

Truyện Kiều của Nguyễn Du thường nhắc đến trời như:

– Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen

– Tâm thành soi thấu đến trời

– Ngẫm hay muôn sự tại trời…

Phải chăng, như có người nghĩ, trời đó là cái thiên mệnh của nhà Nho? Hay chỉ là ông trời của người bình dân?

Đề 15:

“Thường có ý kiến cho rằng sống là tranh đấu. Lại có lời khuyên thanh niên vào đời nên thờ một lý tưởng tranh đấu”.

Hãy giải thích ý kiến ấy và bàn về lời khuyên ấy.

Đề 16:

Viết bài nói chuyện của một bạn gái về đạo “Tứ đức tam tông” tại một câu lạc bộ phụ nữ.

Đề 17:

Một nhà tư tưởng nói:

“Những tiến bộ của khoa học giết chết thi ca”.

Bạn có đồng ý không? Bạn có cho rằng nhà thơ sẽ hết nguồn cảm hứng trong một thế giới đầy những sáng chế của khoa học không? Chẳng cần giữ thái độ chiết trung, bạn hãy thẳng thắn bênh vực ý kiến riêng của bạn.

Đề 18:

“Đạo trời đất cứ biến hóa luôn luôn mà trong sự biến hóa lúc nào cũng có điều hòa, có bình hành tức là có cái trung vậy”. – Trần Trọng Kim – Nho Giáo.

Ta có thể thấy đạo trời với chữ trung ấy được nho gia nước ta xưa dùng làm đề tài hay lý thuyết trong văn chương không? Hãy giải thích tư tưởng triết lý ấy và tìm hiểu các khía cạnh qua các áng thơ văn xưa. Tư tưởng ấy có giá trị gì về đường nhân sinh không?

Đề 19:

Giải thích nghĩa mươi danh từ phổ thông trong thuyết của đạo Phật như Nghiệp, Kiếp, Nhân duyên, Niết bàn, Tiểu thừa, Đại thừ, Tham thiền…

Đề 20:

Vai tuồng của điện ảnh. Nguyên do và ảnh hưởng của sự phát triển trong xã hội chúng ta ngày nay.

Đề 21:

Một nhà thể thao, Henry Cochet, có viết:

“Trong đời sống mới của chúng ta tinh thần thể thao có thể là khẩu hiệu của một thứ triết lý, triết lý ấy nâng cao những đức tính can đảm, kiên nhẫn, mạo hiểm và đồng đội lên tầm cao của một định chế”.

Một nhà văn Georges Duhamei, trái lại cho rằng thể thao là một trường huấn luyện tính kiêu ngạo, khoe khoang và nhiều tính xấu khác.

Bạn hãy thuyết minh hai mặt lợi hại của thể thao và nếu có thể, cho biết thái độ của bạn và vấn đề.

Đề 22:

Trong sách Nho và văn Nôm thường hay nói đến chữ Khí, như: chí khí, sĩ khí, khí tiết,,, Lại có thuyết chính khí và chủ trương dưỡng khí. Hãy giải thích những danh từ cùng quan niệm ấy và nói rõ bài học luân lý, nếu có, dùng sau mỗi danh từ.

Đề 23:

Hãy viết thư cho bạn bàn về hai chữ “diệt dục”.

Đề 24:

Thế nào là một người chỉ huy? Xã hội có cần đến những người chỉ huy không? Người chỉ huy phải có những đức tính gì?”
Copy từ FB Hiếu Kỳ Nguyễn

Categories
8 - Trang Tài liệu Sưu Tầm Việt Nam

ĐS  Martin  nói gì (20.4) khiến TT Thiệu từ chức (21.4) và rời Sài Gòn (25.4.1975).


unnamed - 2023-04-01T154748.206

 ĐS Martin: Tôi nói, tôi có cảm giác rằng nếu ông không có quyết định sớm, các tướng lãnh của ông sẽ yêu cầu ông ra đi – tôi đoán là ông ta sẽ sớm ra đi bằng cách này hay cách khác. Nếu các tướng lãnh của ông ta cho thêm vài ngày nữa – và rằng nếu ông không hành động sớm, các sự kiện sẽ ập đến với ông.

TT Thiệu: Cái bản văn hiệp định đó là bản văn hiệp định Hoa Kỳ bán miền Nam Việt Nam cho cộng sản – tôi nói với ông Ngoại trưởng Kissinger lúc đó  nếu như ông chấp nhận bản hiệp   vì lý do riêng tư  tôi không biết, nể nang nhau, đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán – chớ tôi là người Việt Nam, tôi không chấp nhận  – Nếu tôi không có thiện chí đàm phán thì làm sao hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được ký kết? Mặc dù thỏa thuận đó là một thỏa thuận què quặt, tôi phải chấp nhận nó.

 TT Thiệu: Người Mỹ…thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc.

 Gần  50 năm trước báo chí Sài gòn nêu ra nhiều thắc mắc không biết Đại Sứ Martin nói gì (20.4.1975) mà một ngày sau (21.4.1975) TT Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình  đưa những lời chỉ trích Mỹ và tuyên bố từ chức … Phần sau là tóm lược trích đoạn văn bản về cuộc họp ngày 20.4.1975  được phía Bộ Ngoại Giao công bố và phía cơ quan CIA (2017) loan tải  nội dung tuyên bố từ chức của  TT Thiệu  vào ngày 21.4.1975 (dài 28 trang) – sau đó là  câu chuyện TT Thiệu rời Sài gòn vào tối ngày 25.4.1975.

  Điện văn của ĐS Martin gửi TS Kissinger về cuộc họp với TT Thiệu

Sài Gòn, 20 Tháng Tư 1975, 1645Z.

  1. Sáng nay tôi ( Martin)  gặp Thiệu đưa ra tất cả các điểm được nêu trong mệnh lệnh số 9 trong phúc trình của tôi. Tôi mang theo bản tóm tắt mới nhất về tình hình quân sự thực tế tại các mặt trận  và phân tích so sánh lực lượng mỗi bên. Như các ông đã biết, đó là một bức tranh rất ảm đạm, và không thể tránh khỏi để kết luận rằng, nếu Hà Nội quyết định nhanh chóng tấn công để tiêu diệt thì Sài Gòn khó có thể cầm cự được hơn một tháng, kể cả với sự kháng cự khéo léo và kiên quyết nhấtcũng chỉ có thể cầm cự được không quá ba tuần. Tôi nói rằng theo ý kiến của tôi là họ muốn Sài Gòn nguyên vẹn, không phải là một đống đổ nát.
  2. Thiệu hỏi về triển vọng viện trợ quân sự bổ sung. Tôi nói rằng câu trả lời có vẻ mơ hồ đối với tôi. Chúng tôi rất có thể nhận được thêm 350 triệu đô la, từ quốc hội nhưng ngay cả điều đó cũng không chắc chắn. Tôi nói rằng mỗi ngày trôi qua đầy ắp những tuyên truyền bất lợi đã che khuất  thực trạng ở Việt Nam.  Tôi đã rất hy vọng rằng trong hiện tại một  thực tế là nó sẽ bảo toàn cơ hội để có một vị thế đàm phán tốt hơn, nhưng  nó không thể đến kịp để thay đổi bảng phân tích mà ông ta vừa đọc. Cho đến bây giờ cán cân lực lượng hiện nay chống lại ông ta là áp đảo.
  3. Tôi đã nói rằng bất cứ ai ngồi trên ghế của ông, Dinh Độc Lập ở Sài Gòn, Tòa Bạch Ốc, Điện Elysée, Điện Kremlin, hay ở Bắc Kinh, đều có một điểm chung. Họ không bao giờ có thể chắc chắn rằng họ đang nắm được toàn bộ sự thật. Một số  báo cáo bị che đậy vì lợi ích cá nhân hoặc vì quan liêu, những người khác vì sợ làm tổn thương ông ta,  vì họ sợ ông ta, một số người khác vì họ không muốn trở thành người truyền tải tin xấu. Dù lý do là gì, đôi khi rất khó để nhận định chính xác mọi thứ như chúng vốn có. Tôi nói rằng tôi chỉ nói chuyện với ông ta với tư cách cá nhân, không phải đại diện cho Tổng thống hay Ngoại trưởng, hay thậm chí với tư cách là Đại sứ Hoa Kỳ, mà với tư cách là một người đã theo dõi các sự kiện ở Đông Nam Á trong một thời gian rất dài và là người trong hai năm qua,  đã  hiểu được sự đan xen trong kết cấu của các vấn đề Việt Nam.  Một vài điều đã rất rõ ràng với tôi. Tình hình quân sự rất tồi tệ, và mọi người buộc ông ta phải chịu trách nhiệm về điều đó. Cácthành phần chính trị, cả những người ủng hộ và kẻ thù của ông ta, đều không tin rằng ông ta có thể dẫn dắt đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Và kết luận của tôi là hầu như tất cả các tướng lãnh của ông ta, mặc dù họ sẽ tiếp tục chiến đấu, đều tin rằng việc phòng thủ là vô vọng,trừ khi có thể đạt được thời gian nghỉ ngơi một khi  tiến trình đàm phán bắt đầu, và họ không tin rằng điều này có thể khởi sự trừ khi Thiệu ra đi, hoặc ngay lập tức thực hiện các bước để bắt đầu  cho tiến trình đàm phán. Tôi nói,  tôi có cảm giác rằng nếu ông  không có quyết định sớm, các tướng lãnh của ông sẽ yêu cầu ông ra đi.
  4. Thiệu chăm chú lắng nghe, ông ta hỏi liệu việc ông ta ra đi có ảnh hưởng đến cuộc bỏ phiếu trong Quốc hội hay không. Tôi nói rằng tôi nghĩ nó có thể đã thay đổi vào vài tháng trước, nhưng bây giờ sẽ không đủ thời gian để đảm bảo các khoản chi quân sự cần thiết. Nói cách khác, đề nghị từ chức nếu Quốc hội đảm bảo một mức độ phân bổ để miền Nam Việt Nam tồn tại, là một thỏa hiệp đã thuộc về quá khứ. Điều quan trọng, có lẽ, liệu nó có thể có tác dụng gì đối với phía bên kia hay không. Tôi nói tôi không biết câu trả lời, nhưng rõ ràng là hầu hết người Việt Nam đều nghĩ như vậy. Tôi nghi ngờ nó sẽ tạo ra nhiều khác biệt cho họ. Bản thân họ không chống lại cá nhân ông ta, mà chống lại bất kỳ nhà lãnh đạo mạnh mẽ nào. Họ sẽ khăng khăng đòi một người lãnh đạo yếu kém hơn nhiều. Nhưng điều quan trọng là thời gian. Đối với Việt Nam, bây giờ thời gian là thứ thiết yếu nhất. Nếu có thể tránh được sự hủy diệt của Sài Gòn, nếu một nước Việt Nam độc lập có thể tiếp tục tồn tại, người ta có thể hy vọng, rằng mọi thứ sẽ được cải thiện. Thiệu hỏi tôi nghĩ gì về tương lai của Lào. Tôi nói rằng, từ cuối Hội nghị năm 1962, tôi đã thấy rất rõ ràng rằng Hà Nội có thể tiếp quản nó bất cứ lúc nào phù hợp với mục đích của họ, nếu phe không cộng sản ở Lào vẫn không có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Cuộc diện hiện tại có thể đã đạt được từ nhiều năm trước, nếu chúng tôi sẵn sàng nhượng lại toàn quyền kiểm soát miền Đông Lào.
  5. Cuộc trò chuyện diễn ra trong khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ. Tôi sẽ gửi bản văn đầy đủ khi có thời gian. Ông ta hoàn toàn hiểu điểm cốt yếu trong đánh giá cá nhân của tôi rằng  các sự kiện diễn ra quá nhanh, khó có  thời gian dành cho việc suy ngẫm, và rằng nếu ông  không hành động sớm, các sự kiện sẽ ập đến với ông ta. Tôi đã nói rõ ràng rằng tôi đang nói hoàn toàn với tư cách cá nhân, và  tôi cũng như Washington không đề nghị ông ta từ chức.
  6. Thiệu nói rằng ông ta sẽ làm những gì ông ấy nghĩ là tốt nhất cho đất nước. Tôi nói tôi biết rằng ông ta sẽ hành động. Ông ta sẽ suy nghĩ về nó. Ông ta có thể làm được. Ông ta rất có thể tìm kiếm  những phương án giúp ông ta dẫn trước đối thủ, nhưng thời gian thì có hạn.  Cân bằng lại, tôi đoán là ông ta sẽ sớm ra đi bằng cách này hay cách khác. Nếu các tướng lãnh của ông ta cho thêm vài ngày nữa, ông ta có thể nghĩ ra một sự từ chức kịch tính sẽ có hữu ích. Trân trọng. (Theo BNG/FRUS ngày 20.4.1975:« Message From the Ambassador to Vietnam (Martin) to Secretary of State Kissinger »).

 Bài diễn văn từ chức của TT  Thiệu được phổ biến trên thư viện online của cơ quan CIA ngày 11.1.2017 – bản văn thiết lập ngày  21.4.1975

“…”  Trước hết, tôi xin lỗi  hôm nay tôi nói chuyện trực tiếp  mà không có đọc thông điệp trước qúy vị và trước quốc dân hay anh em chiến sĩ, cán bộ. Cũng vì vấn đề cấp bách đòi hỏi một  quyết định cấp bách và phải được bảo vệ sự kín đáo tối đa vì lý do an ninh quốc gia. Cho nên tôi mạn phép mời Quốc hội lưỡng viện, Tối cao pháp viện, các cơ quan hiến định và tất cả quý vị với một  thời hạn rất là ngắn ngủi ở trong một khung cảnh đáng lẽ phải là khác hơn ở Dinh Độc Lập.

Đây là một cuộc nói chuyện rất quan trọng, nhưng nó đã không được thông báo trước. Vì lý do an ninh quốc gia và vì tầm quan trọng của cuộc nói chuyện đối với an ninh quốc gia, tôi xin đồng bào và các anh chị  cán bộ, chiến sĩ  toàn quốc hãy hiểu cho. Nếu thời gian cho phép, tôi đã triệu tập một phiên họp toàn thể của cả hai viện của quốc hội với sự hiện diện của tòa án tối cao và các tổ chức quần chúng và tôn giáo khác nhau, ðể tôi có thể giải quyết tình huống mà tôi sẽ trình bày chi tiết ngày hôm nay. Tôi có thể yêu cầu qúi vị  rộng lượng thứ lỗi cho tôi vì đã giải quyết vấn đề cấp bách này theo cách không hoàn toàn phù hợp với nghi thức. “…”

Cái bản văn hiệp định đó là bản văn hiệp định Hoa Kỳ bán miền Nam Việt Nam cho cộng sản. Và tôi đã có đủ can đảm nói với ông Ngoại trưởng Kissinger lúc đó  nếu như ông chấp nhận bản hiệp định này, nghĩa là ông chấp nhận bán cái miền Nam này cho cộng sản. Còn tôi mà chấp nhận cái bản văn hiệp định này thì tôi cũng chấp nhận phản quốc, bán cái dân tộc và đất nước miền Nam cho cộng sản. Nếu như ông chấp nhận bản hiệp định  vì lý do riêng tư  tôi không biết, nể nang nhau, đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán – chớ tôi là người Việt Nam, tôi không chấp nhận.

Bản văn hiệp định đó là một bản văn mà tôi đã từ chối, tôi đã phản đối trong 3 tháng trời (tháng 10.1972 đến tháng 1.1973 ). Và trong 3 tháng trời ấy chỉ có 3 điểm chánh mà tôi tranh đấu sống chết. Và sự tranh đấu của tôi được chứng minh một cách rõ ràng bởi mỗi một lần tôi mời họp có ông chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền , ông chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn, ông Tổng trưởng ngoại giao, ông chủ tịch Tối cao pháp viện, có Phó tổng thống, đại tướng Tổng tham mưu trưởng và Thủ tướng, thỉnh thoảng có một vài nhân vật chính trị khác. Ba cái điểm mà tôi cho là mất nước:

Đầu tiên là một chính phủ ba thành phần ở trên thượng tầng chỉ huy hai chính phủ là chính phủ VNCH và chính phủ của Mặt trận giải phóng, và cái chính phủ liên hiệp ba thành phần đó được đặt để cho tới tỉnh, quận, xã, ấp. Tôi cho đó là một cái chính phủ liên hiệp, dù dưới hình thức nào, dù ở cấp bậc nào, tôi cũng không chấp nhận và tôi không chấp nhận cái chuyện đó từ 5, 7 năm trước.  Cho nên, đừng có nói gì tới ấp cho tới xã, mà ngay cả trung ương tôi đã không chấp nhận 3 thành phần, 4 thành phần và 2 thành phần tôi cũng không chấp nhận, cho nên tôi đã nói không chấp nhận !.

Thứ hai, họ nói rằng ở Đông Dương chỉ có ba nước là Cao Miên, Ai Lao và Việt Nam. Tôi hỏi ngoại trưởng Kissinger, Việt Nam nào? Việt Nam của Sài Gòn hay Việt Nam của Hà Nội? Nếu mà ông chấp nhận bản văn này là ông chấp nhận cái Việt Nam của Hà Nội. Theo cộng sản, Việt Nam này bao gồm cả miền Bắc và miền Nam. Tôi không chấp nhận. Tôi muốn trở về nguyên thủy hiệp định Genève là có hai quốc gia Việt Nam, hai chính quyền Hà Nội và Sài Gòn, tôi gọi họ là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, họ phải kêu tôi là Việt Nam Cộng hòa không xâm phạm lẫn nhau, lấy vĩ tuyến 17 và lấy hiệp định Genève làm căn bản, chờ đợi ngày thống nhất bằng phương tiện hòa bình và dân chủ, dù cho ngày đó không biết là ngày nào. Tôi bác bỏ cái chuyện đó. Tôi nói trở về hai miền Nam Bắc, hai quốc gia riêng biệt có thể vô Liên Hiệp Quốc, giữ cái vĩ tuyến 17, giữ vùng phi quân sự chờ ngày thống nhất.

Điểm thứ ba là đối với quân đội miền Bắc Việt Nam,  thì ông Ngoại trưởng Kissinger chấp nhận là quân đội Bắc được quyền ở trong miền Nam một cách hợp pháp, đương nhiên. Tôi nói điểm này là điểm quan trọng nhất.  Không có gì kỳ lạ hơn việc những kẻ xâm lược, sau khi chiến tranh kết thúc và hòa bình lập lại, có quyền để lại quân đội của chúng mãi mãi trên lãnh thổ của người khác.  Tôi nói điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất là quân đội Bắc Việt phải rút lui về Bắc. Ông Kissinger trả lời với tôi rằng: “Cái chuyện này thương thuyết với Nga Sô, Trung Cộng đã 3 năm nay không được, Mỹ chịu thua”.  “…”

Con số 722 triệu đô la mà Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford yêu cầu quốc hội không đủ cho miền Nam Việt Nam và các lực lượng vũ trang chống lại quân cộng sản miền Bắc Việt Nam và ổn định tình hình quân sự để bắt đầu các cuộc đàm phán nghiêm túc. Những người cộng sản biết điều này, và họ chỉ cần tận dụng để thúc đẩy dành chiến thắng quân sự mà không cần đàm phán. Để đạt được mục tiêu mà Hoa Kỳ mong đợi – đó là ổn định tình hình quân sự để tiến hành các cuộc đàm phán trên cơ sở hiệp định Paris và do đó đạt được một giải pháp chính trị – phải có hơn 722 triệu đô la. Hơn nữa, phải có B-52 để trừng phạt cộng sản miền Nam và nếu có thể là cả cộng sản miền Bắc. Cũng cần phải có xe tăng, trọng pháo, thiết bị, súng lớn nhỏ, và đạn dược. những thứ này phải được gửi vào liên tục, liên tục, liên tục và ngay lập tức. Điều đó  không phải là vấn đề của vài tháng hay vài tuần, mà là vấn đề của vài ngày. Các khí tài này phải dồi dào  hầu trang bị cho các sư đoàn để đánh với 20 sư đoàn Bắc Việt. Tôi thách thức – giả sử quân đội của miền Nam Việt Nam Cộng Hòa rút đi – quân đội Hoa Kỳ tiến vào với quân số ngang bằng với quân đội VNCH và với cùng số lượng vũ khí và đạn dược và không có B-52  thì quân đội Hoa Kỳ có thể đối phó với cộng sản trong bao nhiêu ngày?  Vậy làm thế nào chúng ta có thể được bảo để làm điều đó? Do đó, thật phi lý, bất công và mâu thuẫn khi nói rằng tôi là một người không muốn đàm phán. Nếu tôi không có thiện chí đàm phán thì làm sao hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được ký kết?  Mặc dù thỏa thuận đó là một thỏa thuận què quặt, tôi phải chấp nhận nó. Tôi đã thể hiện thiện chí tối đa khi nhận nó.  Chúng tôi đã thể hiện thiện chí tối đa khi chấp nhận văn bản của một thỏa thuận không đáp ứng các lý tưởng và tiêu chuẩn của chúng tôi. chúng tôi chỉ mong đợi ba điều: Thiện chí của những người cộng sản và chủ nhân của họ – Liên Xô và Trung Cộng.  Điều thứ hai chúng tôi mong đợi là hành động cấp cao mạnh mẽ giữa các quốc gia thống nhất, Liên Xô và Trung cộng. Điều thứ ba chúng tôi mong đợi là đủ viện trợ quân sự và kinh tế để cho phép chúng tôi đương đầu với quân Bắc Việt Nam. Không có điều nào trong số này đã thành hiện thực. “…”

Người Mỹ đánh giặc ở đây, không đánh được, đi về. Đặt ra  cái chương trình Việt Nam hóa, chúng ta chấp nhận dù không muốn Việt Nam hóa. Có Việt Nam hóa rồi, hứa  cộng sản hành động thì sẽ phản ứng mà không phản ứng. Thì chỉ còn có một thứ tối thiểu là đưa đồ cho người ta đánh  mà không đưa. Thì thử hỏi cái đó là cái gì? Thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc.

Sở dĩ tôi từ chức hôm nay là bởi vì hôm nay ở bên Hoa Kỳ, Quốc hội đưa vấn đề viện trợ ra mổ xẻ. Tôi nghĩ rằng cái hành động tôi từ chức hôm nay, biết đâu ngày mai từ cái chỗ 322 nó lên 722 hay nó lên 1 tỉ mấy.  Rồi thì tới tấp cầu hàng không chở xe tăng, đạn, pháo  qua đây viện trợ, viện trợ, viện trợ. Tôi hy vọng như vậy, để coi Quốc hội Hoa kì có đọc …

Tôi cũng hy vọng rằng trong cái lúc mà tình thế quân sự căng thẳng tại Quân Khu III Quân Khu IV, ông Thiệu đi rồi, còn ông TT Hương thì biết đâu còn 3, 4 ngày, còn 1 tuần thì chuyện nó có thể lật được. Nếu như tôi để ngày mai ngày mốt mà tôi mới từ chức, mà cộng sản thực sự nó tấn công thì e nó quá trễ. Lúc đó nó quá dở, trễ quá rồi làm không được. Quốc hội Hoa kỳ viện trợ 3 trăm rưỡi, để trễ quá 3 trăm rưỡi cũng không lên 722 được. Không sớm hơn mà không trễ hơn, bởi vì tôi nghĩ rằng: Cái thời gian tính mà ngày hôm nay còn thay đổi cục diện quân sự của cả chiến trường miền Nam. (Ghi chú: đoạn văn viết chữ nghiêng trích từ video clip người viết upload lên Youtube vào  ngày 23.2.2014 – Phần audio lấy trên net, phần hình ảnh của TV Histoire, Pháp:« Diễn văn từ chức của TT Ng V Thiệu 21.4.1975»).

