Categories
Việt Nam

Vua Bảo Đại có cống hiến gì cho nước Việt Nam?


Bài Sưu tầm trên FB, không biết tác giả

Lịch sử sẽ phải viết lại. Từng sự kiện, nhân vật đều phải được trả về đúng giá trị. Lịch sử phải là SỰ THẬT, nghiêm cấm mọi cá nhân, tổ chức…bóp méo LỊCH SỬ!.

Vua Bảo Đại có cống hiến gì cho nước Việt Nam?

107043441_662392561027871_5029736361318462842_n

  • Ông là người có những cải cách mới cho triều đình nhà Nguyễn.

– Ông bãi bỏ các vị thượng thư già cả lạc hậu thay bằng những người trí thức mới.

– Ông phế bỏ chế độ thái giám vô nhơn tánh, bỏ thủ tục quỳ lạy vua.

– Ông giải tán tam cung, lục viện để hàng ngàn phụ nữ tự do.
– Ông mở rộng ngoại giao với các quốc gia trên thế giới như Campuchia, Trung Hoa Dân Quốc, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi, Lào, Anh Quốc, Pháp quốc, Ý Đại Lợi, Thái….

– Năm 1945, ông lợi dụng Pháp bị đảo chánh yêu cầu người Pháp trả lại độc lập cho VN sau gần 100 năm cai trị.

– Ông và Trần Trọng Kim tiếp tế cứu đói trong trận đói năm Ất Dậu.

– Năm 1948, ông yêu cầu Pháp trả lại sáu tỉnh Nam kỳ cho VN bị bảo hộ từ ngày cụ Phan qua xin chuộc bất thành mà tự vận.

– Từ đó, ông thành lập quốc gia Việt Nam với các cải cách dân chủ, lập quân đội, lập nội các, thủ tướng, giáo dục, và viết Hiến Pháp đầu tiên cho quốc gia VN độc lập.

– Ông thành lập trường Võ Bị Đà Lạt năm 1948.

– Năm 1949, ông điều hành quốc gia VN và tham gia liên hiệp quốc và được chấp thuận là một quốc gia hợp pháp trong khi VNDCH bị bác đơn.

– Ông đại diện quốc gia Việt Nam độc lập gia nhập Liên Hiệp Quốc Tế Viễn Thông năm 1952 bao gồm vô tuyến, viễn thông, và chọn đầu số điện thoại ở Nam kỳ là (+84).

– Ông thành lập Ngân Hàng quốc gia Việt Nam vào tháng 1 năm 1955 tại bến Chương Dương. (Sau chánh quyền VNCH tiếp quản vẫn để nguyên tên NGÂN HÀNG QUỐC GIA VIỆT NAM.

– Ông dựa vào uy tín của mình kêu gọi quốc tế viện trợ đưa hơn một triệu dân Bắc kỳ vô Nam tỵ nạn cộng sản năm 1954.

Và hơn hết trong gần 20 năm trị vì ông chưa hề làm đổ máu một người con dân Việt Nam nào…

– Năm 1954, ông không tham dự hiệp Genéve chia đôi đất nước vì ông không muốn nhìn thấy quốc tế chia cắt đất nước của ông và cũng không muốn nhận lấy “một nửa mảnh sơn hà rách tả tơi” khi Pháp trao trả đất nước lại cho Quốc Chủ của ông.

Vua Bảo Đại đặt dân tộc Việt Nam trên ngai vàng của ông. Thà làm dân nước Tự Do hơn làm vua nước nô lệ.
Và còn rất nhiều việc tốt mà ông đã làm cho đất nước của ông vào thời của ông.

Copied từ FB Phan Ngoc Minh
(Bài cần chia sẻ rộng rãi để giáo dục bò đỏ, dư luận viên.)

Categories
Việt Nam

Nguyễn Phú Trọng và ĐCSVN khẳng định là chư hầu của Trung Quốc


Tác giả: Nguyên Thạch – FB Nguyên Thạch

107377512_161173872190068_1855673963866948807_n

Hãy nghe bà Nguyễn Nguyên Bình – Phó viện trưởng các vấn đề phát triển Việt Nam – đã nhận định hành động của Nguyễn Phú Trọng qua việc Đại hội ĐCSTQ lần thứ 19 rằng: “Ông Tập Cận Bình vừa rồi có đọc bài diễn văn nói quá rõ tham vọng xây dựng lại trật tự thế giới mới trong đó có vấn đề ông quyết tâm lấy Biển Đông của Việt Nam”. Bà Bình còn tiếp: “Tập Cận Bình nói rõ những mưu đồ, mà mình lại sang (triều kiến) thì theo tôi cũng như một số các dư luận có quan tâm thì người ta thấy đấy là một sự tiếp tục tỏ thái độ như là chư hầu.”