Lý do thứ hai của việc từ chức, đây là một trong những điều tôi đã nói trước đó. Tôi nghĩ rằng việc từ chức của tôi là một sự hy sinh rất nhỏ với tất cả người dân và các lực lượng vũ trang của chúng ta sẽ nhận được nguồn viện trợ dồi dào để chiến đấu và bảo vệ lãnh thổ còn lại, và nếu không có sự hiện diện của tôi, các cuộc đàm phán trong tương lai với những người cộng sản, để có thể giúp bảo vệ một nền tự do và dân chủ cho miền Nam và giành quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam theo tinh thần của Hiệp định Ba-Lê. Tôi kêu gọi tất cả những người, tổ chức, tôn giáo và chính trị gia, những người cho rằng tôi là kẻ cản trở hòa bình và cho rằng tôi bất lực trong việc mang lại hòa bình và bảo vệ miền nam đã không thể đánh bại cộng sản và lập lại hòa bình, hãy tiếp tay giúp Tổng thống Trần Văn Hương đem lại hòa bình, danh dự, tự do, ấm no, dân chủ, bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Paris mà CSVN bắt buộc phải tôn trọng, và thực hiện quyền dân tộc tự quyết của nhân dân miền Nam như trong Hiệp định Ba-Lê. Tóm lại, tôi không muốn bất cứ ai sử dụng cá nhân tôi – tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – như một cái cớ để ngược đãi đất nước này. Kể từ giờ phút này trở đi, không thể viện cớ đó nữa và bây giờ phải thể hiện sự chân thành và trung thực của mình. “…”

Thưa quý vị, đồng bào và anh chị em

Tôi đã phục vụ đồng bào, anh chị em trong 10 năm qua. như tôi đã nói, tôi không thiếu can đảm. Không phải là bất kỳ cuộc biểu tình hay vu khống nào có thể làm tôi nản lòng và mất tinh thần và buộc tôi phải từ chức một cách vô nghĩa và vô trách nhiệm, cũng không phải vì chịu trước áp lực của đồng minh, cũng không phải vì  những khó khăn. Tôi từ chức nhưng không đào ngũ. Kể từ giờ phút này, tôi đặt mình vào sự sử đụng của tổng thống, đồng bào và quân đội. Khi tôi từ chức, ông Trần Văn Hương sẽ trở thành tổng thống, và đất nước chúng ta sẽ không mất gì cả. Biết đâu đất nước ta lại có thêm một chiến sĩ ra mặt trận. Kề vai sát cánh cùng đồng bào và chiến sĩ bảo vệ  đát nước.  Giờ đây, tôi xin cám ơn đồng bào, quý vị, anh chị em chiến sĩ cán bộ các cấp, và tôi xin từ biệt.

Tôi xin nhắc lại  yêu cầu của tôi, yêu cầu Lưỡng Viện Quốc Hội, và Tối Cao Pháp Viện chấp nhận với sự hiện diện của quý vị, theo  đúng điều 55 của Hiến Pháp để cho Phó tổng thống Trần Văn Hương tuyên thệ nhậm chức Tổng thống.  Cảm ơn.

 (Theo tài liệu của CIA, thiết lập ngày 21.4.1975, chấp thuận cho phổ biến ngày 15.6.2010, loan tải trên thư viện online của cơ quan CIA ngày 11.1.2017: « TEXT OF THIEU’S RESIGNATION SPEECH ».)

 Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn

( Trích đoạn theo tường thuật của  Thiếu Tá Nguyễn Tấn Phận, tháp tùng phái đoàn TT Thiệu rời Sài Gòn  đi Đài Loan  tối ngày 25.4.1975).

 “ … Vào lúc 5 giờ Thomas Polgar gọi chúng tôi bốn người gồm có tướng Timmes, anh Joe Kingsley và một nhân viên khác rồi hỏi chúng tôi là các ông có rành đường phố Sài-Gòn ban đêm không. Chúng tôi đều gật đầu. Thế thì tốt, Polgar tiếp, tôi muốn các ông giúp tôi đưa Thiệu và cựu Thủ tướng Khiêm đi Đài Loan tối nay…”   Đó là theo lời kể của ông Frank Snepp trong cuốn Decent Interval, trang 434. “…”

Chúng tôi lần lượt ra xe và yêu cầu họ mở cốp sau. Tôi bỏ cái samsonite vào, (Lúc ông Polgar đang viết, tôi đã bỏ cây K54 vào samsonite ) hai khẩu súng nhỏ va chạm vào nhau khua lộp cộp. Trong sách của Frank Snepp có nhắc tới chuyện này. Ông có nghe tiếng kim loại khua khi chúng tôi xếp sắc tay vào cốp xe, và có thể nghĩ đó là tiếng va chạm của vàng bạc, châu báu!

Liền sau đó Tổng thống Thiệu, Đại tướng Khiêm, Polgar, Timmes cùng ra xe. Đại tướng Khiêm ngồi xe trước với ông Polgar. Tổng thống Thiệu ngồi xe sau với tướng Timmes; ông ngồi giữa tướng Timmes và Đại tá Đức, Trung tá Chiêu ngồi ghế trước với tài xế là ông Frank Snepp. Chúng tôi chia nhau vào hai xe còn lại. “…”

Đúng 9 giờ 15 phút, giờ Sài-gòn.- Buồng máy máy bay tắt đèn. Phi cơ từ từ lăn bánh ra phi đao, đem theo hai vị lãnh tụ quốc gia, một tướng lãnh Mỹ và 9 “quan” tùy tùng, hộ vệ! Chiếc phi cơ lượn một vòng trên bầu trời “đen tối” của không phận Sài-Gòn, rồi hướng về biển Đông…

Danh sách phái đoàn do cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trình  lên Tổng thống Trần Văn Hương có nội dung như sau: (Tổng thống Thiệu viết tay)

Kính trình:  Tổng  thống Trần Văn Hương.

Thưa cụ, Để thực hiện công cụ giao phó, tôi kính xin cụ đồng ý cho những bác sĩ quan sau đây gọi là thành phần tối thiểu cần thiết để giúp tôi, đi theo tôi trong suốt thời gian công du: 1. Đại tá Võ Văn Cầm 2. Đại tá Nguyễn Văn Đức 3. Đại tá Nhan Văn Thiệt 4. Đại tá Trần Thanh Điền 5.Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu 6. Thiếu tá Hồ Vương Minh 7. Đại úy Nguyễn Phú Hải (giờ không có mặt) 8. Phục hồi chức năng viên (chờ không có mặt). Ngoài ra, Cựu Thủ tướng Đại tướng Trần Thiện Khiêm cũng cần theo các sĩ quan và dân sự sau đây: 1. Trung tá Đặng Văn Châu – 2. Thiếu tá Đinh Sơn Thông -3. Thiếu tá Nguyễn Tấn Phận -4. Ông Đặng Vũ (giờ không có mặt).  Đại tướng Trần Thiện Khiêm nhờ tôi trình cụ chấp thuận ./. Kính chào Tổng thống (ký tên Thiệu) . Tổng thống Trần Văn Hương phê duyệt, Đề ngày 25/4/75, và ký tên Trần Văn Hương. ( Theo Bất Khuất Net: « Những ngày cuối của TT Ng. V.Thiệu ở Sài Gòn » – Thiếu tá NgT Phận: Tháng 4.1975 phụ trách an ninh cho Đại Tưóng Trần Thiện Khiêm. – Tháp tùng phái đoàn cựu Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu và cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm rời khỏi Việt Nam vào buổi tối ngày 25-4-1975).

unnamed - 2023-04-01T154806.090

Điều mà  TT Nguyễn Văn Thiệu lên án Mỹ nêu trên ” … Thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính ngĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc”  là có nguyên do….Vì  vào ngày 21.1.1973, TT Thiệu đã phúc đáp tối hậu thư của TT Nixon (20.1.1973),   buộc TT Thiệu phải ký tắt vào bản Hiệp định Paris . Trong thư phúc đáp gửi TT Nixon, có đoạn văn với nội dung : “ Trước những tuyên bố của Ngài rằng viện trợ của Hoa Kỳ cho VNCH sẽ bị cắt đứt nếu tôi không tham gia cùng Ngài, dựa trên cơ sở đảm bảo* mạnh mẽ của  Ngài  về việc tiếp tục viện trợ cho Chính phủ Việt Nam sau khi ngừng bắn, tôi  chấp nhận lịch trình của Ngài đã đề ra liên quan đến việc ký tắt  thỏa hiệp vào ngày 23 tháng 1 năm  1973″ . ( Theo  Thư viện BNG/FRUS  ngày 21.1.1973: « Letter From South Vietnamese President Thieu to President Nixon »).

Xem ra qua chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã dùng cuộc chiến này để “… đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán”. Trước đó, có thể vì lo lắng cho tương lai khi quan hệ với Mỹ, vào năm 1957:  Trong cuộc gặp gỡ với TT Eisenhower, TT Diệm yêu cầu Mỹ cam kết bảo vệ miền Nam Việt Nam – « During the meeting with Eisenhower, Diệm asked about the American commitment towards the defense of South Vietnam.». Bốn năm sau, năm 1961: Vào ngày 18 (tháng 10), TT Diệm nói rằng ông ta không muốn quân đội Hoa Kỳ tham gia với bất kỳ nhiệm vụ nào. Ông lặp lại yêu cầu về một hiệp ước phòng thủ song phương «On the 18th, Diem said he  wanted no U. S. combat troops for any mission. He repeated his request for a bilateral defense treaty » ( page 26/197) . Vì thế  việc “yêu cầu Mỹ cam kết bảo vệ miền Nam Việt Nam” và yêu cầu ký kết ” hiệp ước phòng thủ song phương  đã không còn lý do tồn tại sau cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963.

Sang đến thời  Đệ II  VNCH, một thời gian sau cuộc đảo chánh, vào  năm 1965 chính phủ Phan Huy Quát  đã « “INVITE “ the United States to send the Marines   » đến Việt Nam, trái ngược với chủ trương thời Đê I VNCH là “wanted no U. S. combat troops… “  Sau  8 năm  Mỹ đem quân vào Việt Nam, dẫn đến kết quả  là TT Thiệu bị buộc phải thi hành tối hậu thư (1.1973), để rồi hai năm sau dẫn đến việc khai tử  nền Đệ II  Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30.4.1975.

Đào Văn

Thắc mắc của người copied và posted bài này :

* Trước khi Vịt + cướp miền Nam VN, dân VNCH không ai biết đến 2 chữ đảm bảo này mà chỉ biết 2 chữ bảo đảm !
Vậy thì bài này tại sao lại có 2 chữ Vịt + nói ngược : đảm bảo?

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

Đập Thủy Điện SEKONG A đối với sự SỐNG CÒN của Dân tộc Việt


Đập Thủy Điện SEKONG A đối với sự SỐNG CÒN của Dân tộc Việt

Tháng 2/2023, không ảnh phát hiện một Đập Thủy Điện đang xây cất trên sông SEKONG, Hạ Lào .
unnamed - 2023-03-05T201645.403
Đập Thủy Điện này một khi hoàn thành sẻ vô cùng tai hại cho Dân Việt sống Miền Đồng Bằng Sông Cửu, vì sông SEKONG là dòng nhánh lớn cuối cùng của sông MEKONG, thủy đạo duy nhứt đưa phù sa bồi đắp tạo Miền Nam và nuôi dưỡng CÁ cho cả 2 quốc gia: Việt Nam và Cao Miên.

unnamed - 2023-03-05T201630.215
Sông Sekong trong hệ thống sông Mekong

Sông Sekong có các phụ lưu bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn ở biên giới Bắc Trung Bộ Việt Nam – Nam Lào, chảy về phía tây và tây nam qua các tỉnh Sekong, Attapeu ở Nam Lào, Stung Treng ở Đông Bắc Campuchia rồi đổ vào sông Mekong gần thị xã Stung Treng.

Hiện trên hệ thống sông Sekong có các công trình thủy điện sau đã và đang được xây dựng:

Thủy điện A Lưới công suất lắp máy 170 MW, hoàn thành tháng 6/2012, xây dựng ở thượng nguồn dòng Sê Asap (hay sông A Sáp) huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam .
Thủy điện Xekaman 1 có tổng công suất lắp máy 322 MW, năm 2016 đang thi công, xây dựng trên dòng Sê Kaman, tại huyện Muang Sanxai, tỉnh Attapeu, CHDCND Lào.
Thủy điện Xekaman 3 công suất lắp máy 250 MW, hoàn thành năm 2013, xây dựng trên dòng Nam Pagnou, nhánh chính của Sê Kaman,
Thủy điện Xe Namnoy 1 công suất lắp máy 14.8 MW, xây dựng trên dòng Xe Namnoy tại bản Pengphukham muang Samakhixay tỉnh Attapeu
Thủy điện Xe-Pian Xe-Namnoy
Thủy điện Sekong 3
Thủy điện Houay Ho công suất lắp máy 150 MW, hoàn thành năm 1998, xây dựng trên dòng Houay Ho, tại muang Samakhixay tỉnh Attapeu.
unnamed - 2023-03-05T201608.307Cho nên việc xây thêm một Đập Thủy Điện cũng không có gì đặc biệt, chỉ duy Vị trí xây đập nầy RẤT QUAN TRỌNG.
Đập SEKONG A sẽ cắt hầu hết sự kết nối của Sekong với dòng chính Mekong, và vì vậy sẽ chặn đứng sự di cư của nhiều loài cá lên vùng sinh sản ở thượng nguồn; và ngăn phù sa chảy xuống miền Nam.
Tiến Sĩ Brian Eyler, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á và Chương trình Năng lượng, Nước và Bền vững tại Stimson Center, một think tank ở Washington DC, nhận định những tai hại do Đập Thủy Điện này gây ra, trong một phỏng vấn của Đài RFA hứng thú và đầy đủ, tóm lược những tai hại trực tiếp cho Việt Nam:
– Nguy cơ đối với an ninh lương thực
sông Sekong là con sông dài nhất, rất gần với đồng bằng sông Cửu Long.
Con sông đó, phụ lưu đó, là “đường cao tốc” di chuyển quan trọng cho dòng di cư của cá. Hiện có nhiều cá đang di chuyển qua nhánh sông đó hơn trước đây, bởi vì hai nhánh sông dài khác của sông Mekong, ngay phía nam sông Sekong, đã bị chặn bởi đập hạ lưu sông Sesan 2 ở Campuchia.
Những con đập này không thiết kế bậc thang cho phép cá vượt qua một cách hiệu quả hoặc không có một hệ thống giúp cá di cư để cho phép cá đi qua đập đó. Vì vậy, loài cá trên sông Mekong đang điều chỉnh để thích nghi, và hiện chúng đang chọn sông Sekong để di cư và đẻ trứng.
Việc đóng cửa dòng sông này sẽ xóa bỏ khả năng lựa chọn cho việc di cư của cá. Cá thích di cư đến các nhánh sông hơn là dòng chính vì chúng có thể tiếp cận bãi đẻ trứng nhanh hơn, nên chúng cần đến các khu vực nông hơn để đẻ trứng.
Như vậy con đập này sẽ cắt đứt đường di chuyển ngược dòng của cá từ hồ đến bãi đẻ, cũng cắt đứt đường di chuyển của trứng cá về hạ lưu rồi về đồng bằng, đi đến các hồ nhỏ phía nam nơi chúng lớn lên thành cá hoặc chúng là thức ăn cho những loài khác.

Campuchia xuất khẩu cá sang Việt Nam. Việt Nam cũng xuất khẩu sang Campuchia. Có giao thương về cá và thực phẩm giữa hai nước. Điều đó quan trọng đối với an ninh lương thực của Campuchia hơn là an ninh lương thực của Việt Nam, vì người dân Campuchia dựa vào nghề cá để cung cấp lượng protein.

Cá nước ngọt được đánh bắt tự nhiên ngay từ hệ thống hồ và cung cấp cho người dân Campuchia 70% lượng protein hàng năm của họ.

Việc loại bỏ 10% hoặc 20% trong số 70% lượng protein đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng khả năng an toàn kinh tế của Campuchia.

Vì vậy, bản thân con đập có thể gây ra một cuộc khủng hoảng lương thực, từ đó có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng kinh tế và cuối cùng là dẫn đến vấn đề an ninh của toàn khu vực.

Đây là những hậu quả mà chúng ta đã lo lắng từ lâu.

– Đẩy nhanh tốc độ sụt lún ở ĐBSCL

Đồng bằng sông Cửu Long cần phù sa cho sản xuất nông nghiệp và cũng để giữ cho nó ổn định về mặt địa chất với tư cách là một khối đất.

Đồng bằng châu thổ này hình thành từ trầm tích mới được lắng đọng trên vùng đồng bằng ngập nước trong hai hoặc ba ngàn năm qua.

ĐBSCL thực ra còn rất trẻ. Nó không phải là một địa hình cũ. Nó chỉ khoảng 3.000 năm tuổi. Và nó được tạo ra hoàn toàn bởi sự lắng đọng trầm tích trên khắp vùng đồng bằng ngập nước. Vì vậy, việc cắt đứt dòng sông Sekong sẽ loại bỏ một huyết mạch vận chuyển phù sa quan trọng đến Đồng bằng sông Cửu Long, khiến nó trở thành một vùng đất rộng lớn kém động năng cũng như kém hiệu quả kinh tế hơn.

Không có phù sa, đồng bằng sẽ chìm nhanh hơn.

Mực nước biển dâng lên, đang lấn phần đất liền, đang lấy đất liền đi với tốc độ bằng vài sân bóng đá mỗi ngày.

Nước biển dâng là điều không phải do Việt Nam tạo ra, nhưng là vấn đề Việt Nam cần phải giải quyết. Việt Nam phải nỗ lực hơn nữa để bảo vệ ĐBSCL.

– Những nguy cơ về xã hội và an ninh quốc gia

Hơn 17 triệu người ( khoảng 20% dân số VN ) sống ở đồng bằng sông Cửu Long.

Nếu vùng châu thổ này biến mất sẽ tác động sâu sắc đến Việt Nam và toàn khu vực Châu Á. Mặc dầu mực nước biển vẫn đang dâng lên, nhưng nó diễn ra rất chậm. Vì vậy, vùng đồng bằng sẽ không biến mất trong một sớm một chiều. Có rất nhiều thời gian để chuẩn bị và thích nghi với những gì sẽ xảy ra trong thế kỷ tới.

Nhưng chúng ta không nên làm cho mọi thứ tồi tệ hơn hiện tại, bằng cách để các công ty xây dựng đập ở những vị trí quan trọng và những con đập được thiết kế kém ở phần thượng nguồn.

Trớ trêu thay, tuy trên đất Lào nhưng Công Ty xây cất lại là một công ty Việt Nam.

Chính phủ Việt Nam cam kết bảo vệ Đồng bằng sông Cửu Long và cam kết trở thành một bên tham gia có trách nhiệm trong khu vực sông Mekong.

Vì vậy, hành động của một nhà đầu tư tư nhân VN không nên đi ngược lại cam kết và ưu tiên của chính phủ quốc gia.

Dự án này thực sự tồi tệ, đặc biệt là bây giờ, với bối cảnh hiện tại.

Vì vậy, Chính phủ Việt Nam cần xem xét tiến độ của con đập này, đặc biệt là xem xét tính pháp lý.

Bởi vì nếu các bên liên quan có thể nắm rõ được tình trạng pháp lý của con đập này, hiểu được quy trình và quá trình dẫn đến đến trạng thái hiện nay của con đập (đang được xây dựng vượt ngang qua sông Sekong), thì có thể làm cho con đập được xây dựng tốt hơn, bằng cách cải thiện khả năng hỗ trợ cá di cư, cải thiện thiết kế của đập. Đó là phương hướng nên làm nếu không thể dừng hoặc trì hoãn đập.

Hoặc có thể tìm một nơi khác để xây dựng một con đập có kích thước tương tự trên một nhánh của sông Sekong hoặc tìm một địa điểm có thể sản xuất 85 megawatt điện trên một phần của con sông nơi đã xây dựng các con đập khác. Bằng cách đó, chúng sẽ không ảnh hưởng đến con đường di cư của cá. Con đập ở vị trí khác thì vẫn có tác động đến trầm tích nhưng không tác động đến đường di cư của cá. Một giải pháp thay thế như vậy thực sự quan trọng để bảo vệ nghề cá của Campuchia và Việt Nam.

Tuy vậy, cũng có thể thay thế dự án thủy điện này mà không cần xây đập ở chỗ khác.

Năng lượng mặt trời quy mô rất khả thi ở khu vực Nam Lào và khả thi với hệ thống đường dây truyền tải. Nếu nguồn điện này được gửi đến hai khu công nghiệp ở miền Nam Việt Nam, các đường dây truyền tải có thể được liên kết với các nhà máy năng lượng mặt trời quy mô cũng như có thể dễ dàng liên kết với các đập.

Tiếp theo là một lựa chọn khác, đó là năng lượng mặt trời nổi. Có thể lắp đặt pin năng lượng mặt trời lớn trên mặt hồ chứa nước đã được xây dựng. Nó có thể dễ dàng đạt tới 85 megawatt, nguồn năng lượng mà đập thủy điện Sekong A tạo ra.

Đây là một vấn đề thực sự cấp bách. Hình ảnh vệ tinh cho thấy rằng con sông sẽ sớm bị đóng cửa. Một khi nó bị đóng cửa, nó sẽ không thể mở lại được và có thể mất nhiều tháng nếu muốn mở. Và con đập này có khả năng hoàn tất, chặn dòng lưu thông Cá và Phú sa trong mùa khô này.

Theo RFA , chủ nhân đầu tư xây Đập này là Công Ty Hoàng Anh Gia Lai, VN. Nhưng TS Brian Eyler cho rằng vốn chủ sở hữu của Hoàng Anh Gia Lai đã được thanh lý và hiện tại nó thuộc sở hữu của một công ty khác khi Hoàng Anh Gia Lai được tái cấu trúc vài năm trước.

Theo tin tức trong Nước, thì hiện giờ là do một doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam, Công ty Xây dựng Sông Đà 6.

Chính Phủ cộng sản độc tài đạo tặc cai trị Việt Nam nửa Thế Kỷ qua đã đem VN xuống tận cùng nghèo khổ, Ác với Dân, Hèn với giặc, bán Đất, dưng Đảo cho Tàu, giờ đây vì ham lợi riêng tư, sẽ đưa Đồng Bằng Sông Cửu đến chỗ điêu tàn.

unnamed - 2023-03-05T201520.089

Toàn Dân, nhứt là Dân Đồng Bằng Sông Cửu mạnh dạn vùng lên, đòi Cộng sản phải LẬP TỨC dừng ngay việc xây đập, bằng không thì trong tương lai, nước biển tràn vào, con cháu Quý vị phải đi tị nạn vì hết đất sống.

Lưu-Vĩnh-Lữ

Categories
6 - Trang lượm lặt Việt Nam

Cuộc Đầu Độc Vĩ Đại Ở Việt Nam


unnamed - 2023-02-22T212335.486Khắp Việt Nam, người dân đang sống với thực phẩm bẩn và thực phẩm tẩm thuốc độc hàng ngày! (Tiền Phong)

Từ bao nhiêu năm nay rồi, quê tôi có những chuyến xe đêm đi thành phố khởi hành lúc một giờ sáng, đến Sài Gòn lúc năm giờ. Có hai loại hành khách thường phải đi xe khuya như vậy: Một là người đi làm thuê và hai là người đi khám bệnh. Đến Sài Gòn lúc năm giờ sáng, người làm thuê kịp giờ đến xí nghiệp và người đi khám kịp vào bệnh viện “bắt số” để xếp hàng. Hành khách đi khám bệnh thường quen nhà xe và quen biết nhau vì họ đi lên đi xuống Sài Gòn tái khám từ năm này qua tháng nọ.

Trên xe, họ trò chuyện thân thiết, hiểu rõ hoàn cảnh gia đình cũng như bệnh tình của nhau, và thường nhắc đến những người bệnh vắng mặt. Cứ dăm ba chuyến xe không gặp thì hiểu là người ấy đã “về nhà” rồi, có nghĩa là về trên chuyến xe chở xác của bệnh viện. Đa số người bệnh trên những chuyến xe khuya ấy đều bệnh ung thư. Quê tôi bệnh ung thư nhiều vô số, đến nỗi có ai đó bị bệnh phải đi Sài Gòn khám là mọi người nói như mặc định “lại ung thư rồi”.

unnamed - 2023-02-22T212515.262Một trong những địa chỉ quen thuộc ở Việt Nam, nơi mỗi năm có hơn 200,000 ca mắc mới; và khoảng 82,000 ca tử vong (NLĐ)
Ở cửa ngõ Sài Gòn hướng miền Tây có Bệnh viện Triều An, gần như đó là bệnh viện dành cho người miền Tây và dành cho bệnh nhân ung thư. Lúc ông Trầm Bê còn đương thời, ông đã dành một khoản từ thiện tài trợ cho bệnh nhân ung thư, bệnh nhân nghèo bệnh nặng được miễn giảm viện phí ở Triều An.

Con sông quê đã hết hiền hòa

Đa số bệnh nhân ung thư ở quê tôi là nông dân. Trong văn chương nghệ thuật, hình ảnh con sông quê luôn đẹp đẽ hiền hòa. Giờ khác rồi, những con sông quê miền Tây vẫn đẹp mà không hiền chút nào. Tất cả ô nhiễm tới nỗi không ai dám tắm sông nữa. Hình ảnh trẻ con bơi đùa trên sông là xưa rồi. Chúng biết sông rất dơ, hễ xuống sông tắm là sẽ bị ngứa, ghẻ lở, nhiễm độc.

Thành phố có công ty vệ sinh đô thị thu gom rác, chứ nông thôn làm gì có, bao nhiêu rác người dân đều thải xuống sông. Cống rãnh đều dẫn ra sông mà không bao giờ và không ai nghĩ đến chuyện xử lý nước thải. Chợ nông thôn hầu hết đều ở ven sông, tan buổi chợ là tất cả rác rến lùa hết xuống sông. Cách đây mươi năm, hầu hết người dân nông thôn đều đi vệ sinh trên cầu cá, tức là đào cái ao nuôi cá tra, phía trên làm cầu tiêu để lấy phân nuôi cá. Tất nhiên là cái ao có đường cống thông ra sông rạch, có nước ra vô. Sau khi cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt ra Chỉ thị 100 cấm cầu cá thì đỡ hơn, nhưng đây đó vùng quê vẫn còn.

unnamed - 2023-02-22T212640.542Sông ngòi miền Tây ô nhiễm kinh hoàng! (RFA)
Dù sao thì rác hữu cơ có dơ chút mà không độc. Những dòng sông quê nhiễm độc là bởi phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, những loại thuốc bảo vệ thực vật cực kỳ độc hại bón trên ruộng lúa, xong rồi xả hết ra sông. Miền Tây trồng lúa ba vụ một năm, đất không có thời gian hồi phục nên phải xài phân thuốc thật nhiều thì lúa mới trúng. Cứ nhìn những doanh nghiệp kinh doanh phân bón, thuốc nông nghiệp giàu lên như thế nào thì đủ biết người nông dân sản xuất lúa toàn bằng phân thuốc.

Khi được sử dụng xong, các chai thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ bỏ lăn lóc bên bờ ruộng hoặc liệng hết xuống sông, hầu như không ai xử lý đúng cách cả. Chúng ta biết là thuốc sâu độc hại ra sao, thuốc diệt cỏ còn hơn vậy. Những người tự tử bằng thuốc sâu thì còn cứu được, chứ uống thuốc cỏ là bó tay luôn. Nông dân biết hết, nhưng họ tỉnh bơ, họ vẫn trữ thuốc độc trong nhà, trong nhà bếp, pha thuốc vào bình xịt xong vứt chai thuốc lăn lóc sau hè. Thậm chí mấy quán tạp hóa ở quê bán thuốc sâu, phân bón chung với thực phẩm luôn.

Mấy anh nông dân than với tôi là mỗi khi đi xịt thuốc về, họ “mắc bịnh” cả tuần chưa hết: Nhức đầu, mệt mỏi, nóng sốt, bải hoải chân tay… Đó chính là tình trạng nhiễm độc thuốc trừ sâu, nhưng họ “quen” rồi, nếu khuyên họ mặc đồ bảo hộ lao động, đeo khẩu trang và kính bảo vệ thì họ không bao giờ nghe, vì “vướng víu khó làm việc”, họ bảo vậy. Những bệnh nhân ung thư tương lai là đây chứ đâu.

Người nông dân đã hết thật thà

Đến nhà nông dân, bạn sẽ thấy họ trồng riêng một mảnh ruộng, một mảnh vườn “đồ nhà”, tức là không bón phân xịt thuốc, để dành riêng nhà họ ăn. Họ biết rõ bón phân xài thuốc là rất độc nhưng họ vẫn làm – để lúa có năng suất cao, rau cải xanh tốt – để bán cho người khác ăn. Riêng gia đình họ khôn hơn, chỉ ăn đồ nhà. Chưa hết, nếu ngày xưa mua gạo về để lâu trong khạp, bạn thấy có mọt. Giờ kiếm không ra con mọt nào đâu, gạo đều đã được xử lý chất bảo quản, để bao lâu cũng không mọt, không mốc. Còn rau cải, người đi chợ có xu hướng tìm rau cải có sâu để bảo đảm không bị xịt phân thuốc, nhưng làm gì tìm ra được. Rau xanh mướt, nhưng đem về nhà để tới chiều là bấy nhầy ra, ủng thối.

Nhà nông bây giờ khỏe re, nuôi heo không còn lo cám gạo rau muống và xắt chuối cây như ngày xưa. Tất cả heo gà vịt cá tôm đều nuôi bằng thức ăn công nghiệp có chất tăng trọng. Đôi khi tôi nghĩ có phải vì thế mà con người cũng béo phì hơn xưa không, ăn thịt toàn chất tăng trọng cơ mà. Tôi có người bạn, con gái làm trang trại nuôi gà công nghiệp. Bạn nói, nó cho gà ăn toàn thuốc và thực phẩm công nghiệp nhập khẩu Trung Quốc, mở đèn, mở máy lạnh cho gà ăn suốt ngày đêm.

Chỉ 3 tuần lễ là con gà to 3-4 kg. Gà không thể đứng nổi, phải nằm ăn, vì xương không phát triển kịp đủ để nâng đỡ trọng lượng. “Bắt con gà lên sẽ thấy nó nặng trịch và thịt cứng ngắc, rất sợ” – bà bạn cho biết vậy. Gà nuôi bằng thuốc rất yếu, dễ chết, chỉ cần cúp điện tắt máy lạnh chừng vài mươi phút là gà ngã ra chết hết luôn. Họ còn nuôi thuốc cho gà đẻ trứng sai, trứng to và đẻ trứng hai tròng đỏ; nhưng con gà đẻ chỉ một, hai lứa là chết vì kiệt sức. Nếu như ở quê tôi không mấy ai ăn thịt gà công nghiệp thì cả Sài Gòn này đều ăn, nhất là các quán cơm gà bình dân bán cho công nhân và sinh viên. Gà vườn giá hai trăm ngàn trong khi gà công nghiệp chỉ khoảng bảy chục ngàn một ký, Người nghèo ăn đồ độc hại là điều đương nhiên rồi.

Người bán thực phẩm, những mụ phù thủy độc ác

Có lần tôi ra cảng cá, thấy cá từ tàu mang lên ướp nước đá nhão nhoét, tôi thắc mắc “Cá như này sao bán được?” Chủ vựa trả lời: Đây mới là cá tươi, bạn hàng mang cá về nhà sẽ “muối” hàn the và ure, hôm sau mang ra chợ thấy cứng sảng, tươi chong chớ mà ăn độc lắm á em.

Hàn the là chất cấm sử dụng trong thực phẩm, là chất độc và lưu trữ vĩnh viễn trong cơ thể mà không bị đào thải qua bài tiết, nhưng người dân quê vẫn sử dụng để bảo quản thực phẩm, làm cho thức ăn tươi lâu, cứng giòn và dai. Chả lụa ướp hàn the sẽ dai ngon và để ngoài nhiệt độ thường hàng tuần lễ không bị hư. Hàn the ướp dưa chuột, dưa kiệu cho giòn, hàn the hay formol dùng trong sản xuất bún, bánh phở cho dai và để được lâu. Người ta còn dùng Tynopal là chất tẩy trắng trong công nghiệp giấy để làm cho bún trắng sáng. Chập tối đi chợ chiều, tôi từng bắt gặp người bán rải từng vốc hàn the lên thớt thịt để giữ thịt có màu đỏ tươi; sáng mai đem ra bán lại, bán hết thịt cũ mới bán tới thịt tươi, trong khi người nội trợ cứ nghĩ đi chợ sớm sẽ mua được thịt tươi ngon, tội nghiệp biết bao!

unnamed - 2023-02-22T212659.689Ngâm thịt thối để biến thành thịt tươi! (NLĐ)

Đi về vùng biển, tôi được bà con ngư dân chia sẻ một bí mật trong cách làm tôm khô. Tôm biển từ tàu đánh bắt xa bờ (đi ít nhất nửa tháng mới về) thì phải ướp để bảo quản. Cá có thể ướp nước đá, nhưng tôm tép thì không bởi tôm ướp nước đá sẽ bị đen đầu. Do đó, ngư dân phải muối tôm bằng hàn the để giữ được con tôm có màu tươi. Vậy là tôm khô biển rất độc hại, bạn chỉ nên ăn tôm biển từ những tàu đánh bắt gần bờ sáng đi chiều về mà thôi.

Cá khô cũng vậy. Bây giờ ra chợ hải sản khô người ta không thấy ruồi. Cả làng cá ven biển phơi cá lớp lớp trên giàn phơi bốc mùi tanh nồng cũng không thấy con ruồi nào đậu vào. Tại sao? Bạn bè miền biển cho tôi biết, gia đình họ tự phơi cá ăn chứ không bao giờ mua ở chợ, vì cá khô bây giờ đều được ngâm “thuốc ruồi”. Đó là một loại hóa chất diệt côn trùng mua từ bên kia biên giới Việt Nam – Campuchia, chỉ cần ngâm cá vào hóa chất, treo lên giàn một đêm là cá khô bán được, không cần phơi nắng, không bị ruồi bu sinh dòi, làm “cá một nắng” bằng cách ngâm thuốc sẽ bảo quản lâu mà không cần đông lạnh gì cả.

Người ta cũng phát hiện nhà kinh doanh hải sản nhuộm ruốc bằng phẩm màu công nghiệp, đó là chất Rhodamine B dùng nhuộm vải, có thể gây ngộ độc cấp tính và gây ung thư. Vàng Ô (Auramine O) là tên thương mại của chất diarylmethane. Đây là chất màu tổng hợp, chỉ được sử dụng trong công nghiệp để nhuộm và dùng để làm màu sơn quét tường. Thế nhưng người Việt dùng chất đó để nhuộm màu vàng cho măng và dưa cải! Và họ dùng oxyt đồng để nhuộm cho dưa chuột ngâm chua giữ được màu xanh tươi.

Ở Sài Gòn, dù thèm sầu riêng đến mấy tôi cũng không mua. Nhiều người giống như tôi vậy. Họ sợ sầu riêng ngâm thuốc. Con buôn đến từng vườn sầu riêng, bao mua hết vườn, trái non trái già gì họ cũng hái hết, rồi ngâm sầu riêng trong thùng hóa chất; vài hôm sau, sầu riêng chín đều, bán được hết. Những loại trái cây khác như táo, nhãn…, họ cũng ngâm hóa chất – gọi là thuốc phì, chỉ một đêm là táo nở to, trái trông rất ngon; long nhãn nở to đến nỗi nứt cả hạt ra.

Chợ Việt hàng Tàu

Khi tôi đi chợ mua rau củ, tôi chỉ mua hàng xấu, củ nhỏ đèo, màu ít tươi. Tôi nói KHÔNG với hàng Trung Quốc. Tất cả rau củ quả, gia vị như cà rốt, khoai tây, củ hành, tỏi, đường, bột ngọt… đều của Trung Quốc. Chợ Việt Nam toàn hàng Trung Quốc. Rau củ Trung Quốc củ to, màu tươi đẹp, bạn mua về để sáu tháng sau không hư hỏng. Và rất rẻ. Chính một chủ vựa hàng légume nói với tôi rằng, “hàng Trung Quốc vừa rẻ, vừa đẹp, để lâu không bị hư, thì chúng tôi (các nhà kinh doanh) tất nhiên là phải mua bán rồi”.

unnamed - 2023-02-22T212714.325Tại chợ Kim Biên, Sài Gòn, muốn mua hóa chất “bảo quản” gì cũng có. Tất cả đều là hàng Trung Quốc (TN)
Khi đến cửa khẩu Tân Thanh, Lạng Sơn, tôi thấy bãi hoa quả Trung Quốc chuẩn bị đưa sang Việt Nam nồng nặc mùi hóa chất bảo quản. Mỗi thùng trái cây có một bịch hóa chất, bạn sẽ không bao giờ thấy nó bởi chủ vựa đã thủ tiêu mất trước khi bán cho người tiêu dùng. Vì vậy, trái cây Trung Quốc không cần bảo quản lạnh vẫn giữ tươi nguyên mấy tháng liền. Dân buôn bán vùng biên giới gọi đó là hàng nóng. Thật bất công khi hàng Việt Nam bán sang Trung Quốc phải là hàng lạnh, trái cây phải được bảo quản bằng xe container lạnh, trong khi hóa chất bảo quản của Trung Quốc bán sang Việt Nam đầy ắp ở chợ Kim Biên, Sài Gòn.

Trong khuôn khổ một bài viết, tôi không biết nói sao cho hết những nỗi khổ của người Việt Nam khi còng lưng làm lụng để rồi phải ăn toàn chất độc, sống trong môi trường nhiễm độc và chết sớm vì bệnh tật. Trung Quốc cung cấp thuốc độc và người Việt đầu độc lẫn nhau, một cuộc đầu độc vĩ đại có thể khiến đất nước và dân tộc này suy tàn, diệt vong.

Thạch Thảo

Categories
5 – Sưu Tầm Sưu Tầm Việt Nam

Một Cơn Gió Bụi (Trích đoạn về Cộng Sản)


20994087_1744422655600411_4504540136194777860_n

Trần Trọng Kim

“… Người cộng sản, khi đã hành động, hay dùng đến chữ giải phóng. Theo việc làm của họ, tôi vẫn chưa hiểu rõ nghĩa hai chữ ấy. Có phải trước kia có cái cũi giam người, bây giờ họ đem cái cũi kiểu mới đến bên cạnh rồi bảo người ta chạy sang cái cũi mới ấy, thế gọi là giải phóng không? Nếu cái nghĩa giải phóng là thế, thì cũi cũ hay cũi mới cũng vẫn là cái cũi, chứ có hơn gì? Cứ như ý tôi, thì giải phóng phải theo đúng cái lẽ công bằng, làm cho người ta được ung dung thư thái, được hành động trong một cái khuôn khổ rộng rãi, ai nấy biết trọng quyền lợi của mọi người theo pháp luật đã định, không bị đàn áp và lừa dối, không bị bắt bớ và giết hại một cách ám muội, oan ức.

Ðàng này tôi thấy chế độ các nước cộng sản giống nhau như in cái chế độ chuyên chế thuở xưa. Người nào nói xấu hay công kích những người cầm quyền của đảng là phải tội bị đày, bị giết. Ai không sốt sắng theo mình thì bị tình nghi, phải chịu mọi điều phiền khổ. Nhân dân trong nước vẫn bị đàn áp lầm than khổ sở, riêng có một số ít người có địa vị to lớn là được sung sướng. Như thế thì giải phóng ở đâu? Giải phóng gì mà cả chính thể một nước phải nương cậy ở những đội trinh thám để đi rình mò và tố cáo hết thảy mọi người. Hễ ai vô ý nói lỡ một câu là bị tình nghi có khi bị bắt, bị đày v.v…thành ra nhân dân trong xã hội ấy lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, không biết ai là bạn là thù, mất hẳn sinh thú ở đời, thật trái với lời nói thiên đường ở cõi trần.
Trong những lời tuyên truyền của Việt Minh, thấy luôn luôn nói nào là hạnh phúc, nào là tự do, bình đẳng, mà sự thật thì trái ngược tất cả. Những lối họ dùng là nói dối, đánh lừa cướp bóc, giết hại tàn phá, không kiêng dè gì cả, miễn làm cho người ta mắc lừa hay sợ mà theo mình là được. Xem như lúc đầu Việt Minh tuyên truyền rầm rĩ lên rằng: ‘’Nước Việt Nam đã được các nước Ðồng Minh cho hoàn toàn độc lập, và dân được tha hết các thứ thuế’’. Thôi thì chỗ dân gian nghe nói thế chạy ùa ùa theo. Sau chẳng thấy độc lập đâu cả và dân lại phải đóng góp nặng hơn trước. Khi Việt Minh đã nắm quyền bính rồi, lại định các ngạch thuế, có người hỏi họ: ‘’Sao trước kia các ông bảo tha hết các thứ thuế rồi kia mà ?’’ Họ trả lời: ‘’Ấy trước nói tha thuế, nhưng bây giờ chính phủ cần có thuế để làm mọi việc’’. Nói thế thì uy tín của chính phủ để đâu?
Cái thủ đoạn của Việt Minh là dùng mọi cách bạo ngược, tàn nhẫn, giả dối, lừa đảo để cho được việc trong một lúc. Ngay như họ đối với Việt Nam Quốc Dân Đảng nay nói là đoàn kết, mai nói đoàn kết, nhưng họ vẫn đánh úp, vẫn bao vây cho tuyệt lương thực. Khi họ đánh được thì giết phá, đánh không được thì lại đoàn kết, rồi cách ngày lại đánh phá. Dân tình thấy thế thật là ngao ngán chán nản, nhưng chỉ ngấm ngầm trong bụng mà không dám nói ra. Nên dân gian thường có câu ‘’nói như Vẹm’’. Vẹm là do hai chữ Việt Minh viết tắt VM, đọc nhanh mà thành ra…”

-Trần Trọng Kim, “Một Cơn Gió Bụi” (1949)

Categories
5 – Sưu Tầm Việt Nam

TRỊNH CÔNG SƠN – MỘT LOẠI KÝ SINH TRÙNG….