Ông Hoàng Bình Quân đặc sứ của Việt Nam, trưởng Ban đối ngoại của ĐCSVN và là đặc phái viên của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Bắc Kinh để chúc mừng thành công của Đại hội thứ 19 của ĐCSTQ, bên cạnh việc chúc mừng, ĐCSVN còn mong muốn có sự hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc, trong khi đó trong diễn văn phát biểu khai mạc Đại hội đảng 19, ông Tập nhấn mạnh lại công tác này là tiến triển vững chắc. Nghĩa là ông Tập gởi thông điệp muốnthể hiện quyết chí chiếm trọn Biển Đông mà trong đó phần lớn diện tích biển và đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Sự biểu hiện trắng trợn của TBT (Thằng Ba Trợn) Nguyễn Phú Trọng trước những chuỗi Hiệp định song phương, Hiệp thương về đất liền và vịnh biển, đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt bất bình đẳng mà thiệt thòi lớn luôn nghiêng về phía Việt Nam. Hơn thế nữa Trung cộng đã ngang nhiên cướp chiếm 7 đảo của VN: Châu Viên, Vành khăn, Chữ Thập, Gaven, Tư Nghĩa, Subi và Gạc Ma. Các điểm này Trunng cộng đã và đang xây dựng các căn cứ quân sự kiên cố, sân bay hiện đại, các kho chứa nhiên liệu cũng như kể cả các hầm chứa hỏa tiễn đạn đạo, đồng thời nêu rõ quyết tâm chiếm cho bằng được Biển Đông như chính bản thân người có quyền lực cao nhất Trung cộng cũng đã nói rõ: “Hoạt động cải tạo, bồi lắp lên những đảo nhân tạo tại Biển Đông của Trung Quốc tiêu biểu cho sự quyết đoán ngày càng tăng của Bắc Kinh tại Biển Đông dưới nhiệm kỳ đầu của chủ tịch Tập Cận Bình. Trong diễn văn phát biểu khai mạc Đại hội đảng 19, ông Tập nhấn mạnh lại công tác này là tiến triển vững chắc.” (1) Đây là sự lộ liễu chạy theo giặc, nối giáo cho giặc mà Nguyễn Phú Trọng đã không xem ai ra gì.

Nguyễn Phú Trọng không trọng dân thì đã đành vì đó là bản chất của những tên độc tài và cộng sản nhưng hắn còn không xem ĐCSVN là cái thể thống chi cả. Trong trường hợp này, tập thể đảng viên ĐCS bất luận là chức vị lớn hay nhỏ đều phải có phản ứng:

1- Hãy luận tội Nguyễn Phú Trọng tên phản quốc, bán đứng đất nước biển đảo hùa theo giặc nhằm thôn tính Việt Nam. Đưa y ra đại hội đảng và định tội cũng như xử lý theo pháp luật dành cho những tên bán nước phản bội lại dân tộc.

2- Cúi mặt lặng im và coi như đồng lõa với tên phản quốc, nghĩa là toàn bộ ĐCSVN cũng thỏa thuận việc bán nước cho Trung cộng.

Trước khi là một đảng viên ĐCS thì các đảng viên này là người Việt Nam. Nếu là một người yêu nước, có trách nhiệm và bổn phận của những công dân thì các vị sẽ tự quan tâm đặt câu hỏi và phải có câu trả lời thỏa đáng.

Dưới trướng của tên Thái thú Nguyễn Phú Trọng còn có cả đám đồ đệ được Trọng và Trung Nam Hải bảo trợ như: Lê Chí Vịnh, Hoàng Trung Hải, Tô Lâm ở Bộ chính trị, Ngô Minh Tiến cùng nhiều quan chức các ngành các cấp khác ở trung ương cũng như địa phương với chỉ thị một mực thuần phục Bắc triều.