Sau khi miền Nam bị CS cưỡng chiếm thì bao nhiêu sự thật lịch sử đã lần lượt được phơi bày, nhưng chân tướng của Trịnh Công Sơn vẫn còn được một số người cố gắng che dấu. Những người này cố tròng vào cổ Trịnh Công Sơn cái vòng hào quang “Quốc Gia”, họ tiếp tục ca tụng Trịnh Công Sơn là một người quốc gia!
Nhưng có một sự thật hiển nhiên mà họ không thể chối cãi được, là trong suốt cuộc chiến của người Việt Quốc Gia chống lại sự xích hoá của CS Quốc tế, được thực hiện bởi tay sai đắc lực là CS Hà Nội; Trịnh Công Sơn là một tên trốn lính. Chẳng những trốn lính, chẳng những đứng bên lề cuộc chiến, không hề chiến đấu bảo vệ chính bản thân của mình trước làn sóng xâm lăng của CS, Trịnh Công Sơn còn tiếp tay cho công cuộc xâm lăng của CS bằng những bài ca phản chiến!
Vào ngày 30 –4-1975, Trịnh Công Sơn đã lớn tiếng minh định anh ta không phải là người Quốc Gia khi hát bài Nối Vòng Tay Lớn trên đài phát thanh Sàigon để “chào mừng cách mạng thành công” vào lúc xe tăng CS Bắc Việt vừa tới dinh Độc Lập!
Nguyễn Đắc Xuân, một người bạn rất thân của Trịnh Công Sơn, một tay đao phủ của thành phố Huế trong biến cố Tết Mậu Thân 1968, (đệ nhất đao phủ là Hoàng Phủ Ngọc Tường, cũng là bạn rất thân của Trịnh Công Sơn – Trịnh Cung và Đinh Cường), viết rằng:
“Từ sau ngày Trịnh Công Sơn qua đời, nhiều dư luận trong và ngoài nước có khuynh hướng “lôi anh về phía bên này” hoặc “đẩy anh về phía bên kia”. Đối với Trịnh Công Sơn ai lôi anh thì cứ lôi, ai đẩy anh thì cứ đẩy, “kệ”. Trịnh Công Sơn là Trịnh Công Sơn, ai muốn hiểu sao cứ hiểu. Tuy nhiên cuộc đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã thuộc về lịch sử, mà đã là lịch sử thì “bên này” hay “bên kia” phải được chứng minh bằng tư liệu, tư liệu thành văn và tư liệu sống, nói có sách mách có chứng. Không thể phát ngôn về Trịnh Công Sơn theo cảm tính hay theo một định kiến nào….”
(Trịnh Công Sơn, có một thời như thế – Nguyễn Đắc Xuân – nhà xuất bản Văn Học).
Dựa theo những “tư liệu thành văn và tư liệu sống”, Nguyễn Đắc Xuân đã trích lại những điều sau đây do chính Trịnh Công Sơn viết xuống trong quyển sách vừa dẫn:
• Thời kỳ trốn lính
Trước khi sống qua một thời kỳ bất ổn định, tôi đã từng có được hai năm sống thong dong hợp pháp như tất cả mọi người đàng hoàng đứng đắn trên mặt đất. Muốn được thế, tôi đã phải đánh đổi bằng gần sáu mươi ngày nhịn đói tuyệt đối trong hai năm (mỗi năm 30 ngày liên tiếp trước khi trình diện) để đạt được cái mức độ không đủ tiêu chuẩn của một người lính. Nhưng muốn xuống kílô nhanh còn phải không ngủ và uống thêm điamox là một thứ thuốc rút bớt nước trong các tế bào ra. Qua năm thứ ba thì không ra trình diện nữa vì cảm thấy không đủ sức khoẻ để lặp lại cái chế độ ăn uống không có thực phẩm ấy nữa. Trốn lính gần như là một cái “nghề” đầy tính chất phiêu lưu của hàng triệu thanh niên miền Nam lúc bấy giờ. Thái độ phản kháng ấy, dù được nhìn dưới một góc độ nào đó còn mang tính thụ động, vẫn phải được nhắc nhở đến như một nốt nhạc trong trẻo đã ngân lên trong một giai đoạn u ám, nhiễm độc, giữa những đô thị miền Nam.
Tôi đã sống lang thang như một kẻ vô gia cư, vô định trú thứ thiệt. Thời gian không xê dịch nhiều, chỉ kéo dài khoảng ba năm, đó là lúc tôi nhập cư cùng một số sinh viên trốn lính khác đã có mặt trong những căn nhà tiền chế tồi tàn bỏ trống ở khu đất rộng sau trường đại học Văn khoa. Ở đây có một lợi thế là rất hiếm bị khám xét. Vào thời điểm ấy, trên khoảng đất trống lại mọc thêm một cái trụ sở Hội Hoạ Sĩ trẻ bằng gổ, hiện đa số hoạ sĩ vẫn còn có mặt trong thành phố. Giấc ngủ của tôi cứ tùy nghi hoán chuyển từ trên cái ghế bố trong túp lều này qua cái mặt nền xi măng của trụ sở hội nọ. Việc ăn uống đã có hàng quán dọc đường gần đó. Rửa mặt đánh răng thì mỗi sáng vào phòng vệ sinh của những quán cà phê quen thuộc, chỉ có việc mang theo khăn, kem và bàn chải đánh răng.
Thế đấy, nhưng chính những năm này là những năm sôi động nhất của đời tôi.
Sống trong tình trạng bấp bênh như thế tôi vẫn phải làm việc không ngừng để sống. Tôi vẫn viết đều tay và vẫn tiếp tục đi hát. Những ca khúc của tôi được in ra từng tờ rời và từng tuyển tập. Phụ trách công việc in ấn và phát hành đã có người em ruột của tôi, cũng cùng trốn lính, chăm lo. Việc in ấn càng lúc càng khó khăn, nhất là sau khi có lệnh tịch thu của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của tôi. Cảnh sát lúc bấy giờ được lệnh vào tận các nhà in để truy lùng. Thế là phải đổi kế hoạch. Thay vì in trong một nhà in, nay phải rải ra trong ba bốn nhà in khác nhau. Tịch thu nơi này còn nơi khác, và dĩ nhiên, chuyện đi đứng không phải dễ dàng. Đi từ một nhà in ở vùng SàiGòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi.
Sau lệnh tịch thu, tất cả báo chí trong và ngoài nước đều đưa tin . Các hãng thông tấn và truyền hình truyền thanh nước ngoài ào ạt đổ xô về nơi ăn chốn ở rất là “híp pi” đó của tôi càng lúc càng đông. Mỗi ngày trung bình ít lắm cũng phải ba lần phỏng vấn, thu hình, thu mặt. Tôi bỗng trở nên người nổi tiếng bất đắc dĩ. Ban đầu cái sự kiện này cũng mang đến cho tôi chút niềm vui nhưng càng về sau càng trở thành một tai nạn. Họ săn đuổi tôi đến mọi chổ lánh mặt xa xôi nhất. Từ SàiGòn ra Huế, chỉ vài hôm sau đã thấy có mấy mạng người đủ các màu da, xứ sở khác nhau xuất hiện ở cửa. Đời sống bỗng chốc mất đi cái tự do được quyền không nói năng, được quyền ngồi yên tĩnh một mình mà suy ngẫm cho đến nơi đến chốn bao nhiêu điều mình chưa biết trong cõi đời rộng lớn này. Tôi phải sống những khoảnh khắc phù phiếm trên báo chí và trước ông kính ấy cho đến mười ngày trước ngày thành phố được hoàn toàn giải phóng. Giờ đây sau hai mươi năm thành phố đã mang tên Bác, thỉnh thoảng vẫn còn những cuộc phỏng vấn của người nước ngoài, nhưng vó không còn là một nỗi ám ảnh kinh hoàng nữa.
Nghĩ lại chuyện cũ, tôi biết rằng những cái đó có được là do tấm lòng ưu ái của quần chúng đối với mình. Sức mạnh tình cảm của đám đông quần chúng là một trong những tấm khiên che chở mình trước những mối đe dọa và là những kèo cột chống đỡ tinh thần và tình cảm mình được vững vàng trước bao nhiêu khó khăn phức tạp của cuộc sống.
Nhẩm tính lại, tôi đã hùn hạp tất cả vốn liếng của mình vào cái đại gia đình trốn lính vừa tròn chẵn mười ba năm.
Đã qua hẵn rồi cái thời của “bèo giạt mây trôi”, của những giấc ngủ bị săn đuổi.
(sđd tr. 179-183)
Thuở ấy Nhị Xuân, em ở nông trường, em ra biên giới
Đêm Nhị Xuân không còn thấy rõ màu đất đỏ và những bãi mía, bãi dứa cùng lán trại cũng khoác một màu áo khác. Mưa xuống. Hội trường dã chiến như một cái rá lọc nước thả xuống những giọt dài. Chúng tôi (Phạm Trọng Cầu, Trần Long Ẩn và tôi…) cùng anh em Thanh niên Xung phong nam nữ hát với nhau dưới một bầu trời được trang trí lạ mắt như thế . Đêm cứ dài ra và những tiếng hát cứ dài ra. Nước ở con kênh dâng lên. Mặc kệ. Cứ đứng, cứ ngồi, cứ hát. Gần khuya có cô gái Thanh niên Xung phong nhanh nhẹn vui tươi mang cho cho chúng tôi những bát cháo gà trước khi chia tay. Những khuôn mặt ấy, tôi đã quen đã nhìn thấy nhiều lần. Một giờ khuya, lên xe giã từ Nhị Xuân, lòng còn âm vang tiếng cười, tiếng hát. Những bàn tay siết chặt, những cái vẫy trong đêm không nhìn thấy. Quá giờ giới nghiêm, xe dừng lại giữa đường, không được vào thành phố. Ngủ lại chờ sáng. về lại thành phố, trở lại công việc thường ngày. Nhưng ở Nhị Xuân, có hai mươi người con gái Thanh niên Xung phong đi về phía khác. Mấy tháng sau, tôi được tin tất cả hai mươi khuôn mặt tôi đã nhìn, đã gặp đêm hôm nào ở Nhị Xuân cùng nhau ca hát, đã hy sinh ở biên giới Tây Nam. Những tiếng hát giọng cười còn đó. Những cây mía cây dứa các bạn trồng vẫn còn đó , vẫn lớn lên. Tôi bồi hồi nhìn ra quãng trời rộng và thấy lại trong trí nhớ những con người trẻ trung ấy. Trong những trái tim ấy có gì khác chúng ta không. Trong giấc ngủ ban đêm, trên những vầng trán khoẻ mạnh ấy, đã có những cơn mơ nào. Chúng ta nói quá nhiều đến sự tròn đầy và chúng ta quên đi sự mất mát. Chúng ta vẽ ra lắm nụ cười mà quên đi những nỗi ngậm ngùi riêng tư. Những người bạn nhỏ đã ra đi thật vĩnh viễn, nhưng nỗi nhớ thương về họ chưa được hát đủ như một nỗi đau. Còn thiếu sót biết bao nhiêu điều chưa nói hết lúc ở nông trường và càng chưa nói được một mảy may lúc ra biên giới. Làm một điều gì chưa đến chốn với một người không còn nữa, có phải cũng đã là phạm tội với cuộc đời rồi hay không. Xin hãy tha thứ những dòng chữ óng mượt, những sắp xếp tinh khôn, những cân nhắc đong đưa xuôi chèo thuận lái.
(Sđd, chương V: Phát thảo chân dung tôi – Trịnh Công Sơn. Trang 186-188)
Anh Sáu Dân với Trịnh Công Sơn
Hơn hai mươi năm trước, đồng chí Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Văn Kiệt “rủ” Trịnh Công Sơn và tôi đi khảo sát đất Trị An. Từ chuyến đi ấy Trịnh Công Sơn và tôi cũng như một số bạn bè gọi đồng chí Bí thư bằng anh Sáu, anh Sáu Dân rất thân mật. Chuyến đi ấy anh mang đến cho hai đứa tôi về giấc mơ điện “Trị An”. Còn anh, anh không chỉ mơ mà khẳng định quyết tâm và bắt tay tổ chức hiện thực.
Buổi chiều trên đường về mưa gió mịt mù. Trịnh Công Sơn và tôi ngồi trên chiếc xe jeep.
Về đến nhà anh Sáu, áo của Sơn đổi màu mưa bụi. Còn tôi, nhờ có chiếc áo gió, áo trong của tôi còn sạch. Anh Sáu bảo chúng tôi tắm, anh Sáu mang chiếc áo của anh cho Sơn. Chiếc áo ấy Sơn vẫn để trong tủ áo của mình, ít ai biết.
Anh Sáu đánh giá và bình phẩm ca khúc của Trịnh Công Sơn theo cách của anh. Với tôi anh Sáu là một nghệ sĩ, nghệ sĩ với con người chiến sĩ của anh. Không hề có khoảng cách về tuổi tác, về cương vị xã hội, hai người nghệ sĩ ấy đã gặp nhau, đã trở thành một đôi bạn chia sẻ nhiều nổi niềm không thành lời, không thành tiếng. Những năm khó khăn, cơm độn bo bo, có lần anh Sáu gởi gạo đến gia đình Trịnh Công Sơn.
Có một lần anh Sáu tâm sự với Sơn “Anh em trí thức ở thành phố mình bỏ đi nhiều quá. Mỗi người mỗi cương vị, làm sao giữ anh em lại, cùng xây dựng đất nước.” Sau đó Trịnh Công Sơn viết ca khúc “Em còn nhớ hay em đã quên”. Lần thứ hai, anh Sáu nói với Sơn “Trong lúc khó khăn này, làm sao mọi người đều có niềm tin, niềm vui, vượt lên khó khăn để xây dựng Thành phố…” Sau đó, Trịnh Công Sơn cho ra bài “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”.
Sau này anh Sáu về Trung Ương, ở cương vị Phó Thủ Tướng, Thủ Tướng, Cố Vấn BCH Trung Ương Đảng, dù ở cương vị nào, mỗi lần về SàiGòn, ngoài công việc, anh hay gặp gở lại bạn bè. Trong những cuộc gặp gỡ ấy, thường có Trịnh Công Sơn. Những cuộc gặp ấy bao giờ Trịnh Công Sơn cũng ngồi gần anh Sáu, như không thể cách xa nhau. Theo tôi hiểu, ít có người Việt Nam nào đi khắp mọi miền như anh. Anh đến cả những vùng sâu vùng xa đến nỗi, chánh quyền địa phương cũng chưa đặt chân đến.
Anh kể với chúng tôi về những chuyến đi. Rồi ai có sáng tác nào mới, hát cho anh nghe. Trần Long Ẩn chuyên hát lời hai, lời ba. Nguyễn Duy đọc thơ, Trịnh Công Sơn chưa có bài mới thì tùy hứng. Một lần chị Sáu ( vợ anh Sáu) nói “Sao mà tôi thích cái câu – sỏi đá cũng cần có nhau – sâu xa quá!”. Thế là Trịnh Công Sơn cầm đàn hát “Diễm xưa”. Thật khó có người nào hát hay bằng Sơn hát về mình.
Có một lần, tôi kể với Trịnh Công Sơn, anh Sáu nói với tôi rằng anh Sáu vừa nghe đài Hoa Kỳ hai buổi lúc 5h30 sáng, đài Hoa Kỳ bình luận về ba nhạc sĩ lớn của Việt Nam: Văn Cao, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, đài Hoa Kỳ bình luận, ca từ của Trịnh Công Sơn là lời của phù thủy. Họ không giải nỗi ý nghĩa nhiều tầng, nhiều góc ca từ của Trịnh Công Sơn, nên đành phải nói là lời của phù thủy. Anh Sáu thích lắm! Trịnh Công Sơn không ngạc nhiên nhiều về lời bình của đài Hoa Kỳ mà ngạc nhiên :”Anh Sáu theo dõi kỹ vậy à? Thế mà anh em mình không ai biết”.
Anh Sáu quý trọng tài năng của Trịnh Công Sơn và rất yêu con người và tính cách của Sơn có khi hồn nhiên như trẻ thơ.
Có một đêm, anh Sáu rủ Sơn và tôi đến chơi. Anh Sáu mang chai Mao Đài đãi hai chúng tôi. Sơn xỉn. Thế là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bắt đầu dạy Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm chánh trị. ” Anh đi Nhật mà không gọi em là không chính trị. Nhật họ quý em lắm. Anh đi nước ngoài anh phải thế này, thế kia, thế nọ…” Anh Sáu và tôi cứ cười, Sơn thì vẫn cứ thao thao.
Hôm sau tỉnh rượu, tôi lại với Sơn, Sơn ngửa mặt cười:
– Có thật vậy à ? Anh Sáu có giận mình không ?
– Không! Anh Sáu vui!
– Lần sau nhớ nhắc mình nhé!. Tôi thầm nghĩ, Sơn phải là Sơn nhắc làm gì?
Vào một ngày cuối tháng ba năm nay, tôi gặp anh Sáu, anh Sáu hỏi thăm Sơn. Tôi báo anh, Sơn bịnh nhiều, Sơn đang cấp cứu trong bịnh viện. Anh nói:
– Mai mình đi Hà Nội, sau Đại hội Đảng mình về, mình thăm Sơn, các em Sơn. Xem nước ngoài nào chữa được Sơn, mình tạo điều kiện để Sơn đi.
Nhưng không kịp nữa, chiều ngày 1-4-2001 tôi gọi điện thoại cho anh ” Anh Sáu ơi! Sơn mất rồi…” Anh hỏi, anh nói nhưng tôi không nhớ gì, chỉ nhớ ” Đau lòng quá!” và chị Sáu kêu lên ” ….buồn quá…”
Buổi chiều ngày 3-4-2001, vào 18 giờ, tôi nhận được điện thoại của anh, anh chị đi thăm mộ Trịnh Công Sơn đang trên đường về, hẹn tôi ở nhà Trịnh Công Sơn.
Buổi gặp này có anh Sáu, chị Sáu, các em của Trịnh Công Sơn, anh Phạm Phú Ngọc Trai và tôi. Anh hỏi những ngày cuối cùng của Sơn…Anh nói:
– Những năm sau này, Sơn yếu nhưng sức sáng tác của Sơn rất dồi dào. Mỗi lần gặp lại là Sơn có sáng tác mới. Ca từ trong ca khúc sau này của Sơn càng thâm thúy. Ai nghe cũng thấy mình ở trong ấy. Sơn đi là một mất mát lớn, không chỉ cho nền âm nhạc nước nhà mà là còn sự mất mát nhiều mặt của nền văn hóa Việt Nam. Thương và tiếc, tiếc quá! Một mất mát lớn, rất lớn.
Anh Phạm Phú Ngọc Trai thêm một vòng thông tin: ” Nước ngoài đánh giá Trịnh Công Sơn không chỉ là một danh nhân Việt Nam mà còn là danh nhân thế giới”. Anh Sáu trầm ngâm khẽ gật gù.
Tôi nói : ” Lúc sinh thời Sơn vắng mặt chổ này chổ kia, nhưng khi Sơn ra đi, Sơn có mặt khắp mọi nơi”. Chúng tôi đều gặp nhau trong ý nghĩ về Sơn.
Có một lần nhà thơ Nguyễn Duy nói với tôi: ” Với anh Sáu thì mình phục rồi. Riêng tôi có điều phục nữa, anh Sáu là người rất dí dỏm, người biết đùa là người trẻ, người thông minh, mình là người thích nói đùa, mà nhiều khi mình đối đáp không kịp anh ấy!”. Đúng như Nguyễn Duy nhận xét. Lần nào gặp anh, theo từng câu chuyện, lúc nào anh cũng rạng rỡ, nụ cười, giọng cười của anh như kéo mọi người gần nhau.
Buổi gặp gỡ chiều này, tôi ngồi bên anh suốt hai tiếng đồng hồ, tôi không thấy anh cười. Tôi có cảm tưởng Trịnh Công Sơn đã mang theo nụ cười của anh. Anh Sáu buồn, buồn lắm, Sơn có biết không.
5-5-2001
Nguyễn Quang Sáng .
(Trịnh Công Sơn, người hát rong qua nhiều thế hệ – Nhà xuất bản Trẻ, tr. 173-175)
Lý Quý Chung, một nhà báo và là một dân biểu Việt Nam Cộng Hòa, sau ngày 30-4-1975 đã chính thức phô bày bộ mặt thật, có viết về hai chữ “gia nô” như sau:
– Ở miền Nam trước 1975, một người chỉ cần nói đọc báo nào, nghe nhạc gì thì biết ngay người đó là ai, thái độ của người đó đối với chế độ Thiệu và người Mỹ như thế nào và thái độ của người đó đối với cuộc chiến tranh ra sao? Có báo ” gia nô” ( đó là cách gọi của người Sài Gòn trước 1975 đối với loại báo chí của chính quyền Thiệu hoặc theo phe Thiệu )…. ( TCS MTNT tr. 210)
Bài viết của Nguyễn Quang Sáng ghi lại nguyên nhân ra đời của hai bản nhạc ” Em còn nhớ hay em đã quên ” và “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” . Nguyễn Quang Sáng cho biết anh Sáu Dân Võ Văn Kiệt chỉ mới nói vài lời mà Trịnh Công Sơn đã lãnh hội được ý của anh Sáu muốn cái gì và Sơn tự biết mình phải làm cái gì ! Nói theo cách của Lý Quý Chung, đây đúng là hành vi của một “gia nô”. Thiên tài âm nhạc Trịnh Công Sơn sau 1975 đã tự biến hình thành một nhạc – nô viết nhạc theo ý muốn của “trên” để đáp ứng cho nhu cầu tuyên truyền.
Cũng qua bài viết của Nguyễn Quang Sáng, độc giả còn được nhìn thấy cung cách và thái độ của thiên tài âm nhạc họ Trịnh đối với anh Sáu Dân Võ Văn Kiệt . Cái thái độ ấy phải gọi thế nào cho đúng? Bưng bô? Liếm gót?
Riêng cái cung cách của một cán bộ tuyên truyền thì được Trịnh Công Sơn thể hiện rất rõ qua những lời sau đây : ” việc in ấn càng lúc càng khó khăn, nhất là sau khi có lệnh tịch thu của chính quyền Nguyễn văn Thiệu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của tôi …. phải rải ra trong ba bốn nhà in khác nhau….chuyệân đi đứng không phải dễ dàng…..đi từ một nhà in ở Sàigòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi….”
Nếu chính quyền Nguyễn văn Thiệu tịch thu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của Trịnh Công Sơn, thì chính quyền nào cấp giấy thông hành cho ca sĩ Khánh Ly sang Nhật hát bản Diễm Xưa của họ Trịnh tại hội chợ quốc tế Expo Osaka năm 1970? Chẳng lẽ đó là chính quyền Hà Nội?
Nếu chính quyền ông Thiệu ra lệnh tịch thu toàn bộ các tập ca khúc, thì tại sao các tập ca khúc của Trịnh Công Sơn với hình bìa do Trịnh Cung, Đinh Cường vẽ, vẫn được bày bán công khai tại các nhà sách ở Sài Gòn, ai muốn mua bao nhiêu cũng có ?
Nếu chính quyền ông Thiệu tịch thu toàn bộ băng nhạc thì tại sao ” nhạc Trịnh ” vẫn vang dội tại các quán cà phê ở Sài Gòn, tại các câu lạc bộ quân trường? Khánh Ly vẫn nhởn nhơ trình diễn nhạc Trịnh tại Queen Bee hàng đêm, và nhạc Trịnh vẫn được hát tại câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc trong trại Phi Long-Tân Sơn Nhất vào mỗi cuối tuần?
Và đây mới là chuyện lạ bốn phương: ” đi từ một nhà in ở Sài Gòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi …” Đây là thời điểm nào? Trước 30 tháng 4 năm 75 hay sau ngày ” giải phóng”?
Chính quyền Thiệu đã đặt nhiều trạm kiểm soát như thế, mà người em ruột của Trịnh Công Sơn phụ trách phần in ấn và phát hành thường lui tới ba bốn nhà in hàng ngày mà vẫn không bị cảnh sát bắt vì tội trốn lính ?
Căn cứ vào những tài liệu “thành văn” và tài liệu “sống”, hầu như ai cũng biết rằng, thiên tài âm nhạc của họ Trịnh có cơ hội nẩy nở và thăng hoa là nhờ môi trường tự do, khai phóng của miền Nam dưới hai thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa. Chính nhờ sự rộng lượng bao dung của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và sư che chở của một số sĩ quan cao cấp của QLVNCH mà họ Trịnh mới sáng tác được trên dưới 600 nhạc phẩm. Cũng chính chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã đem bài Diễm Xưa đến Hội Chợ Quốc Tế Osaka 1970 để rồi họ Trịnh mới chiếm giải nhất về Dân Ca và được người Nhật thực hiện trên đĩa vàng. Bài hát Nối Vòng Tay Lớn được sử dụng trong các buổi sinh hoạt, họp mặt của thanh niên, sinh viên …..
Tóm lại, danh vọng và tiếng tăm mà họ Trịnh có được là nhờ ở chế độ Việt Nam Cộng Hòa và những sĩ quan cao cấp trong QLVNCH đã cưu mang và che chở cho họ Trịnh. Nói một cách dễ hiểu hơn, Trịnh Công Sơn đã sống như một loại ký sinh trùng trong lòng hai chế độ Cộng Hòa miền Nam.
Ký sinh trùng như giun, sán sống trong ruột của con người, nhờ hấp thụ chất bổ dưỡng tích tụ trong ruột non của con người mà chúng nó mới sống khoẻ sống mạnh và sinh sôi nẩy nở. Thiên tài âm nhạc của Trịnh Công Sơn sẽ không thể phát triển và thăng hoa nếu không ký sinh trong môi trường tự do khai phóng của Việt Nam Cộng Hòa, cho dù đang ở trong giai đoạn chiến đấu chống xâm lăng cộng sản. Và trong lúc Trịnh Công Sơn trốn tránh trách nhiệm, sống như một loài ký sinh trùng giữa đô thị để viết những bài ca phản chiến thì hàng triệu thanh niên cùng lứa tuổi đang hy sinh xương máu tại các chiến trường miền Nam trong từng giây, từng phút.
Đúng với lẽ công bình của trời đất và lương tâm con người, Trịnh Công Sơn đã mang một món nợ rất lớn đối với những người đã chết để họ Trịnh được hít thở không khí tự do cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Những người ấy đã nằm xuống để họ Trịnh được sống, để họ Trịnh được có cơ hội nói ra những lời vô ơn bạc nghĩa và thực hiện những hành vi phản bội trong ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhiều người miền Nam từng coi Trịnh Công Sơn là thần tượng, từng ngưỡng mộ thiên tài âm nhạc của họ Trịnh đã ngỡ ngàng và đau đớn biết bao nhiêu khi nghe Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh kêu gọi mọi người cùng hát bài Nối Vòng Lay Lớn để ” chào mừng cách mạng thành công ” giữa lúc Sài Gòn đang trong cơn hấp hối !
Nhiều người vẫn chưa quên giọng hát hồ hởi, tiếng vổ tay đánh nhịp dồn dập đầy sự phấn khởi của họ Trịnh trong ngày uất hận, đau thương và đen tối nhất của lịch sử dân tộc!
Trong ngày đen tối đó, họ Trịnh đã công khai bội phản những người từng cưu mang, dung dưỡng, che chở cho anh ta; minh thị phản bội những “tấm lòng ưu ái của quần chúng đối với mình “!
Nếu Trịnh Công Sơn không phải là một con người có tâm địa phản trắc thì Trịnh Công Sơn là con người gì?
Hãy nghe Trịnh Công Sơn định nghĩa: “trốn lính là một hành động phản kháng.”
Trốn lính vào thời điểm cộng sản đang tiến chiếm miền Nam là một hành động phản kháng, vậy thì Trịnh Công Sơn muốn phản kháng ai và phản kháng điều gì? Có phải là phản kháng chế độ Việt Nam Cộng Hòa đang dung dưỡng họ Trịnh, phản kháng những nổ lực của quân dân miền Nam đang ngăn chận làn sóng đỏ để bảo vệ cơm no áo ấm cho 25 triệu đồng bào, trong đó có cá nhân và gia đình của Trịnh Công Sơn ?
Thiên tài âm nhạc của Trịnh Công Sơn thật ra không ai phủ nhận, nhưng cái thiên tài ấy đã phản bội chính nghĩa quốc gia, tiếp tay với chế độ phi nhân, tiếp tay với những con người không còn lương tri đã đối đãi với đồng bào ruột thịt như kẻ thù không đội chung trời; cái thiên tài ấy đã góp phần gây ra tai họa khủng khiếp cho dân tộc, đẩy đất nước xuống hố diệt vong. Vậy thì cái vòng hào quang Quốc Gia mà ai đó cố choàng cho Trịnh Công Sơn là không có thật, không bao giờ có thật. Thật sự trong tận cùng tim đen, Trịnh Công Sơn cũng không hề muốn đội cái vòng hào quang Quốc Gia ấy.
• Một lần nữa, hãy nghe họ Trịnh khẳng định chổ đứng :
– Con kênh này sẽ kêu gọi những con kênh khác ra đời. Kênh chị, kênh em sẽ mọc lên cùng khắp để góp phần lợi ích cho những con người mới trong một thời đại mang tên Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam { sđd, tr.170 : Nam Thạch Hãn những ngày đầu tháng ba (1979 ) }
– Trốn lính gần như là một cái ” nghề ” đầy tính chất phiêu lưu của hàng triệu thanh niên miền Nam lúc bấy giờ. Thái độ phản kháng ấy, dù nhìn dưới góc độ nào đó còn mang tính thụ động, vẫn phải được nhắc nhở đến như một nốt nhạc trong trẻo đã ngân lên trong một giai đoạn u ám, nhiễm độc, giữa những đô thị miền Nam.
( sđd,tr.180 )
Giai đoạn mà Trịch Công Sơn cho rằng ” u ám, nhiễm độc ” đó, như đã nói ở trên, chính là giai đoạn mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang ra sức bảo vệ tự do no ấm cho 25 triệu đồng bào miền Nam, chống lại công cuộc xích hóa của CS quốc tế mà Hà Nội là tay sai. Trốn lính trong giai đoạn ấy chỉ có những loại người sau đây: hèn nhát, ích kỷ và CS nằm vùng.
Cho rằng có ” hàng triệu thanh niên miền Nam trốn lính” vào thời bấy giờ, Trịnh Công Sơn đã mặc nhiên hòa nhịp theo cung điệu tuyên truyền của các cán bộ cộng sản, loại cán bộ đã huênh hoang ” lên lớp” những sĩ quan QL/VNCH trong các trại tù cải tạo rằng: máy bay của ta nấp ở trên mây, đợi lúc máy bay địch xuất hiện thì bất thần bay ra nghênh chiến…
Gọi hành động trốn lính là một ” thái độ phản kháng”, Trịnh Công Sơn muốn xác định rõ ràng anh ta không phải là người Quốc Gia.
Gọi hành động trốn lính là ” một nốt nhạc trong trẻo trong giai đoạn u ám, nhiễm độc…”, Trịnh Công Sơn muốn minh định rõ ” thiên tài âm nhạc ” họ Trịnh không thuộc Việt Nam Cộng Hòa mà thuộc về ” thời đại mang tên Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam “!
Qua những tài liệu sống và những tài liệu thành văn, Trịnh Công Sơn là tổng hợp của:
– Một kẻ ích kỷ
– Một tên hèn nhát trốn lính
– Một tên nằm vùng
– Một loại ký sinh trùng
– Một kẻ phản bội
– Một tên lừa dối
– Một tên ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản
Trước lịch sử, Trịnh Công Sơn đã hiện nguyên hình. Không nên bóp méo lịch sử bằng cách choàng lên đầu Trịnh Công Sơn vòng hào quang Quốc Gia không hề có thật; cũng đừng hô biến ” Nối Vòng Tay Lớn ” trở thành một biểu tượng đoàn kết đấu tranh dân chủ, trong khi bài hát ấy đã được tác giả của nó hát lên để đón mừng cái chế độ phi nhân bóp họng dân chủ !
Phải trả lại sự thật cho lịch sử./.
BB & LIÊM

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

Gia đình lo ngại ông Trần Huỳnh Duy Thức đã có thể tuyệt thực lên đến hơn 120 ngày


Mong quý độc giả cần bình tâm suy nghĩ khi đọc tin này để đừng bị Vịt cộng tung tin đánh lừa, như chúng ta đã từng bị lừa về “Mẹ” Nấm, Trần Thị Nga và những tù nhân lương tâm cò mồi khác : Điếu Cày, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn văn Đài..!!
Khi ở tù Vịt Cộng, chỉ có những tên cò mồi mới được “Báo tin” cho gia đình những gì xảy ra trong tù. Những người thực sự đấu tranh để lật đổ Cộng Sản chính là những người mà chúng ta không nghe tin về họ, cho đến khi họ chết hoặc được ra khỏi tù !
Chân thành cảm ơn.
CGQ

 
Gia đình lo ngại ông Trần Huỳnh Duy Thức đã có thể tuyệt thực lên đến hơn 120 ngày
Nhà hoạt động Trần Huỳnh Duy Thức tại phiên tòa ở TP Hồ Chí Minh hôm 20/1/2010.
AFP

Hôm 21 tháng 7, 2021, ông Trần Huỳnh Duy Tân, em trai của tù nhân chính trị Trần Huỳnh Duy Thức phát đi thông báo trên trang Facebook cá nhân trong đó bày tỏ sự lo ngại về an nguy của anh trai ông.

Theo gia đình, ông Trần Huỳnh Duy Thức dự kiến sẽ gọi điện về nhà trước ngày 20 tháng 7, tuy nhiên, thời hạn đã qua mà không nhận được cuộc gọi nào từ trại giam. Trước đó, trong cuộc gọi hồi giữa tháng 6, ông Thức thông báo rằng ông đã tuyệt thực được hơn 100 ngày.

Chính vì vậy gia đình đang hết sức lo ngại cho sức khoẻ và tính mạng của ông thức.

Trả lời phỏng vấn ở RFA, ông Trần Huỳnh Duy Tân cho biết:

“Hiện tại thì gia đình rất là lo lắng cho tình trạng của anh ấy. Như tháng vừa rồi anh gọi về thì anh nói rằng anh vẫn còn tuyệt thực gần cả trăm ngày rồi, tới ngày hôm nay là hơn 120 ngày rồi.

Như tuyên bố của anh vào cái ngày anh gọi về hồi tháng 6 vừa rồi thì anh không ăn uống hay gì hết, anh chấp nhận cái rủi ro lớn nhất là anh có thể bị thiệt mạng. Nên gia đình rất là lo về tình trạng của anh.”

Theo ông Trần Huỳnh Duy Tân thì gia đình cố gọi cho trại giam để tìm kiếm thông tin về ông Thức nhưng không liên lạc được. Ngoài ra, gia đình cũng đã làm đơn gửi các lãnh đạo Nhà nước về trường hợp khấn cấp của ông Thức.

Lý do mà ông Trần Huỳnh Duy thức tuyệt thực, được ông Tân giải thích như sau:

Cái mục đích tuyệt thực của anh ấy là anh yêu cầu Toà án Nhân dân Tối cao phải miễn hình phạt còn lại cho anh, và trả lời đơn yêu cầu mà anh đã gửi đi từ rất lâu rồi.

Theo Bộ Luật Hình sự mới là cái tội danh chỉ tối đa là năm năm thôi chứ không thể là 16 năm như anh đang phải chịu.

Miễn hình phạt còn lại, chứ anh không xin ân xá, không xin xỏ gì ở đây hết. Cái vấn đề là đúng luật thì phải xem xét giải quyết, chứ không phải là anh xin!”

Ông Trần Huỳnh Duy Thức hiện đang thụ án tại trại giam số 6 ở tình Nghệ An, đây đã là năm thứ 11 ông ở trong tù.

Bị bắt vào năm 2009 với cáo buộc “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, ông Trần Huỳnh Duy Thức sau đó bị kết án 16 năm tù giam. Cùng vụ án với ông còn các ông Lê Công Định, Lê Thăng Long và Nguyễn Tiến Trung, cả ba người đều đã ra tù.

Ông Trần Huỳnh Duy Thức đã tuyệt thực nhiều lần trong trại giam để phán đối sự ngược đãi mà ông phải chịu, và để phản đối bản án mà ông cho là bất công.

Tổ chức nhân quyền Ân xá Quốc tế gọi ông là tù nhân lương tâm, vì bị bỏ tù chỉ vì thực hành các quyền căn bản một cách ôn hoà.

217396754_2432177756925664_423527783709208245_n

Source :
https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/family-concerns-tran-huynh-duy-thuc-hunger-strike-might-last-more-than-120-days-07222021073554.html

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

HUYẾT LỆ TÂM THƯ KÍNH ĐỆ TRÌNH ĐỨC GIÁM MỤC ANPHONG NGUYỄN HỮU LONG, GIÁO PHẬN VINH


Bài copied từ FB cha Nam Hoài Thạch Sơn

Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý,
nhà Hưu Dưỡng Nhà Chung Tổng Giáo Phận Huế.
Huế, Lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả Tiền Hô 24.6.2020

Kính thưa Đức Cha Anphong !
​​Con đã đọc Thông Báo số: 1320/TB-TGM ngày 17.6.2020, của Văn Phòng Tòa Giám Mục Vinh, V/v Thuyên chuyển và Bổ nhiệm 30 Linh Mục Giáo phận Vinh, tháng 6.2020, có LM Gioan Baotixita Nguyễn Đình Thục, nguyên Quản xứ Song Ngọc, làm Quản xứ Lộc Mỹ & LM Antôn Đặng Hữu Nam, nguyên Quản xứ Mỹ Khánh, tạm nghỉ Mục Vụ. Thông Báo này đã làm cả chục triệu Lương Dân & Kitô Hữu quá đau xót, hàng ngàn Dân đã lên tiếng, 1 số Giáo Hữu Vinh quá khổ tâm, muốn bỏ Đạo; 1 số Lương Dân quá thất vọng, đã xin Đức Cha hồi tục, làm CBCS! Đức Cha xé vụn các Tâm Thư, vứt bỏ các Kiến Nghị, la mắng các cuộc Điện Thoại đẫm nước mắt này, nhưng các Thư Nghị gửi Đức Cha vẫn dồn dập. Vì Vinh Danh Chúa, để Hội Thánh Công Giáo VN thăng tiến vững bền & hiệp thông với các Khổ Tâm trên, con kính đệ trình 10 tâm tình rất đau xót sau đây:

120777400_177177950637220_3043542687772591783_nLM Antôn Đặng Hữu Nam & LM Gioan Baotixita Nguyễn Đình Thục

1. Dịp 17.6.2020 này, Internet phổ biến lại Lời Trối của Đức Cố GM Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến, GP Bắc Ninh: “Giáo Hội Công Giáo VN đã bị Thuần Hóa” do Lm Anrê Nguyễn Hữu Lễ trực tiếp ghi thời 2006 & phổ biến thời 2007. Lần này, Internet phổ biến thêm các hình ảnh mới, về GHCGVN tự nguyện bôi trơn, giúp VC dễ thuần hóa GH hiệu lực nhanh hơn, con xin gửi kèm đây.

unnamed (83)
2. Đức Cha đang là Chủ Tịch Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng thuộc Hội Đồng Giám Mục VN. Đức Cha hiểu rõ Hội Thánh có quyền phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển, tổ chức Lễ hội, xây nhà, mua xe, du lịch…, nhưng việc ấy phải giới thiệu được Chúa. Việc gì không giới thiệu được Chúa, tuyệt đối dứt khoát Giáo Hội không được làm; nếu làm, phải thực tâm sám hối. Vậy mượn cớ thuyên chuyển – bổ nhiệm ngày 17.6.2020, để cắt lưỡi – bịt miệng – trói tay – buộc chân 2 LM Antôn Đặng Hữu Nam, Gioan Baotixita Nguyễn Đình Thục & cảnh báo tất cả các LM, Tu Sĩ, Giáo Dân khác…, mời gọi được mấy người CS & Lương Dân tìm gặp Chúa? Hay CS thêm vui thích, chê cười & coi khinh Giáo Hội? Con đủ kinh nghiệm thấy rất rõ 1 số CS gộc, sống khoa tâm lý ngược: Tôn giáo nào, chức sắc nào xum xoe, lấy lòng CS…, để tìm địa vị này, chức sắc nọ, đại biểu kia…, bề ngoài CS vui thích, lợi dụng, nhưng lòng khinh ghét. Trái lại, Tôn Giáo nào, Giáo Sĩ nào… cương trực, uy dũng, kiên vững giới thiệu Chúa, qua việc bảo vệ Sự Thật, Công Lý, Lẽ Phải, Tình Thương, Hòa Bình, bênh vực Dân yếu thế… bề ngoài CS đàn áp, bắt giam…, nhưng tận thâm tâm CS kính yêu, tâm phục, khát mong nghe Sự Thật, kín đáo thật tâm tìm học Chân Lý, Giáo Lý. Con đã tù 5 đợt hơn 22 năm, tuyệt thực # 10 đợt, mỗi đợt 15-20-36 ngày, công khai yêu cầu giải thể Bộ Chệt Trị & Đảng Việt Nô Cộng, không CB nào tìm ra lý do ghét con được, vẫn nhiều CB cao cấp bí mật xin con Tâm Kinh, Tân Ước, hứa cuối đời sẽ học Tin-Kính-Yêu Chúa, xin con Cầu Nguyện cho gia đình họ…
3. Trong Lời Chứng số 26, Chung Kết về Hội Thánh Công Giáo VN ngày 14-15.9.2018, có lẽ Đức Cha đã vứt bỏ, không đọc, con đã kính xin Hội Đồng Giám Mục VN, Các Chức Sắc tại chức & kế vị phải Lãnh Đạo Hội Thánh đúng sát Tin Mừng của Chúa Kitô Chịu Đóng Đinh. Hội Thánh mọi thời chỉ cần phải làm 1 việc cốt lõi nhất, gồm 2 nhịp: Lấy Đức Tin chiếu sáng giúp mọi người thấy rõ Cha Trời-Chúa Kitô-Mẹ Maria-Hội Thánh, rồi lấy Đức Ái mời đón mọi người vào Nhà Cha. Kết quả là đông Lương Dân gia nhập Công Giáo ngày càng tăng. Nếu không tăng, thì Giáo phận, Giáo xứ, Tu viện… ấy đã bị bệnh nặng, bệnh Đức Tin lạc – Đức Ái yếu, không đủ sức giới thiệu Chúa đúng !
4. Con cũng đã viết: Lịch sử 2000 năm qua của Hội Thánh đã chứng minh rất sáng rõ, chính xác khắp nơi toàn cầu Sự Thật-Chân Lý này: Giáo Hội mọi thời đều luôn có 4 loại người phải gặp gỡ:
– Giáo Hội thân thiết – gần gũi người có quyền, mọi người sẽ ghét Giáo Hội.
– Giáo Hội thân thiết – gần gũi người có tiền, mọi người sẽ khinh Giáo Hội.
– Giáo Hội thân thiết – gần gũi người có học, mọi người sẽ sợ Giáo Hội.
– Hội Thánh gần gũi, yêu thương, chăm sóc, quý trọng, phục vụ người yếu thế, nghèo khổ, bệnh tật, bất hạnh, cô đơn, ít học, bị đàn áp, khổ đau… cả 4 loại người sẽ đều thật tâm nhiệt tình kính yêu – ủng hộ Hội Thánh. Kết quả hiển nhiên là được đông Lương Dân gia nhập Công Giáo, Hội Thánh ngày càng phát triển nhanh & vững bền, vì đã đi đúng đường Chúa Kitô muốn & đã dạy rẩt rõ.
Than ôi! Từ 1975-2020, GHCGVN cứ mãi ở mức 6-7 triệu Kitô Hữu giữa gần 95 triệu Dân !!!
5. Dịp Đức GM Mic. Hoàng Đức Oanh qua Mỹ chữa bệnh, đã họp báo tại Nam California ngày 16.10.2019. Sau đó, Internet đưa tin VC đã dùng thuốc khai quang với GHCGVN: Diệt Sứ Vụ Bảo Vệ Công Lý – Lẽ Phải – Tình Thương – Hòa Bình của Giáo Hội CGVN, diệt hết khả năng nói lên Sự Thật, Chống Áp Bức và Chống Hủ Hóa xã hội, biến GHCGVN chỉ còn là 1 Hội Cầu Nguyện, thiếu hành động, không còn là Ngọn Đuốc Sáng Tinh Thần cho Xã Hội. Bị mất yếu tố Phát Triển là Giáo Dục, Bênh Vực Công Lý – Lẽ Phải – Hòa Bình, nên GHCG rất khó thăng tiến. Dần dần, GHCGVN không còn vai trò ưu tiên khẩn thiết nào nữa, trong 1 Đất Nước nô lệ & sa đọa mọi mặt !!!
6. Lúc Giặc Tàu Ác Cộng đang tăng tốc Cướp Nước, Toàn Dân mong đợi sức mạnh vốn có của Công Giáo, thì đa số lãnh đạo CG buông xuôi, không tập trung CỨU NƯỚC, vô cảm với Tổ Quốc, biện minh thế nào trước Lịch Sử Dân Tộc? Hôm nay Giám mục, Linh mục, Tu sĩ, Giáo dân nào né tránh, viện cớ, phớt lờ, nhắm mắt, thì rõ ràng ĐANG ĐỒNG LÕA HỢP TÁC BÁN NƯỚC, tăng sức cho giặc Tàu Ác Cộng Cướp Nước, dù đang giữ chức vụ gì, chắc chắn không xứng đáng lãnh đạo và làm Quốc Dân Việt! Nếu Toàn Dân Cứu Nước thành công, các Chức Sắc ấy ray rứt xấu hổ mãi, vì Nước Đang Mất, mà mình bỏ mặc Dân Tộc, hoàn toàn im lặng, dù một Lời Cầu Nguyện công khai cho Tổ Quốc đang nguy cũng không dám có, chỉ say mê xây cất, du lịch, xa xỉ, ăn nhà hàng! Nếu Toàn Dân Cứu Nước thất bại, các chức sắc ấy muôn đời khổ nhục, quá khổ tâm, bị Lịch Sử lên án là đã hợp tác Làm Mất Nước! Toàn Dân đều thấy rõ điều này, làm sao họ yêu kính Giáo Hội được!?!
7. Các Giáo Sĩ, LM, Tu Sĩ đều hứa không làm chính trị về Đảng phái, Lãnh đạo & Quản lý xã hội, là lãnh vực các Tôn Giáo không trách nhiệm. Còn Chính Trị Làm Người, bảo vệ Sự Thật, Công Lý, Lẽ Phải, Hòa Bình… thì mọi Tôn Giáo & tất cả Công Dân đều phải trách nhiệm, các LM càng phải nêu gương gánh trách nhiệm nặng hơn. Vì ranh ma gian xảo hoặc ngu dại, CS & 1 số Lãnh đạo TG cố ý xóa trộn 2 lãnh vực chính trị này, bóp hẹp vào chính trị đảng phái, lãnh đạo – quản lý xã hội, nên khi các LM hứa không làm chính trị, CS cố ý bóp hẹp, cho là đã cam kết làm chó câm suốt đời, chỉ ngoan lo Kinh Lễ, CS hoàn toàn nắm chắc là các LM không phê phán, tố cáo, lên án CS. VC cố ép các Chức sắc TG yếu bản lãnh, hiểu sai lạc, để siết thật chặt GHCGVN trong bàn tay sắt bọc nhung !
8. Khi gần như toàn bộ GHCGVN nhắm mắt buông xuôi trước Nước Mất Nhà Tan, Độc Tài Bán Nước…, chỉ có rất ít Giáo Sĩ, Tu Sĩ, Giáo Dân dám nói Sự Thật, bảo vệ Lẽ Phải, chống Áp Bức, chống Hán Hóa, chống duy vật vô thần, chống giặc Tàu Cộng cướp Nước… Lẽ ra các Vị Lãnh Đạo CG chân chính phải khôn ngoan kín đáo hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi giúp các Chiến Sĩ Công Lý chu toàn Sứ Mạng Ngôn Sứ thay cho cả Giáo Hội. Ngược lại, quá đau xót thay, Đức Cha lại cắt lưỡi – bịt miệng – trói tay – buộc chân các LM Chứng Nhân Công Lý – Sự Thật – Lẽ Phải – Tình Thương!
9. Từ thời ở ĐCV Huế 2003-2011-2013, Đức Cha đã lộ rõ quá khao khát làm GM, TGM, HY… Theo đúng ý của VC, từ 2019 – nay, đến bất cứ Nhà Thờ nào thuộc GP Vinh, Đức Cha luôn lặp đi lặp lại lệnh cấm các Giáo Sĩ nói về chính trị – xã hội. Dịp này, Internet tung ảnh Đức Cha quá tôn kính Trùm Đỏ Lai Châu thời 2019 & CS đưa tin Đức Cha muốn làm đại biểu QH khóa XV 2021-2026!
10. Con già, rất hư, yếu kém, dễ sai lầm, quá chậm, bị ngồi 1 chỗ, vẫn gắng góp sức giúp tăng thêm Kitô Hữu mới. Bộ Tâm Kinh Linh Đạo con ghi trong tù, 1 Bạn Lương đầu năm 2018 đưa lên Internet. Link tamkinhlinhdao.tk đến 24.6.2020, đã giúp 2.544 Bạn Lương VN làm Kitô Hữu, 53 Bạn đã về Nhà Cha Trời. Mỗi tuần đều tăng thêm Con Đức Mẹ Maria & Em Chúa Giêsu mới. Xin Đức Cha cầu nguyện cho 2.544 Bạn ấy. Kính mời Đức Cha Chủ Tịch Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng, cùng hăng say Loan Báo Tin Mừng, nhất là khi Đức Cha lên TGM, Hồng Y. Nguyện Cầu Đức Cha Loan Báo Tin Mừng hiệu lực, vượt xa con, chỉ là ông già tù hơn 22 năm, đang bị quản chế đợt 9 năm thứ 20, lom khom, khòm xẹp, mắt lòa, rụng 10 răng, dịch màng phổi, 3 lần tai biến mạch máu não, gan mỡ, đường máu cao, huyết áp rối loạn, 4 lần nhồi máu cơ tim, đặt 4 stents 3 động mạch vành…
* Kính cảm ơn Đức Cha đã khổ tâm đọc hết Tâm Thư này. Kính xin Đức Cha tha thứ các điều Tâm Thư làm Đức Cha buồn. Xin luôn Hy Sinh Hiệp Nguyện cho Hội Thánh, Tổ Quốc, Nhân Loại & con.
Nhà Hưu Dưỡng Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế, 24.6.2020.

​Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý
Huyết Lệ Tâm Thư Lm Nguyễn Văn Lý kính đệ trình ĐGM Anp.Nguyễn Hữu Long, GP Vinh – 24.6.2020

104690968_4225695294115098_1474318203895371490_n

206364057_496658701619531_7794712164035488550_n
(Hình chôm từ FB cha Nam Hoài Thạch Sơn)

Posted FB Azalea Vu June 29, 2021

NGƯỜI CÔNG GIÁO THỰC SỰ : CẦN QUAN TÂM CHÍNH TRỊ NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC PHÉP THEO CỘNG SẢN !

ĐGM Nguyễn Hữu Long không còn xứng đáng đứng trong hàng Giáo phẩm vì đang dần trở thành Cộng Sản chính hiệu rồi. Đúng là chó sói khoác áo lông cừu !

201904300_1756458941201772_8026968367064545936_n

Mong rằng đức cha hãy từ chức, rút lại quyết định bắt cha Nam về hưu vì cha ấy còn quá trẻ và không bệnh tật, rất cần được phục vụ ở một giáo xứ để có thể hướng dẫn con chiên sống đạo đúng nghĩa !