Hãy nghe bà Nguyễn Nguyên Bình Phó viện trưởng các vấn đề phát triển Việt Nam đã nhận định hành động của Nguyễn Phú Trọng qua việc Đại hội ĐCSTQ lần thứ 19 rằng: “Ông Tập Cận Bình vừa rồi có đọc bài diễn văn nói quá rõ tham vọng xây dựng lại trật tự thế giới mới trong đó có vấn đề ông quyết tâm lấy Biển Đông của Việt Nam”. Bà Bình còn tiếp: “Tập Cận Bình nói rõ những mưu đồ, mà mình lại sang (triều kiến) thì theo tôi cũng như một số các dư luận có quan tâm thì người ta thấy đấy là một sự tiếp tục tỏ thái độ như là chư hầu.”

Giờ đây không còn nghi ngờ gì nữa, toàn thể người dân đã quá rõ bộ mặt của Đ M, (Đỗ Mười) Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Phú Trọng… là những tên phản quốc sẵn sàng bán đứng đồng bào, đưa cả nước vào vòng nô lệ mà không cần phải giấu diếm.

107734795_161170962190359_7642969533971446403_n
VÕ TIẾN TRUNG

90 triệu con tim chung nhịp bước

Tiến về Thăng Long, ta tiến về Hà Nội
Quét sạch bọn tham ô, bọn phản bội quê hương
Tiến về Thủ đô, ta chiếm các nẻo đường
Hài tội quân bán nước một phường giặc nội.

Hơn 70 năm qua, đất nước ngập chìm trong bóng tối
90 triệu dân Việt nam bị đẩy vào ngõ tối lầm than
Hận vút trời cao khắp lối ngập tràn
Quê hương, dân tộc vô vàn thống khổ

Tiến về Sài Gòn ta tiến về các thành phố
Đà Nẵng, Huế, Nha Trang, Tây Đô ta thách đố bạo quyền
Đồ tể cường hào theo ác đảng cuồng điên
Quân bán nước phản Tổ Tiên nòi giống.

Triệu triệu người xuống đường hô to SÁT CỘNG
Giáo mác gươm đao gậy nhọn tầm vông
Hỏi tội bạo quyền có lùi bước hay không?
Bởi hôm nay 90 triệu người đã đồng lòng đứng dậy

Đất tổ quê cha, toàn dân phải giữ lấy.

Nguyên Thạch

FB Nguyên Thạch

______________________________________

Ghi chú:

(1) http://www.rfa.org/…/beijing-seen-poised-for-fresh-scs-asse…

Tướng Võ Tiến Trung: Mỹ tập trận ở Biển Đông không phải để ủng hộ Việt Nam bảo vệ chủ quyền

Nguồn: https://danviet.vn/tuong-vo-tien-trung-my-tap-tran-o-bien-d…

Categories
Việt Nam

ĐIỂM MẶT NHỮNG TÊN VIỆT GIAN PHÁ HOẠI TIẾN TRÌNH XÓA SỔ VIỆT CỘNG


Tran Hung.

I. LỜI NÓI ĐẦU

Lẽ ra tôi sẽ viết bài này vào 04 ngày tới khi nick Tran Hung lâu nay của tôi hết hạn treo giò 30 ngày của Facebook, tuy nhiên vào ngày hôm qua, những tên Việt cộng nằm vùng đã report nick của tôi cách đây gần 01 tháng lại tiếp tục report nick của tôi để Facebook lại treo giò thêm 30 ngày và lại tiếp tục report 24 giờ nick hiện nay tôi mượn xài tạm nên tôi không thể chờ đợi thêm được nữa mà đành phải viết ra hôm nay.

Động cơ để tôi viết bài này vào hôm nay dù biết rằng sức lan tỏa sẽ không như ý vì nick tạm này ít chiến hữu và nick chánh chủ Tran Hung nhiều chiến hữu thì đang bị treo giò. Nhưng vì không thể ngồi yên được khi chứng kiến Việt cộng đang gia tăng “ve sầu thoát xác” mà tôi đã từng cảnh báo mấy tháng trước qua những hành động cụ thể của Việt cộng như:

  1. Cấy đám cộng phỉ con trà trộn vào việc ký thỉnh nguyện thơ phục hoạt Hiệp định Ba Lê 1973 ngay trong lúc này, cụ thể là ả Việt cộng nằm vùng Trần Thị Ái Liên, tên luật sư Việt cộng Nguyễn Văn Đài, tên cộng phỉ con Huỳnh Quốc Huy;
  2. Những tên Việt cộng nằm vùng ở Mỹ là những thánh livestream điển hình như Trương Quốc Huy, Ả Trần Nhật Phong,… ra mặt khẳng định Việt Nam Cộng Hòa đã chết vĩnh viễn, Hiệp định Ba Lê chỉ là bánh vẽ,… và những tên Việt cộng nằm vùng trong mác tù nhơn lương tâm, đấu tranh dân chủ thì cổ súy cho tên Nguyễn Xuân Phúc trở thành Gorbachev Việt Nam để nắm quyền tổng thống, điển hình như Ả Trần Thị Thúy Nga, Hoàng Dũng,… Ngược lại thì những tên tuyên giáo cộm cán, tỏ ra là fan của ông Trump thì lại cổ súy cho Hán nô Nguyễn Phú Trọng quay cần qua Mỹ điển hình như tuyên giáo Ả Trần Đình Thu,…