Người Công Giáo thực sự không bao giờ theo Cộng Sản ! (CGQ)

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

ĐỊA CHỦ ÁC GHÊ


Bài từ FB Lê Bình .

Nhân ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6, mời mọi người đọc lại bài báo bác viết
201973395_2912391039000568_7815199957244256627_n

Theo Tổng biên tập báo Nhân dân, Chủ tịch Hội Nhà báo VN Thuận Hữu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh nền báo chí cách mạng VN, là người thày, người anh của nhiều thế hệ nhà báo, đồng thời cũng là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận này, giương cao ngọn cờ chiến đấu của báo chí trên các chặng đường cách mạng, cho đến phút cuối đời.

Nhân ngày Báo chí cách mạng Việt Nam, gửi tới bạn bè thân hữu gần xa một trong những tác phẩm báo chí xuất sắc của bác, bài báo được đăng trên báo Nhân dân số ra ngày 21/7/1953

ĐỊA CHỦ ÁC GHÊ

Thánh hiền dạy rằng: “Vi phú bất nhân”. Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá – thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:

Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:

– Giết chết 14 nông dân.

– Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.

– Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người – năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.

– Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân – Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.

– Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.

Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào !

Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:

– Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột.

– Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.

– Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.

– Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.

– Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.

– Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến.

Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là:

Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng,

Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!

(21-7-1953)

C.B.

—————–

P/s: Đố mọi người C.B là cái chi?

Link bài :

https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=4739021819447203&id=100000182948994

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

BẮC KỲ CHÚNG ÔNG. MÀY BIẾT BỐ MÀY LÀ AI KHÔNG? (*)


Mai Thị Mùi

Con kính thưa ông bà, cha bác hải ngoại cũng như quốc nội, đồng bào trong ngoài vĩ tuyến!

Con sống ở Biên Hòa nhưng con sinh ở Nam Định, nhà con vẫn còn ăn canh cua, đậu phụ mắm tôm, con vẫn còn nói tiếng Bắc.

Sở dĩ phải cặn kẽ vậy để các chúng ông khỏi chửi con là phân biệt vùng miền. Và nhân đây con cũng xin có đôi lời cùng các chúng ông ngoài ngoải: dân Nam họ không nói không phải vì họ ngu mà vì thứ nhất họ mà mở mồm thì bị nói là phân biệt, hai là họ không thèm chấp cái loại man di mọi rợ của chúng ông, ba là vì họ quá hiền (Nếu không hiền thì xin lỗi, đéo có khái niệm Bắc 75 đâu ạ).

Và con cũng xin phép quý ông bà cha bác cho con lên tiếng vì chỉ có parky mới hiểu parky chứ con bảo đảm quý đồng bào trong vĩ tuyến ngàn đời không đọc được bụng parky đâu ạ.

Cái đm nhà nó, con chui từ ổ parky ra mà con cũng nhiều phen chết ngất với parky. Hôm nọ dọn nhà đón tết thì thấy dư cái đầu DVD. Tính con xưa giờ không bán đồ cũ hay ve chai nên chờ người cần để cho. Chờ lão “Tăng phô, quạt bàn, máy may, máy vi tính, bàn ủi…” đi ngang, thò đầu ra cửa sổ rất thẽ thọt “Anh ơi”. “Gì đấy?”. ĐM, cái thể loại không chủ ngữ vị ngữ là thấy thiếu thiện cảm rồi. Thôi, con là người ăn chay đồng bào ạ, nên con vẫn nhẹ nhàng mỉm cười thò cái đầu đĩa ra ngoài cửa sổ. Ôi giời ơi, đôi mắt hình tomahawk dưới vành mũ cối phóng thẳng vào con cùng cái đầu đĩa vô tội “Cái cục sắt này mà mua bán gì? Cái này chị có vứt đi thì vứt”. “Dạ không, chị không vứt, chị tặng em đấy em mũ cối ạ”. “Ơ thế à? Xin nhá”. Chừng như thấy hớ, cố vớt vát “Cái này lấy đi hộ chị thôi chứ đem về cũng vất đi thôi ý mà”.

Dạ, con xin phép làm nhà phân tách tâm lý như vầy: cái thói muốn dỡ nhà trên nhà người ta về làm nhà bếp nhà mình nên vừa vào ván chơi cú phủ đầu chê ỏng chê eo để bên bán hoảng, sau đó là chiêu ép giá. Thấy được ăn không nên thỏa mãn ra mặt. Tới hồi lộ cái mặt tham thì lại chống chế che đậy. Đồng bào tin con đi, con là parky nên con biết.

Con đi phát phiếu quà từ thiện gặp dân Nam họ chờ mình cho mới lấy, gặp các chúng ông hay chúng bà là thấy mẹ đứa phát luôn, nó lấy, nó xin, nó giật, nó lấy phần cho nội ngoại, ông cố ông sơ, xui gia ba đời nhà nó.

Con đi phát cơm Bệnh viện ung bướu Saigon gần chục năm nay chưa gặp phiền hà gì với dân Nam, nhưng hôm nào mà gặp chúng ông nón cối, khăn mặt giắt cổ là coi như hôm đó về truyền nước biển luôn. Đồng bào nào không tin bữa nào mang cơm tới cổng Nơ Trang Long làm cú vi hành coi nà. Mà con đéo hiểu sao da dẻ hồng hào, phương phi béo tốt, chân đi thoăn thoắt thế mà lần chó nào cũng phi thẳng vào vòng giữa tranh chỗ với những bệnh nhân thương tật đầy mình, giật cái hộp cơm thì con cũng đến lạy!

Nhưng vầy mới vui nè đồng bào, bữa nào mà giật được không sao, không được là mặt như loz trâu đến tháng đẻ, quay ra chửi cả xe cơm. Con thề! Đồng bào cứ vi hành 1 bữa đi, không vui con thối tiền.

Hơ hơ, có hôm không đủ người phát, có mỗi con với tài xế. Tài xế thì lo de xe kẻo Trật tự phường phạt. Mình con sao khiêng nổi cái thùng cơm 50 hộp. Anh mũ cối, áo may-ô bên trong sơ-mi đứng dưới gốc cây sứ rít thuốc. Con tươi cười nhờ anh giúp một tay ai ngờ anh giúp con tỉnh hẳn người “Việc của chị liên quan gì đến tôi?”. Hê hê, anh rạch ròi quá cơ. Còn dân Nam họ ngu bỏ mẹ ra, có lần mấy bệnh nhân thấy con bận rộn nên nhào vào phụ. Đến cuối buổi phần của họ cũng không còn. Con móc túi ra bù phần cơm họ cũng không lấy. Họ bảo có thì ăn không có thì thôi. Ơ, ngu gì mà ngu thế nhỉ!

Con thiệt không hiểu nổi đồng bào luôn. Mậu Thân nó kí hiệp ước đình chiến. Tết nhất nó cho khỉ đột (guerrila hay gorilla con cũng không rõ) nhấn Huế ngập trong biển m.áu. 1973 nó lật kèo Hiệp định Ba-lê. Sau 75 nó tr.uy sá.t miền Nam bằng các mỹ từ học tập cải tạo, kinh tế mới, tư sản mại bản, thương nghiệp, hợp tác xã, đổi tiền. Vậy mà giờ đồng bào còn giải cứu thì con không hiểu đồng bào ăn cái giống gì mà để nó leo lên đầu lên cổ hoài vậy?

Ăn mấy trái vải mà giờ nó chửi còn hơn ăn nhằm trái bom nữa. Ủa, mà bỏ tiền ra ăn chứ phải ăn xin đâu chời!

202221673_1142884839570692_6925210685799886716_n

Vậy nên con nói đồng bào không nên sập-rai (surprise) vì sau này các chúng ông ngoài ngoải còn chơi nhiều cú sập hầm nữa kìa. Nói thiệt, con vài chục tuổi đầu sao trải đời như đồng bào. Nhưng mỗi lần nghe các chúng ông nói gì con đều nhớ đến ông Thiệu.

Mai Thị Mùi

(*) Bài không tựa. CGQ Azalea mạn phép đặt tựa bài !

Categories
Sưu Tầm Việt Nam Uncategorized

Vĩnh Biệt Ca Nhạc Sĩ Trường Hải (1938 – 2021)


10694478_800722189987146_5916902305916380970_o-1-750x430

Theo thông tin nhận được từ MC Jimmy Nhật Hà cũng như gia đình thì Ca nhạc sĩ Trường Hải đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 5 giờ 5 phút sáng Thứ sáu hôm nay, ngày 11 tháng 6 năm 2021. Hưởng thọ 83 tuổi.

Ca nhạc sĩ Trường Hải tên thật là Tạ Trường Hải, sinh ngày 3/10/1938 tại Sóc Trăng, vào năm 18 tuổi thì ông lên Sài Gòn để dấn thân vào con đường văn nghệ. Ca sĩ Trường Hải đã đoạt giải nhì trong cuộc thi tuyển lựa ca sĩ vào năm 1961 của đài phát thanh Sài Gòn với ca khúc “Gặp nhau” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ. Và sau đó ông được yêu thích với các ca khúc do ông trình bày thành công như Hận Đồ Bàn, Tình Như Mây Khói, Tôi Đưa Em Sang Sông…

https://youtu.be/2ioIrK3mOc4

10304429_804218819637483_6301755494563420795_n

Nhạc sĩ Trường Hải cùng vợ chồng nhạc sĩ Xuân Tiên (Tác giả ca khúc Hận Đồ Bàn)

Ngoài ra ông cũng là nhạc sĩ sáng tác nhiều ca khúc quen thuộc nổi tiếng như : Những Chiều Không Có Em, Mimosa, Tình Ca Người Đi Biển, Nhịp đàn vui… Nhạc phẩm đầu tay của nhạc sĩ Trường Hải mang tên Còn Nhớ Tôi Không được ông viết để kỷ niệm tình bạn, tình lính cùng nhạc sĩ Thanh Sơn khi ông đang ở trong quân ngũ và phục vụ ban Văn Nghệ của Quân Vận, ca khúc này được ông bán tác quyền cho trung tâm phát hành Diên Hồng và thu về được $15.000. Được biết rằng ca khúc nổi tiếng Mười Năm Tái Ngộ của nhạc sĩ Thanh Sơn cũng được viết tặng cho người bạn cùng quê và cùng chí hướng là Trường Hải.

Ca khúc tiếp theo của nhạc sĩ Trường Hải là Những Chiều Không Có Em, được ông viết cho mối tình buồn năm 17 tuổi khi ông mới học đệ nhị. Bài hát này được ca sĩ Hùng Cường hát lần đầu và trở thành một hiện tượng, đưa tên tuổi nhạc sĩ Trường Hải đến gần hơn với công chúng yêu nhạc.

Đặc biệt, ông cũng là người thực hiện những cuốn băng nhạc Trường Hải Không Chủ Đề từ trước năm 1975, cũng như đã thực hiện những cuốn băng video đầu tiên tại hải ngoại từ đầu thập niên 1980.

Sau 1975, nhạc sĩ Trường Hải kẹt lại VN và mưu sinh bằng nghề buôn bán nhạc cụ và lưu diễn hát dạo ở các tỉnh miền tây. Thời gian này, tuy cuộc sống ở VN có đôi chút khó khăn nhưng nhạc sĩ Trường Hải vẫn thường tặng đàn guitar cho những người bạn thân hữu của mình. Năm 1979 nhạc sĩ Trường Hải rời Việt Nam đến Nam Dương và sau đó định cư tại Quận Cam năm 1980. Với đầu óc và tầm nhìn kinh doanh tinh tường, chưa đầy 1 năm sau khi sang đến Hoa Kỳ, nhạc sĩ Trường Hải liền lập trung tâm băng nhạc Trường Hải hải ngoại, được coi là trung tâm nhạc sớm nhất, và cũng là nơi đầu tiên sản xuất băng nhạc video tại hải ngoại với 2 cuốn băng mang tên Không 1 và 2 rất ăn khách.

Ban Quản Trị Nhạc Vàng xin thành tâm chia buồn cùng toàn thể gia quyến nhạc sĩ Trường Hải. Và xin cầu nguyện cho linh hồn Giuse Tạ Trường Hải sớm hưởng Thánh Nhan Chúa

Phúc Ben & Nhật Hà.

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

60 tấm ảnh màu đẹp lộng lẫy của biệt thự cổ Đà Lạt


Đọc/Xem hình tại link này :

Những tấm ảnh màu đẹp lộng lẫy của biệt thự cổ Đà Lạt

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

NHỚ NGÀY SONG THẤT 07-07-54 LÀ NGÀY HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI ĐƯA ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VỀ LÀM THỦ TƯỚNG


Phan Văn Khánh

23167564_921731381317493_2853761589963602064_n
Miền Nam VN Có Nền Kinh Tế Lớn Nhất Đông Nam Á Từ Năm 1957.

Khi TT Mỹ Dwight Eisenhower , PTT , Tổng Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk đưa phái đoàn ra tận máy bay để đón tiếp một Tổng Thống đầu tiên của VNCH , tháng 05-1957 , thì thế giới đã vô cứng ngạc nhiên về Con Rồng Á Châu này. Trong diễn vẫn chào mừng, TT Mỹ đã gọi TT Ngô Đình Diệm là ” Con người của Phép Lạ ” – A Miracle Man – .

TT Eisenhower đã mời TT TT Diệm lên xe cùng đi khắp thủ đô Washington DC .
Sau đó Quốc Hội Mỹ mời TT đầu tiên VNCH lên đọc diễn văn trước lưỡng viện quốc hội Mỹ .

Tiếp theo , Thống Đốc Tiêu Bang lớn nhất nước Mỹ New York mời TT Diệm bay lên NY — Lên xe ngồi chung TT Mỹ đi quanh New York City . Cac VIDEO chiêu lai canh hàng chục ngàn dân New York tuôn ra đường , với các banners và nhiều bông giấy trên cac Buildings , bong bóng chào đón TT đầu tiên VNCH.

Thủ đô SaiGon được thê gioi gọi là ” Hòn Ngọc Viễn Đông” . Kinh tế Miền Nam vượt lên hơn xa cả Nam Hàn, An Do , Singapore , Đài Loan, Indonesia , Ma Lai , ..v..v. . Người Việt đi ra nước ngoài được kính trọng
Những ai sống thời đó đều nhớ những hình ảnh thỉnh thoảng chính quyền đưa cả trăm tấn gạo qua cứu đói Thái Lan , lúc đó gọi là nước Xiêm La.
CAM00723.jpg

TT Ngô Đình Diệm được tất cả toàn quốc hội Miền Nam- VNCH – bỏ phiếu ngày 26 -10-1956 bầu ông lên làm TT đầu tiên của Miền Nam và miền Nam được đặt tên là VNCH . Quốc hội thông qua Hiến Pháp dựa trên ba nền tảng : Dân Quyền – Dân Tộc – Dân Sinh . Nền dân chủ mới bắt đầu tập đi nhưng với những bước chân vững chãi . Theo Hiến Pháp , Quốc hội VNCH ấn định từ nay cứ bốn năm một lần , sẽ tổ chức bầu cử công khai và dân chủ , Tổng Thống miền Nam sẽ hoàn toàn do người dân quyền định .

Quốc hội ấn định mỗi người chỉ được làm TT hai nhiệm kỳ mà thôi .
Trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên cho TT năm 1961 , ai muốn ra tranh cử đều được cả , không kể thường dân hay nhân viên chính phủ . Người dân Miền Nam lại một lần nữa – với hơn 75 % cử tri đi bỏ phiếu , đồng ý bầu tiếp cho ông Ngô Đình Diệm làm thêm TT nhiệm kỳ lần thứ hai , từ 1961- 1965 . ( PTT là ông Nguyen Ngoc Thơ ) .

TT Ngô Đình Diệm chưa hoàn tất nhiệm kỳ TT lân thứ hai vì ông đã bị giết chết trong đảo chánh tháng 11- 1963 .

Phan Văn Khánh
Westminster , California
07-07-2017

Source :
https://vuottuongluaweb.wordpress.com/2017/07/08/nho-ngay-song-that-07-07-54-la-ngay-hoang-de-bao-dai-dua-ong-ngo-dinh-diem-ve-lam-th-u-tuong/?fbclid=IwAR3AyL8zi1gMdn_RSa5oUtEryGi2VsLJiTXpk2p0bwY84hy7-MoA9nQOYI4

***

Đọc thêm => 

Cái Chết Của TT Ngô Đình Diệm: Một món nợ lịch sử

Đệ Nhất CH Sụp Đổ: Miền Nam Sụp Đổ

Chu Mỹ Dung
image

Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Vị sáng lập nền Cộng Hòa Việt Nam

I- Công Lao của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đối với Quốc Gia Việt Nam
Vì sao cái chết của TT Ngô Đình Diệm lại là một món nợ của lịch sử?
Vì đó là món nợ “quốc gia hưng vong” mà những kẻ giết người, những kẻ đã và còn đang thỏa mãn với hành động phi pháp này, cũng như những kẻ đã phỉ báng ông bằng những tội ác mà ông chưa từng bao giờ làm, phải nợ dân tộc Việt Nam một trang sử oan nghiệt: đó là vì mất ông mà quốc gia Việt Nam đã bị cộng sản thôn tính, dẫn đến con đường Bắc Thuộc Hán hóa như ngày hôm nay.
Một cách đơn giản những kẻ giết người họ phải nợ quốc gia dân tộc vì họ đã giết nguyên thủ quốc gia trong tình trạng đất nước đang dầu sôi lửa bỏng cần sự dìu dắt của ông.
Nói một cách khác những kẻ giết ông và những kẻ đã hả hê về cái tội ác này đã “chặt đầu Việt Nam”, theo như cách nói của bà Ngô Đình Nhu. Còn nói theo Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ thì “Thus, as the nine-year rule of Diem came to a bloody end, our complicity in his overthrow heightened our responsibilities and our commitment in an essentially leaderless Vietnam” . (Pentagon Papers viii). . Chín năm cầm quyền của Diệm chấm dứt trong máu, sự đồng lõa của chúng ta trong việc lật đổ ông ta đã làm tăng thêm trách nhiệm cũng như sự trói buộc của chúng ta vào trong một đất nước Việt Nam hoàn toàn không có lãnh đạo.
Hồi tưởng lại giai đoạn bi thảm đó, toà án nhân dân Phật Giáo Tranh Đấu gồm những nhà sư và các đội “Phật Tử Quyết Tử” đã đi khắp nơi và đã cuồng nhiệt gào thét các khẩu hiệu “Phật Giáo bị bách hại” “Đàn áp quý thầy” “Độc tài gia đình trị” “Mật vụ Nhu Diệm” “Diệm mà không Diệm”mà không cần phải đưa ra một bằng cớ nào cả. Chỉ cần nói có tội là đủ có tội!

Cụ thể người ta đã đấu tố chính quyền VNCH như sau: Hòa Thượng Hội Chủ Phật Giáo Thích Tịnh Khiết đã bị giết, hằng trăm Phật tử đã bị chính quyền dìm chết dưới sông Sài gòn, nhiều ni cô đã bị mổ bụng, và chùa Xá Lợi đã bị đốt cháy,các nhà sư đã bị ném từ trên các tầng lầu cao xuống vào đêm Thiết quân luật 20/8/1963 khi lực lượng quân đội của chính quyền Tổng Thống Diệm mở cuộc hành quân lục soát chùa Xá Lợi.

Thậm chí Phái Đoàn cũng đã tìm gặp được một số nhà sư lãnh đạo Phật Giáo và thanh niên phật tử mà theo những báo cáo trước đây mà phái đoàn đã nhận được rằng những người nầy đã bị chính quyền của Tổng Thống Diệm giết chết, nay hóa ra đó chỉ là những báo cáo khống, không đúng sự thật.” (Báo cáo của Đại Sứ Volio phái đoàn điều tra LiênHiệp Quốc)
Tóm lại, ông hoàn toàn vô tội, nhưng người ta đã giết ông và vu cho ông cái tội đó. Vì vậy nếu nói rằng chỉ có ở Miền Bắc mới có đấu tố mà Miền Nam không có, điều này xem ra không đúng.
Miền Nam cũng có đấu tố. Nguyên thủ quốc gia và Cố Vấn bị thảm sát ngày 2/11/1963, hai nạn nhân nữa đã bị hành quyết vào cùng một ngày 9/5/1964, các ông Phan Quang Đông và Ngô Đình Cẩn, một nạn nhân nữa cũng đang chờ đợi đem ra pháp trường xử bắn, ông Đặng Sĩ, và hàng ngàn những mảnh đời đã bị đào tận gốc trốc tận rễ nơi chốn lao tù vì can tội “tay sai” của cái chính quyền “Nhu Diệm dàn áp Phật Giáo” đó
Tuy nhiên, không bàn tay nào có thể che nổi mặt trời. Năm mươi năm đã trôi qua Tổng Thống Ngô Đình Diệm vẫn là Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà câu nói của TT Tưởng Giới Thạch “Một trăm năm nữa thì Việt Nam cũng không thể tìm được một người như Tổng Thống Ngô Đình Diệm” và câu nói của Tổng Thống Eisenhower “He’s a miracle man” là một hằng số không gì thay đổi được.
Nhân 50 năm ngày thác oan của Tổng Thống, xin được nhắc lại đôi dòng về ông

I- Thân thế, tiểu sử và nhân sinh quan của TT Ngô Đình Diệm:
Khi nói về TT Ngô Đình Diệm, nét điển hình mà người ta thấy được ở ông đó là một nhà nho trí thức nhưng lại theo tây học, dòng dõi quan quyền khoa bảng và một nhân cách liêm chính quân tử, một nhân vật chính trị thông minh kiệt xuất với tư tưởng chống cộng triệt để. Một cây trúc của quan niệm Á Đông
Cá nhân TT Ngô Đình Diệm là sự thể hiện đồng thời của cả ba triết lý Nho Giáo, Thiên Chúa Giáo và triết lý Đông Phương. Nền tảng Nho Giáo đã tạo cho cá nhân ông cách hành xử khắc kỹ, quân tử, Thiên Chúa Giáo đã đem đến cho ông đức bác ái, bao dung công chính, và triết lý văn minh phương tây đã đem đến cho ông kiến thức cấp tiến và cởi mở về tự do dân chủ. Và bao trùm lên tất cả các nền giáo dục Đông Tây mà ông đã được may mắn lãnh hội, đó là thượng đế đã ban cho ông tư chất thông minh và tấm lòng ái quốc yêu dân mãnh liệt
Nói về Tổng Thống Ngô Đình Diệm, có thể tóm tắt bằng câu nói của Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, cháu ngài, khi nói với cậu mình với đức khâm sứ Tòa Thánh như sau như sau: Cậu Diệm của con là một người hoàn hảo
Những tài liệu của chính thức của VNCH ghi rằng ông sinh ngày 3 tháng 1năm 1901 tại Phước Quả, Thừa Thiên. Nguồn tuyên truyền nói rằng ông sinh tại Quảng Bình năm 1897 vì là con của vợ thứ cụ Ngô Đình Khả, nhưng không cho biết vợ thứ là ai, và sinh trước ĐGM Ngô Đình Thục. Nguồn tuyên truyền này có quá nhiều điểm vô lý. Trên thực tế Đức Giám Mục Ngô Đình Thục trông già dặn hơn TT Ngô Đình Diệm rất nhiều. Tóm lại qua sự việc về ngày sinh của ông, cho thấy người ta đã không từ nan bất cứ những gì để bôi nhọ ông
Là con trai thứ 4 trong một gia đình có truyền thống chính trị, nổi tiếng về lòng yêu nước và chống cộng triệt: ông anh cả Ngô Đình Khôi tổng đốc Quảng Nam và con là Ngô Đình Huân cả hai đã bị cộng sản giết, Ngô Đình Luyện đại sứ VNCH tại Anh, Ngô Đình Cẩn linh hồn thực sự của lực lượng tình báo Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung. Trong gia đình, Tổng thống Ngô Đình Diệm là người con tài ba đức độ nhất của Đại Thần Ngô Đình Khả. Ngoài thân phụ ra, ông còn chịu ảnh hưởng bởi dưỡng phụ Nguyễn Hữu Bài cũng là một nhà Nho ái quốc, đức độ uyên bác Đông Tây như cụ Ngô Đình Khả
TT Ngô Đình Diệm tư chất rất thông minh: 16 tuổi đổ nhì Thành Chung, 17 tuổi được mời dạy Quốc Tử Giám và 18 tuổi vào học trường Hậu Bổ ( tương đương với Quốc Gia Hanh Chánh) năm 21 đổ thủ khoa. Ông đặc biệt xuất sắc trong các môn học về hành chánh, luật pháp và chính trị . Ngay sau tốt nghiệp, ông được bổ nhiệm làm tri huyện Quảng Điền Huế, Hải Lăng Quảng Trị. Bảy năm sau, 29 tuổi, ông được bổ làm Tuần Phủ Ninh Thuận và Bình Thuận, tức là tỉnh trưởng. Dưới sự lãnh đạo của ông, Ninh Thuận và Bình Thuận có đời sống kinh tế khả quan, có chiến lược cụ thể đối phó với sự tuyên truyền của cộng sản và phá vỡ nhiều mạng lưới nằm vùng. Uy tín này lan đến triều đình cho nên năm 31 tuổi ông được mời làm thượng thư Bộ Lại, tương đương với chức Thủ Tướng Chính Phủ. Năm 33 tuổi ông được mời kiêm nhiệm chức vụ Tổng Thư Ký hội đồng Hỗn Hợp Việt Pháp.
-Với chức vụ quan trọng bậc nhất quốc gia này, ông đòi hỏi nhiều quyền lợi cho đất nước. Ông yêu cầu người Pháp thực thi việc thống nhất đất nước bằng việc sát nhập Trung Kỳ và Bắc Kỳ , thực hiện dân chủ bằng cách cho phép Viện Dân Biểu được lo những vấn đề quốc sự giống như Quốc Hội. Nhưng đề nghị của ông không được Toàn Quyền Pasquier chấp thuận. Thấy việc tham chính của mình không thể đem lại lợi ích cho đất nước, ông xin từ chức Thượng Thư, chọn con đường làm thường dân để phục vụ đất nước theo cách riêng của ông, năm đó ông chỉ 33 tuổi.

Hành động từ quan này làm chấn động Triều Đình Huế và Chính Phủ Pháp. Điều này chứng minh rằng ngay khi còn rất trẻ, ông đã là người không hề màng danh lợi. Nó cũng bẽ gãy luận điệu của những kẻ bất tài không được ông sử dụng đem lòng oán hận luôn rêu rao rằng ông độc tài tham quyền cố vị. Với tiết tháo xem thường danh lợi như vậy, những ai đến bây giờ còn cho rằng Tổng Thống là một người độc tài gia đình trị thì rõ ràng họ chỉ là những kẻ vu khống và muốn sửa đổi lịch sử, nhưng tiếc rằng họ chẳng bao giờ có khả năng làm điều đó.
Thâm tâm ông, con đường phục vụ quốc gia qua chức vụ Thượng Thư Bộ Lại không thể thực hiện được nên ông đã quyết định chọn con đường khác, đó là từ chức để có thì giờ học hỏi về chính trị luật pháp xã hội và cũng để kín đáo hoạt động chống Pháp. Trong 17 năm ở ẩn, ông đọc rất nhiều sách vở về chính trị phương tây, về cộng sản chủ nghĩa về các phong trào đòi độc lập. Song song với việc nghiên cứu chính trị, ông liên kết với các nhà cách mạng có uy tín khác như Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cụ Phan Bội Châu trong phong trào Cường Để, ông cũng là đại diện chính thức của Kỳ Ngoại Hầu tại Việt Nam.

Ông đã từng nóingười Pháp chỉ là giai đoạn và sớm muộn gì Pháp cũng phải trao trả độc lập cho Việt Nam, mà cộng sản mới là nguy cơ trầm trọng và dài hạn. Tuy nhiên nếu giữ được Nam Kỳ là giữ được nước”. Theo ông, nếu Miền Nam lọt vào tay cộng sản thì cuối cùng sẽ lọt vào tay Trung Cộng. Chúng ta cũng hiểu một cách đơn giản : Nếu mất Nam Kỳ vào tay cộng sản là mất nước. Khi rời Dinh Độc Lập vì bị bọn phản tướng làm lọan, ông đã nói câu cuối cùng” Như ri là mất nước rồi!”. Điều này đã diễn ra đúng như lời nhận xét của ông 11 năm sau đó!
Có quá nhiều điều ông phát biểu từ mấy chục năm trước đã trở thành hiện thực. Người ta ca ngợi ông là người có viễn kiến chính trị, điều này theo chúng tôi chưa chính xác lắm. Ông không phải là một nhà tiên tri chính trị mà thực sự ông là một nhà toán học chính trị, tính toán chính xác đường bay quỹ đạo chính trị thuộc về chiến lược. Ông có sở học sâu sắc và một năng khiếu đặc biệt về chính trị cộng với tư chất thông minh đã làm ông trở thành người thấy xa trông rộng, một yếu tố không thể thiếu của lãnh đạo quốc gia
Pháp đánh giá được tiềm năng và tâm huyết của ông, vì vậy cuộc sống ẩn dật ngụy trang cho các hoạt động bí mật của ông không làm sao qua được tầm theo dõi của Pháp. Toàn Quyền Đông Dương Jean Decoux ra lệnh bắt ông đi đày ở Lào, ông được mật báo và trốn vào Sài Gòn. Một thời gian sau, ông bị Hồ Chí Minh bắt sau đó ông lại may mắn thoát khỏi bàn tay của y. Ông sang Nhật gặp Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, tại đây, Kỳ Ngoại Hầu khuyên ông sang Mỹ để tìm sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, mà không thể trông cậy vào Nhật hay chờ đợi gì từ Pháp.

Sang Mỹ, qua sự giới thiệu của Hồng Y Spellnam, ông được sự tiếp xúc và đánh giá cao của một số chính trị gia Hoa Kỳ, thẩm phán Tối Cao Pháp Viện William Douglas dân biểu Kennedy, Mike Mansfield v,v Ông tham gia diễn thuyết về các vấn đề Việt Nam, Châu Á và hiểm họa cộng sản tại một số các trường Đại Học. Một số nhân vật trong quốc hội và chính quyền Hoa Kỳ đã chú ý đến ông, nhưng chưa bao giờ chính quyền Hoa Kỳ quyết định chọn ông làm một con bài chính trị. Giả thuyết cho rằng nhờ sự vận động của Hồng Y Spellman cho nên ông được chính giới Hoa Kỳ đưa về làm Thủ Tướng là một giả thuyết không đứng vững. Theo luật pháp Hoa Kỳ Hồng Y Spellman không có quyền và trên thực tế ông cũng không có khả năng can thiệp vào chính quyền Hoa Kỳ. Và nếu như được chính quyền Hoa Kỳ ủng hộ, thì những năm sau đó Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã không phải nản lòng rời Hoa Kỳ bôn ba sang Châu Âu tìm kiếm sự hổ trợ khác
Tình hình Miền Nam trước khi TT NĐD về nước rất tuyệt vọng. Cựu hoàng Bảo Đại trong cuốn hồi ký đã xác nhận yêu cầu ông về lập chính quyền, ông từ chối và thưa rằng sau bao năm bôn ba, giờ đây ông muốn trải cuộc đời còn lại trong một tu viện dòng kín. Cựu Hoàng Bảo Đại lộ vẻ tức giận và dẫn ông vào một căn phòng vắng, đưa cho ông một cây thánh giá và nói rằng “ Đây Chúa của ông đây, ông hãy thề trước mặt chúa là gìn giữ đất nước Việt Nam, ông phải bảo vệ nó để chống lại cộng sản, nếu cần phải chống cả người Pháp. Cầu nguyện hồi lâu một mình trong phòng kín, ông trở ra nói với cựu hoàng là ông nhận lời

Vì không đành tâm đứng nhìn đất nước rơi vào tay cộng sản, TT Ngô Đình Diệm nhận đã nhận lời. Để có thể chu toàn nhiệm vụ, ông đã yêu cầu cựu hoàng phải giao cho ông toàn quyền về quân sự lẫn dân sự để lèo lái đất nước. Trên thực tế, lúc đó Cựu Hoàng đã hoàn toàn không hề có binh quyền hay chính quyền gì cả để giao cho ông. Có chăng cựu hoàng đã giao cho TT Ngô Đình Diệm một Miền Nam đầy tham nhũng bài bạc đĩ điếm và thuốc phiện ma túy và những tay anh chị khét tiếng như Bảy Viễn, Nguyễn Văn Hinh, và giao cho ông sứ mạng nặng nề và nguy hiểm nhất đó chống lại bóng đen của khối cộng sản đang có sức mạnh khổng lồ về quân sự và tiền bạc để nuốt chửng Miền Nam
Miền Nam lúc đó, không có tổ chức quân sự cũng như kinh tế nào khả dĩ có thể đối đầu với đảng cộng sản đã có trên 24 năm kinh nghiệm, sẳn sàng sử dụng những thủ đoạn chính trị vô cùng tàn bạo nhất và sau lưng là nguồn viện trợ vũ khí tiền bạc dồi dào từ khối cộng sản Đông Âu, Liên Xô và quan trọng nhất là Mao Trạch Đông. Trong khi đó thì chí sĩ Ngô Đình Diệm chỉ có một mình ông và người em đang sống tại Việt Nam là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, đang cố gắng hết sức lực của mình để kiếm nguồn ủng hộ cho anh mình trong nước. Vì lý do đó cho nên chính quyền Hoa Kỳ đã không muốn phiêu lưu uy tín của họ để ủng hộ Thượng Thư Ngô Đình Diệm, mặc dù chính phủ Pháp lúc đó đang hết sức kiệt quệ, một điều kiện tốt cho Hoa Kỳ đang muốn thay thế Pháp có mặt tại Đông Dương .

Tóm lại, về thân thế sự nghiệp, tổng thống Ngô Đình Diệm trước khi về nước đã từng là một vị thượng thư trẻ tuổi không màng danh lợi, quyết tâm chống Pháp và chống cộng tới cùng. Và ông đã nhận lời cựu hoàng Bảo Đại để gìn giữ một quốc gia đang đứng trên bờ vực thẳm chờ cộng sản thâu tóm. Binh quyền không có mà chính quyền cũng không có, ông một thân một mình về nước đảm nhận sứ mệnh mà chỉ có một người ái quốc mãnh liệt mới dám an bài số phận bấp bênh đó cho mình. Do đó, lập luận cho rằng TT Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh là do sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ qua bàn tay của Hồng Y Spellman chỉ là sự dèm pha để phủ nhận tài năng của ông.
Người đã cậy nhờ chí sĩ Ngô Đình Diệm nắm lấy chức vụ thủ tướng không ai khác ngoài cựu hoàng Bảo Đại, như ông đã tự xác nhận trong cuốn sách “ Con rồng Việt Nam”. Và chỉ có vậy!
Đó là sự thật lịch sử mà không ai có thể chứng minh khác được!

II- Hoàn cảnh đất nước khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm về chấp chính:
Muốn đánh giá công hay tội của một vị lãnh đạo quốc gia, lịch sử phải xem xét gia tài mà vị lãnh đạo đó tiếp nhận trước khi điều hành đất nước, và so sánh với những đất nước có được sau khi họ rời chức vụ. Thế nhưng, đối với tổng thống Ngô Đình Diệm, những kẻ chê bai hay kết tội ông đều không bao giờ dám đề cập đến hoàn cảnh của Miền Nam vào thời điểm 1954.
Tại sao họ không dám đề cập? Bởi vì khi về nước, binh quyền mà ông có được là 12 người cảnh sát thay phiên nhau canh giữ dinh Gia Long. Miền Nam lúc đó hoàn toàn không có quan hệ lãnh đạo, mà chỉ có nạn thập nhị sứ quân. Đó là một con rắn không đầu, mỗi người thống trị một lãnh vực và khu vực. Tất cả những khuôn mặt nổi bật bấy giờ như Bảy Viễn, Ba Cụt, Lại Văn Sang, Nguyễn văn Hinh và các giáo phái v.v mỗi người hùng cứ một phương và thủ đắc các phương tiện kiếm chác tài chánh riêng cho mình, không ai chấp nhận từ bỏ quyền lực để phục vụ cho quốc gia dưới sự điều động của một chính phủ trung ương. Quân sự, kinh tế, ngoại giao, tài chánh, hối đoái, quan thuế đều thuộc quyền của Pháp và các tay sai Pháp, trong lúc đó thì Việt Cộng nằm vùng được cài đặt tràn đìa. Tổng Thống chỉ có quyền với 12 người cảnh sát gác dinh Gia Long và một ngân khố quốc gia trống rỗng, bên cạnh đó là một Miền Nam mà hạ tầng cơ sở bị phá hủy vì chiến tranh tàn phá nặng nề toàn bộ ruộng đồng bỏ hoang, thất học và thất nghiệp tràn lan, tham nhũng cờ bạc đĩ điếm, thuốc phiện và nguy hiểm nhất là mạng lưới cộng sản rất mạnh, đang được sự viện trợ của Tàu và Liên Xô từ lâu, đã và đang phát triễn dày đặc khắp đất nước. Bên cạnh đó là gánh nặng ngàn cân về an ninh chính trị và xã hội của một triệu người mới di cư từ Bắc vào Nam tháng 8 năm 1954.
Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho ông lúc bấy giờ là một nhân viên CIA Mỹ cố giúp ông để chiêu dụ những người đang nằm trong các phe phái khác, Đại Tá Edward Lansdale
Một cách ngắn gọn, Ông không có bất cứ một quốc gia đồng minh nào có thể nương nhờ khi ông về nước, trong khi đó cộng sản Hà Nội có cả một nguồn viện trợ khổng lồ từ Liên Xô, Đông Âu và đặc biệt là Trung Cộng và đã hoạt động từ năm 1930. Ông ngay cả cũng không có được một đảng phái hay một tổ chức quốc gia quan trọng nào làm hậu thuẫn, và tài chánh thì quá eo hẹp, trong khi đó thì ông lại có quá nhiều kẻ thù: Pháp và tay sai, các Giáo Phái và Bình Xuyên, mà nguy hiểm nhất là cộng sản. Một số các chính trị gia khác đồng ý hổ trợ cho ông vì lúc đó thật sự mà nói chẳng ai dám dấn thân lãnh nhận một tài sản quốc gia thảm thương như thế. Nhưng ông đã chấp thuận, vì chỉ một lẽ duy nhất: ông yêu nước!

III- Những thành tựu TT Ngô Đình Diệm đã đem lại cho đất nước
Sau 11 tháng cầm quyền trong sóng gió Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ổn định tình hình chính trị tuyệt vọng của Miền Nam nhờ vào uy tín và lòng can trường của ông. Sau 11 tháng theo dõi khả năng và những thành tựu của ông, chính phủ Eisenhower không còn thấy mình phiêu lưu khi hổ trợ cho Ngô Đình Diệm nữa, mới chính thức quyết định hổ trợ cho ông
Một số bài viết và dư luận cho rằng Mỹ đã hổ trợ và viện trợ rất nhiều cho TT Ngô Đình Diệm ngay khi ông về nước, nhờ vậy ông mới làm nên cơm cháo. Điều này hoàn toàn không đúng. Căn cứ vào các sự kiện lịch sử xảy ra lúc bấy giờ và căn cứ vào các tài liệu được giải mã cách đây hơn 15 năm thì quả thật số viện trợ cho TT Ngô Đình Diệm khi ông về nước trong 11 tháng đầu tiên hầu như chỉ là con số không. Nổi bật chỉ có sự tiếp xúc và vận động kín đáo của Đại Tá Edward Lansdale với các phe nhóm chính trị như Cao Đài Hòa Hảo để thuyết phục họ ủng hộ TT Ngô Đình Diệm v.v.
Xin dẫn chứng sự yểm trợ yếu ớt và đầy nghi ngờ của Hoa Kỳ cho chính phủ TT Ngô Đình Diệm giai đoạn 1954-1955 như sau:
Cứ hai lần mỗi tháng, Joe Lawton Collin, bạn thân tổng thống Eisenhower, và là đặc sứ của ông tại Sài Gòn, đề nghị tổng thống Eisenhower phải loại bỏ Diệm và thay thế bằng Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ. Còn người Pháp thì khỏi nói, họ xem TT Ngô Đình Diệm là kẻ thù của họ. Hãy nghe tướng Pháp Paul Ely đại diện tối cao của Pháp phá đám với người Mỹ như sau:”Ông ta chỉ là tên bù nhìn tệ hại nhất không được nhân dân ủng hộ. Cho nên vì lợi ích của Việt Nam và lợi ích của thế giới, không nên cứu Diệm”. Chính phủ Hoa Kỳ có lúc đã tin rằng chính phủ Ngô Đình Diêm sẽ không tồn tại quá sáu tháng và vì vậy họ chỉ viện trợ rất cầm chừng với thái độ chờ xem, và thậm chí đã có những chỉ dấu loại bỏ ông, như Collin đã ngày đêm thuyết phục tổng thống Eisenhower và tổng thống Eisenhower đã sắp sửa nghe lời Collin. Bất thần, trong tình huống tuyệt vọng đó, đầu tháng 5 năm 1955, tổng thống Ngô Đình Diệm với lòng can đảm và sự sáng suốt, ông đã lật ngược thế cờ, triệt hạ những tên trùm Bảy Viễn, Lại Văn Sang, Nguyễn Văn Hinh, thu phục được sự ủng hộ của Cao Đài Hòa Hảo và các tướng như Trịnh Minh Thế. Với sự thành công tuyệt vời này, Hoa Kỳ từ đó mới dám thở phào viện trợ cho chính phủ TT Ngô Đình Diệm, triệu hồi Lawton Collin về nước.

Có thể tóm tắt công lao của tổng thống Ngô Đình Diệm trong việc tái thiết và ổn định Miền Nam qua lời nhận xét của một vĩ nhân thế giới, Tổng Thống Eisenhower như sau: He is a miracle man.
Không thần kỳ sao được khi từ một quốc gia bị sáu vấn nạn: một là là chiến tranh tàn phá từ 1945 đến 1954, hai là vấn nạn chia rẽ ly tán thập nhị xứ quân, ba là vấn đề giáo dục cộng đồng quá thấp, bốn là tệ nạn xã hội đen tràn lan đến độ lấn lướt cả chính quyền, năm là thực dân Pháp và tay sai người Việt vẫn nắm quyền lực chính về kinh tế và quân sự, sáu là, và nguy hiểm nhất là, phải đối đầu với khối cộng sản thế giới, ông đã làm cho Miền Nam trở thành Hòn ngọc Viễn Đông!
Ai có thể phản bác lại lời của Tổng Thống Eisenhower rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm không phải là một miracle man, một con người của huyền thoại?

Vài nét chính về những thành tựu trong việc tái thiết xứ sở dưới sự cầm quyền của TT Ngô Đình Diệm:

1/Cuộc di cư vĩ đại trong lịch sử của dân tộc Việt Nam năm 1954
Đây là một thành tích vĩ đại của Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà không ai có thể phủ nhận. Lịch sử Việt Nam sẽ ghi nhớ công ơn của TT Ngô Đình Diệm
Đáp máy bay về nước ngày 26 tháng 6 năm 1954, ngày 30 tháng 6 ông bay ra Hà Nội để xem xét dân tình, ngày 20 tháng 7 năm 1954 Pháp và Bắc Việt ký hiệp ước chia đất nước Việt Nam, tổng thống Ngô Đình Diệm tuyệt vọng bay ra Hà Nội ngày 3 tháng 8, đọc một bài diễn văn kêu gọi dân chúng theo ông di cư vào Nam xây dựng đất nước tự do, và khoảng một triệu người đã nghe ông theo ông vào Nam với sự trợ giúp bằng không vận và đường hàng hải của Hoa Kỳ, Pháp, Thụy Sĩ v.v
Ngày 4 tháng 8 cuộc di cư chính thức bắt đầu. Trong lúc chính quyền đang còn rất mong manh, bị sự chống đối và hoành hành của Bình Xuyên Bảy Viễn, Nguyễn Văn Hinh, Tổng Thống đã lập Phủ Tổng Ủy Di Cư đảm nhận việc tiếp thu gần một triệu đồng bào Miền Bắc vào Nam. Lo ổn định đời sống cho khoảng một triệu người ồ ạt di cư vào Nam trong một thời gian chỉ hơn một tháng và gìn giữ cho đời sống vật chất an ninh xã hội tại Miền Nam không bị rối loạn phải nói là một công việc quá phi thường vượt quá sức của một chính phủ còn quá non trẻ, không tiền, trên nền tảng của một quốc gia bị chiến tranh tàn phá, chia rẽ, tệ nạn xã hội và cộng sản hoành hành.

Hãy so sánh tất cả các cuộc di cư, nhập cư và tị nạn của tất cả các quốc gia trên thế giới đê thấy rằng chưa có một vị nguyên thủy quốc gia nào có khả nặng làm việc như Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Ông gìn giữ xã hội Miền Nam không bị rối loạn vì số lượng di dân quá bất thần và quá lớn, cung cấp những dịch vụ cần thiết như nhà ở thực phẩm y tế thuốc men, giáo dục cho một triệu người và nhanh chóng ổn định đời sống họ trong vòng vài tháng. Ai có thể phủ nhận được nỗ lực kinh khủng và khả năng tổ chức hiếm có, sử dụng, và theo dõi đồng tiền viện trợ một cách hữu hiệu, và đặc biệt là sự cần kiệm của chính phủ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trong vấn đề định cư một số quá lớn người như thế? Điều gì đã làm cho ông can đảm đứng ra lãnh nhận gánh nặng to lớn này và đã hoàn thành tốt đẹp công tác định cư cho cả triệu đồng bào trong tình thế bấp bênh của chính quyền và đất nước như thế? Không gì khác hơnđó chính là lòng yêu nước thương dân vô hạn và sự can đảm thông minh phi thường của ông!

2/Giáo dục và y tế:
Trong khi ở Miền Bắc, giáo dục rất thiếu sót chương trình trung học chỉ có 10 năm, và đội ngũ khoa học kỹ thuật của họ rất tồi tệ, thì ở Miền Nam Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có những điểm sáng chói như sau: Chương trình trung học ở Miền Nam đúng theo tiêu chuẩn quốc tế là 12 năm. Chương trình đại học cũng có chất lượng của các nước phương tây. Xin được dẫn chứng vài vì dụ:
Chương trình mở mang giáo dục dưới thời TT Ngô Đình Diệm đem lại số học sinh và số trường trung học tiểu học tăng vọt hàng năm với tốc độ khoảng 60% 70%. Từ năm 1957 đến 1961, số học sinh và trường học tăng lên gấp 4. Ông cũng cho thành lập rất nhiều các trường dạy nghề. Về giáo dục đại học, tổng số sinh viên tăng trong vòng 3 năm là 60% vào năm 1957. Đại Học công lập Huế và đại học tư thục Đà Lạt được mở ra dưới thời của TT Diệm theo sau là Viện Đại học Sài Gòn The University of Saigon, là một viện đại học công lập, được thành lập vào năm 1957 dưới chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đây là viện đại học được xem là có uy tín nhất ở Miền Nam Việt Nam, cung cấp các giáo sư đi thỉnh giảng ở các viện đại học khác. Viện đại học này cấp bằng cử nhân, thạc sĩ, và tiến sĩ. Năm 1961 ông cho thành lập Đại Học Y Khoa Huế. Số sinh viên chỉ trong vòng 3 năm sau khi ông về nước chấp chánh đã tăng lên gấp 4 lần đồng thời chính phủ cũng có chương trình cấp học bổng cho sinh viên du học ở các nước tiên tiến phục vụ mục tiêu Việt Nam hóa đội ngũ giáo sư đại học với tiêu chuẩn quốc tế. Trường Đại Học Y Khoa là một dẫn chứng cụ thể rằng Tổng Thống coi trọng quốc thể, vào năm 1961 trường này đã hoàn toàn không còn giảng viên người Pháp. Xin được lập lại, chỉ sau 5 năm cầm quyền, ông đã xây dựng được một trường hệ thống Đại Học mà các nước trong vùng phải kính nể. Ông đã chứng minh cho thế giới thấy người Việt Nam hoàn toàn không thua bất cứ một dân tộc nào trên thế giới. Nhiều bệnh viện nổi tiếng chẳng hạn bệnh viện Bình Dân cũng được thành lập để phục vụ nhu cầu chữa bệnh cho dân chúng và giảng dạy y khoa.

3/Kinh Tế:
Nhờ kiến thức sâu rộng về chính trị, bản chất thông minh, trọng của công, cần kiệm và rất cẩn trọng trong việc sử dụng tiền viện trợ, ông đã lèo lái đất nước đưa đến bến bờ của sự thanh bình thịnh vượng và nhân quyền. Qua chương trình CIP ( Comercial Import Program), mỗi năm ông nhận viện trợ kinh tế của Hoa Kỳ là 322 triệu năm 1955, và nhờ việc sử dụng hiệu quả và chính xác, viện trợ Mỹ đã tăng lên 450 triệu Mỹ Kim sau đó. Với sự trợ giúp này, ông lại nhanh chóng biến Miền Nam thành một hòn ngọc viễn đông trong một thời gian kỷ lục là ba năm, đến nỗi tổng thống Eishenhower đã đón ông với 21 phát súng đại bác. Xin được cụ thể hóa vài thành tựu nổi bật về kinh tế của ông như sau:

1.Toàn bộ hệ thống giao thông thủy bộ và đường xe lửa xuyên Việt được tái thiết lại, phục vụ nhu cầu thương mại và sản xuất và nông nghiệp. Chương trình cải cách ruộng đất và khuyến nông đã biến những thửa ruộng và đồn điền bỏ hoang thành những cánh đồng phì nhiêu và đồn điền trù phú, làm đem lại số gạo và cao su xuất cảng tăng vọt. Đơn cử là chỉ mới năm 1957 mà số gạo sản xuất là 3 triệu tấn, chăn nuôi heo gà vịt phát triễn mạnh và đã xuất cảng được một số lượng đáng kể hàng năm.

2.Điều quan trọng đáng nói là dù Miền Nam căn bản là một quốc gia nông nghiệp, ông vẫn quyết tâm biến Miền Nam trở thành một quốc gia kỹ nghệ. Giai đoạn này chúng ta thấy Miền Nam đã có những nhà máy ván ép, nhà máy giấy, nhà máy dệt, nhà máy xà bông, viện bào chế dược phẩm v.v. TT thống Ngô Đình Diệm là con người thấy xa trông rộng và rất chu đáo trong tất cả mọi kế hoạch phát triễn quốc gia. Chương trình mở mang và nâng cao chất lượng giáo dục song song với phát triễn kinh tế là một dự án đồng bộ và hoàn chỉnh nhằm chuẩn bị tài nguyên con người để thực hiện việc kỹ nghệ hóa Miền Nam. Các trường đại học và các trường dạy nghề đào tạo công nhân và chuyên viên kỹ thuật ở mọi mọi lãnh vực từ hành chánh đến khoa học đến kỹ thuật để có thể đáp ứng nhu cầu kỹ nghệ hóa đất nước. Trung tâm nguyên tử Đà Lạt và đập Đa Nhim cộng với 2 kế hoạch ngũ niên 1957 đến 1961, 1962-1967 và chương trình đẩy mạnh mở mang giáo dục là một bằng chứng về một kế hoạch phát triễn rất hợp lý và đồng bộ của tổng thống để có đủ tài nguyên vật chất và tài nguyên con người cho một quốc gia kỹ nghệ. Nếu tổng thống còn sống, thì chắn chắn Miền Nam còn tiến xa hơn Nam Hàn gấp bội, một Nhật Bản thứ hai cũng không phải là điều nói quá, vì ông và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cụ Phan Bội Châu là người đã sống ở Nhật hiểu biết về Nhật. Tuy không tin tưởng và cũng không hợp tác với chính phủ Nhật, nhưng ông rất ngưỡng mộ thể chế chính trị, sự phát triễn kinh tế khoa học của Nhật. Khuôn mẫu chính trị và sự tiến bộ của Nhật Bản là điều TT Ngô Đình Diệm muốn Việt Nam đạt được.

4/ Quân sự và nội chính:
Ông hết sức quan tâm đến vấn đề nội chính và quốc phòng. Để đối đầu với cộng sản, ông phân chia Miền Nam thành 4 vùng chiến thuật, không ngừng canh tân quân đội và Việt Nam hóa quân đội và đào tạo các chuyên viên hành chánh cao cấp của quốc gia. Ông hết sức chú tâm đào tạo một thế hệ sĩ quan trẻ có tiêu chuẩn ngang với quốc tế để thay thế hàng ngũ sĩ quan được Pháp đào tạo. Sự cải tổ sâu rộng và đầu tư hai trường quân sự lớn hàng đầu Đông Nam Á và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh là những ví dụ cụ thể.

– Học Viện Quốc Gia Hành Chánh:
Xuất thân là khôi nguyên trường Hậu Bổ, tức trường dạy về chính trị luật pháp và hành chánh, Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi chấp chánh, ông đã hết sức coi trọng công việc nội chính quốc gia. Ông bắt tay cải tổ trường QGHC mà trước đây đặt ở Đà Lạt và trực thuộc bộ Giáo Dục. 1954, ông cho dời trường về Sài Gòn và đặt học viện này dưới sự đào tạo và giám sát của Phủ Thủ Tướng sau đó thuộc phủ Tổng Thống, tức trực thuộc sư chăm sóc của ông
Chương trình học của học viện này do Michigan State University (MSU) trợ giúp trong việc soạn giáo trình. Kho sách của trường được coi là một trong những thư viện lớn nhất của Việt Nam Cộng hòa. Sinh Viên cũng được huấn luyện quân sự ở các trường quân sự chuyên nghiệp như trung tâm huấn luyện Quang Trung, học chiến thuật ở rừng cao su Phú Thọ hay trung tâm Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám v.v Môn học chính của QGHC gồm những kiến thức như soạn thảo công văn, kế toán thương mại, định chế chính trị, luật hành chánh và cả quân sự. Tùy theo bằng cấp tốt nghiệp là tham sư, đốc sự hay giám sự, các chuyên viên hành chánh cao cấp này sẽ về làm việc tại các bộ như Bộ Nội vụ hoặc cơ quan hành chánh địa phương. Giám sự được bổ nhiệm ở các phủ bộ chuyên môn khác như Bộ Tài chánh, Tổng Nha Kế Hoạch. Sau khi ra trường thì chuyên viên được bổ dụng từ Phủ Thủ tướng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo hay Tổng Nha Ngân Sách và các Bộ cấp quốc gia cho đến các ty, các sở ở địa phương như phó tỉnh trưởng hoặc phó quận trưởng.

– Trường Võ Bị QGVN:
Tuy trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt được thành lập năm 1950 nhưng đên năm 1959 dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới thực sự có những cải tổ sâu rộng và huấn luyện theo tiêu chuẩn quốc tế. Năm 1961, TT Ngô Đình Diệm cho xây dựng lại cơ sở đào tạo mới tại đồi 1515, ông đưa ra chương trình đào tạo 4 năm thay vì 3 năm như trước đây, nhưng vì những rối ren chính trị và ông bị thảm sát, mãi đến năm 1966 chính phủ tiếp theo mới thực hiện được chương trình này. Trường VBQGVN đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp cho Không Quân, Hải Quân và Lục Quân.

-Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức năm 1955 đến 1961 đã cung cấp 2/3 số sĩ quan cho QLVNCH và khoảng trên 90% các binh chủng như Thiết Giáp, Công Binh Pháo Binh Quân Nhu Quân Cụ truyền tin. Giữa tháng 10 năm 1961 ông lại tiếp tục cải tổ tách các trường đào tạo chuyên môn thành các trường riêng chỉ còn giữ lại Bộ Binh và Thiết Giáp là chính

-Phân chia các vùng chiến thuật: 42 tỉnh Miền Nam được chia làm 4 vùng chiến thuật với trách nhiệm bảo vệ các vùng chiến thuật này Quân Đoàn. Quân Đoàn 1 bản doanh tại Đà Nẵng, QĐ II tại Pleiku, Quân Đoàn III tại Biên Hòa, QĐ IV tại Cẩn Thơ.

Để thấy được thành công trong lãnh vực quân sự, chống trả lại các cuộc tấn công quân sự của khối cộng sản trong giai đoạn của tổng thống Ngô Đình Diệm, cần đánh giá sức mạnh quân sự của đối phương. Giai đoạn này đặc biệt là bắt đầu vào khoảng năm 1961, 1962 cộng sản gia tăng chiến tranh quân sự và gia tăng các hoạt động khủng bố, để cố chiếm lấy nữa nước còn lại nhằm phục vụ cho ý thức hệ cộng sản và gấp rút thỏa mãn ý đồ Hán Hóa Việt Nam của Trung Cộng. Dẫn chứng: trong giai đoạn chiến tranh từ năm 1954 đến 1975, luôn luôn có mặt của cán bộ Trung Cộng và ngay cả của tất cả các nước công sản khác như Tiệp Khắc, Cuba v.v tại Hà Nội. Có lúc con số lính Trung Cộng lên đến 300 ngàn. Hồ Chí Minh và những đảng viên trung ương đã đến tiếp kiến Chu Ân Lại ở Nam Ninh tháng 7 năm 1957 để cùng hợp tác soạn thảo kế hoạch cài cán bộ cộng sản nhằm phục vụ mưu đồ thôn tính Miền Nam. Kế hoạch này gồm 2 chiến lược chính đó là làm suy yếu chính quyền VNCH bằng các âm mưu gây bất ổn chính trị xã hội, hai là tấn công quân sự và tấn công khủng bố. Tất cả các kế hoạch này lấy tinh thần ái quốc chống ngoại xâm và bịa đặt vấn đề đàn áp Phật Giáo để lừa phỉnh lòng yêu nước và đánh lận tín ngưỡng của người dân VN. Sự hiện diện trong chiến tranh của bọn cộng sản Bắc Việt chỉ là bề ngoài, bên trong chính là Trung Cộng vẽ kế hoạch từng giai đoạn và cung cấp vũ khí tiền bạc. Như vậy chính phủ Ngô Đình Diệm đang đối đầu với cả một khối cộng sản lúc đó đang vô cùng mạnh, và nguy hiểm hơn nữa là khi chính quyền Kennedy đồng ý trung lập Lào, tạo đường giao thông cho Hà Nội liên tiếp đưa quân vào Miền Nam và làm gia tăng các trận tấn công quân sự của Hà Nội vào Miền Nam.
Tuy phải đương đầu với muôn vàn khó khăn như trên, nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã giữ cho hậu phương Miền Nam luôn thanh bình ấm no, người dân đi lại an toàn, không có nạn đắp mô xe đò đánh du kích v.v

5/ Ngoại giao:
với sự thành cộng vượt bực về chính trị kinh tế và khống chế được cộng sản, ổn định Miền Nam một cách nhanh chóng, ông đã được rất nhiều các nguyên thủ quốc gia cũng như các nhân vật chính trị nỗi tiếng trên thế giới ca ngợi, chẳng hạn tổng thống Lyndon Johson vào năm 1955 và 1961 đã ca ngợi tổng thống Ngô Đình Diệm là Churchill của Châu Á, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch nói rằng 100 năm nữa Việt Nam cũng chưa tìm được người tài đức như TT Ngô Đình Diệm. Tổng Thống Eisenhower gọi ông là Miracle man, ông được giải thưởng Magsaysay và đã tặng số tiền này cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Trước uy tín cá nhân và những thành tựu vượt bực về kinh tế quân sự, Miền Nam đã được trên 80 quốc gia công nhận, rất nhiều nước mời tổng thống Ngô Đình Diệm công du, và vinh dự nhất là chuyến viếng thăm Hoa Kỳ và New York của ông đã được đích thân TT Eisenhower ra tận máy bay đón và chào mừng bằng 21 phát súng đại bác.
Cho đến bây giờ, thật hiếm hoi có một vị nguyên thủ quốc gia được Hoa Kỳ đón tiếp với thủ tục cao quý nhất như vậy. Đó là niềm vinh dự cho cá nhân TT Ngô Đình Diệm và cũng là niềm vinh dự cho chính thể VNCH và cho chính chúng ta hôm nay.

6/ Thành công về mặt an ninh tình báo:
Theo cuốn hồi ký của Đại Tướng Việt Cộng Văn Tiến Dũng, số cán bộ cộng sản gài tại Miền Nam là 60 ngàn tên, sau 3 năm dưới sự cầm quyền của chính phủ TT Ngô Đình Diệm con số này chỉ còn lại 5 ngàn. Tức là trong ba năm chính phủ đã tận diệt trên 90% số cán bộ nằm trong màng lưới gián điệp. Đây là sự tự thú mà chính cộng sản sau 1975 đã đưa ra, như vậy thành công vô cùng to lớn này là do ai? công lao này là do ai? Nếu không phải là của TT Ngô Đình Diệm và các ông như Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn, Dương Văn Hiếu và toàn bộ hệ thống tình báo công an mật vụ của Đệ Nhất Cộng Hòa. Hế thống tình báo này đã bắt và loại trừ được 55 ngàn tên cán bộ cộng sản qua chiến dịch tình báo xâm nhập chiêu hồi và tố cộng, bẽ gãy âm mưu thâm nhập vào hệ thống quân sự dân sự và chính quyền VNCH. Hệ thống tình báo thời kỳ tổng thống Ngô Đình Diệm là một hệ thống vô cùng hữu hiệu và có công lớn với đất nước, đã phá vỡ một hệ thống tình báo cộng sản tinh vi và dày đặc, thế nhưng người ta vẫn lập đi lập lại như một thành ngữ: hệ thống mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo trong lúc kết luận điều tra của Liên Hiệp Quốc là hoàn toàn không tìm thấy bằng chứng đàn áp Phật Giáo của chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Liệu chúng ta có thể chấp nhận sự thật bị đánh tráo này không, hoặc để cho những kẻ cuồng tín tiếp tục vu khống?
Để đánh giá thành công này, chúng ta phải xem xét đến cách cài người vô cùng tinh vi của khối cộng sản có tên gọi là Lucy. Xin được điểm qua kế hoạch Lucy của Xô Viết để chúng ta thấy rằng loại trừ được hệ thống cộng sản nằm vùng không phải là một công việc dễ dàng mà là một công việc muôn vàn khó khăn mà hệ thống công an mật vụ của chính phủ Ngô Đình Diêm và ông Ngô Đình Cẩn đã đạt được.

Kế hoạch Lucy là gì?
Đó là kế hoạch mà sau cách mạng Nga 1917, Nga đã chỉ thị cho các cán bộ cộng sản trẻ của mình ở lại trong hệ thống quân đội và chính quyền Đức dù lúc đó chính quyền Đức bị bại trận và số lính tình nguyện giải ngũ rất nhiều, chỉ còn lại khoảng 100 ngàn. Các cán bộ trẻ này vẫn sống một đời bình thường hoàn toàn không hoạt động tình báo gì cả. Nhóm này hiện diện trong các lãnh vực quân sự, dân sự và trong các ngành quan trọng của chính quyền. Hai mươi năm sau, khi thế chiến II bùng nổ 1939, các cán bộ cộng sản này trở thành những sĩ quan cao cấp trong hàng ngũ quân đội Đức, tức là trở thành những tên cán bộ điệp viên cộng sản cho Nga ngay trong chính quyền nổi tiếng sắt máu tàn bạo và tinh vi của Hitler. Những tên sĩ quan cao cấp này của Đức đã cung cấp toàn bộ tin tức tình báo kế hoạch hành quân cho Nga và đã góp phần tạo nên chiến thắng cho Liên Xô trong trận đệ nhị thế chiến. Chính phủ Nhật Hoàng cũng bị bại trận trước Nga cũng trong môt tình huống tương tự khi một điệp viên cộng sản Đức trở thành một chuyên viên tín cẩn của chính quyền quốc xã Hitler làm việc cho tòa Đại sứ Đức tại Tokyo.
Điểm qua kế hoạch cài người Lucy để chúng ta thấy rằng việc loại trừ khoảng 55 ngàn điệp viên cộng sản tại Miền Nam mà Văn Tiến Dũng đã thừa nhận là một kỳ công của hệ thống “ Mật vụ Nhu Diệm” của ông Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn và Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung. Trở lại vấn đề cán bộ tình báo nằm vùng tại Miền Nam Việt Nam: Trong lúc chính quyền của TT Ngô Đình Diệm là một chính quyền mới khai sinh sau ngày chia đôi đất nước, chỉ thật sự có quyền lực và được Hoa Kỳ viện trợ đáng kể sau khi dẹp loạn Bình Xuyên Bảy Viễn và Nguyễn Văn Hinh, tức là 11 tháng sau khi về nước chấp chính, thì chính quyền CSVN lúc đó đã hoạt động được 24 năm, có ngân sách điều hành dồi dào và rất ổn định từ khối cộng sản quốc tế đặc biệt là Trung Cộng, nên đã tạo được một màng lưới gián điệp nguy hiểm nằm sâu và nằm sẳn trong tất cả các cơ quan dân sự, chính quyền, quân đội và tôn giáo của Miền Nam. Ngoài ra còn có thêm số cán bộ cộng sản từ Bắc được gởi vào Miền Nam qua làn sóng di cư 1954. Điều này giải thích lý do tại sao điệp viên cộng sản đã trở thành các đảng viên cao cấp trong các đảng phái quốc gia, trở thành các sĩ quan cao cấp, trở thành tướng lãnh, trở thành các nhà tu, nhà báo, các chính trị gia đối lập và thậm chí len lõi vào cả Dinh Độc Lập. Đó cũng giải thích lý do tại sao có quá nhiều tên cán bộ cộng sản giả dạng quốc gia mà chỉ sau 1975 dân chúng mới biết, chẳng hạn như Phạm Xuân Ẩn, Huỳnh văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ ni sư Huỳnh Liên, Thích Trí Quang v.v
Cuối 1956, khi thấy nền kinh tế và chính trị Miền Nam càng ngày càng vững mạnh, cộng sản Hà Nội và Bắc Kinh cùng với Liên Xô đổi chiến lược tấn công, đó là bên cạnh các cuộc tấn công quân sự, tổ chức chiến tranh khủng bố ám sát bắt cóc trên toàn Miền Nam gây hoang mang lo sợ trong dân chúng, đồng thời năm 1960, chúng đẻ ra tổ chức gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được lãnh đạo bởi những tên cộng sàn gộc pha trộn các trí thức thiên tả của Miền Nam, chẳng hạn Nguyễn Hữu Thọ, Võ Chí Công, Nguyễn Thị Định, Huỳnh Tấn Phát, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, rêu rao rằng đây là tổ chức do dân chúng Miền Nam nổi dậy chống chính quyền. Thủ đoạn chính trị này đã lừa bịp một số trí thức Miền Nam như Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa, Đoàn văn Toại v.v hăng say hoạt động cho chúng, đồng thời đã lừa bịp được dư luận thế giới rằng MTGPMN không phải là tổ chức cộng sản mà chỉ là do dân Miền Nam nổi dậy
Nói chung, chính phủ VNCH không phải chỉ đối đầu với cộng sản Miền Bắc, mà chính là đối đầu với Bắc Kinh và Nga, đòi hỏi chính phủ phải thấy xa trông rộng và bắt buộc phải giới hạn một số quyền tự do bình thường để khống chế số Việt Cộng nằm vùng ngụy trang trong các tổ chức báo chí, tôn giáo, học sinh sinh viên, tôn giáo v.v.Trong đó đòi hỏi chính quyền phải chọn người tài giỏi tâm đầu ý hợp trong quan điểm và đường lối chống cộng. Số kết luận rằng chính phủ TT Ngô Đình Diệm độc tài, thì họ là những người đã nhắm mắt bịt tai để không thấy rằng, dưới thời chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm người dân có được các quyền căn bản về tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do biểu tình tự thiêu chống đối thóa mạ chính phủ, tuy vậy chính phủ vẫn thừa khả năng vô hiệu hóa mạng lưới tình báo cộng sản. Đó là một điểm son khi điểm lại lịch sử
Hãy nghe cộng sản ghi nhận về hệ thống an ninh tình báo mật vụ Nhu Diệm như sau:
“Từ 1957 đến 1958, tình thế dần dần đổi thay. Kẻ thù liên tục phá hoại sự thi hành hiệp định Geneva, củng cố và tăng cường một cách tích cực ngành an ninh quân sự và bộ máy hành chánh, từ trung ương xuống đến tận thôn xóm, ám sất tàn bạo cán bộ và thật sự đã phá hủy đảng ta một cách hữu hiệu…”
Chúng ta phải công bằng rằng tất cả những thành công về giáo dục, y tế, kinh tế, quân sự, ngoại giao, nội chính, an ninh tình báo của TT Ngô Đình Diệm trong hoàn cảnh đất nước phải đương đầu với cộng sản Việt Nam, chống Nga, chống Bắc Kinh, là vượt quá sự mong đợi của người dân Việt Nam, vượt quá sự tiên liệu của Hoa Kỳ và các quốc gia khác. Uy tín của Miền Nam và của cá nhân của Tổng Thống lên cao đến mức TT Eisenhower, không những là vĩ nhân của Hoa Kỳ mà còn là vĩ nhân của thế giới, đã thân chinh đón ông tận cửa máy bay với thảm đỏ trải dài từ chân cầu thang và 21 phát súng đại bác chào mừng, là một chứng minh rõ ràng nhất mà không ai có thể phản bác về uy tín và thành công quá lớn của Tổng Thống
Tóm lại, những người cho rằng TT Ngô Đình Diệm độc tài đàn áp Phật Giáo gia đình trị, hầu như họ đã tránh né việc mà họ phải làm để thuyết phục dư luận rằng họ đúng, đó là họ phải so sánh tình trạng đất nước trước khi ông về, với một đất nước sau đó với 9 năm đất nước dưới quyền lãnh đạo của ông, rồi sự suy yếu bệ rạc xảy ra ngay sau khi đất nước không còn bóng dáng ông nữa. Những kẻ đánh giá sự nghiệp của một vị lãnh đạo quốc gia mà chỉ đưa ra tình hình bất ổn chính trị của đất nước do Phong Trào Phật Giáo Tranh Đấu gây ra vài tháng trước khi ông mất là một việc làm gian trá đánh lận con đen, tự làm giảm giá trị của mình và không ai có thể chấp nhận được. Vì vậy sự kết luận rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người không có tài tham quyền cố vị là những lời nói vô giá trị mà không lịch sử nào nhìn nhận.

Source :
https://vuottuongluaweb.wordpress.com/2017/07/01/cai-chet-cua-tt-ngo-dinh-diem-mot-mon-no-lich-su/