  3. Việt cộng tung ra chiến lược phỉ báng tổng thống Trump thông qua những kẻ được Việt Tân cho nhập cư vào Mỹ như ả NÚM ĐỘC Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trương Minh Tam,…và thông qua những tên có máu mặt trong làng đấu tranh dân chủ Việt Nam như tên Nguyễn Quang A, Võ Văn Tạo, Mạc Văn Trang,…

  4. Việt cộng tung ra chiến dịch “đưa chim mồi trở lại lồng son” trong đấu pháp “rút củi đáy nồi – rung cây nhát khỉ” để phục vụ cho đại hội 13 nhưng trên hết là đưa Việt Nam lọt thỏm vào vòng tay của Tàu cộng để hình thành phe trục chống Mỹ khi những đòn trừng phạt mạnh mẽ, không khoan nhượng của Mỹ đang và sẽ áp lên Tàu cộng bởi tội đầu độc nhơn loại bằng con virus cúm Tàu cộng. Điển hình là vụ câu lưu tên Việt cộng nòi Phạm Thành Bà Đầm Xòe, Nguyễn Tường Thụy,…

  5. Việt cộng đang gia tăng bàn giao Việt Nam cho Tàu cộng theo công hàm bán nước 1958, theo mật ước Thành Đô năm 1990, theo 27 văn kiện bán nước trong năm 2017 của Hán nô Nguyễn Phú Trọng cùng với nhiều khế ước bán nước khác mà các chóp bu Việt cộng đã thỏa thuận ngầm với Tàu cộng tuân theo các thỏa thuận ngầm của cú đêm Kissinger và các đời tổng thống Mỹ sau này đại diện cho đảng Dân chủ Mỹ.

Nội dung bài viết theo chủ đề ĐIỂM MẶT NHỮNG TÊN VIỆT GIAN PHÁ HOẠI TIẾN TRÌNH XÓA SỔ VIỆT CỘNG sẽ rất dài vì tôi có cập nhật những phương thức hoạt động nằm vùng của Việt cộng mà cha tôi đã đúc kết kinh nghiệm sau ngày Quốc Hận 30/4/1975 cùng với bản thân tôi tự nhận định, rút kinh nghiệm trong quá trình cọ xát với Việt cộng trên mạng xã hội.

Vì vậy tôi chia ra nhiều phần để viết bài chủ đề này. Rút kinh nghiệm từ những lần bị Việt gian report nick Facebook bởi những cái lỗi vô lý mà Facebook áp đặt cho tôi là “Vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng vì xài ngôn từ gây thù ghét” nên kể từ đây trở đi tôi sẽ nhượng bộ Facebook là sẽ xài ngôn từ nhã nhặn, viết đúng chính tả,… Tôi sẽ viết tiếp để hoan thành chủ đề này. Trân trọng./.

Tran Hung.

(Dưới đây chỉ là một số hình điểm mặt loài đội bô -liếm bô bưng và là cánh tay nối dài cho cs.
Còn rất nhiều hình ảnh lưu lại trò bẩn thỉu của bọn tuyên lái cs này,khi nick chính được thả sẽ viết tiếp)

1.https://www.google.com/url…

2.https://www.google.com/url…

3.https://www.google.com/url…

4.https://www.google.com/url…

5.https://www.google.com/url…

6.https://www.google.com/url…

Source :
https://www.thesaigonpost.uk/2020/05/iem-mat-nhung-ten-viet-gian-pha-hoai.html

Categories
Việt Nam

ĐÂY LÀ LÝ DO KHIẾN LM ĐẶNG HỮU NAM PHẢI THÔI CHỨC MỤC VỤ?


20151231_chanam-400x300

Linh mục Anton Đặng Hữu Nam là một linh mục từ khá nhiều năm nay nổi tiếng bởi sự dấn thân, hy sinh và lên tiếng đồng thời luôn đồng hành cùng người dân, những nạn nhân của nhà cầm quyền độc tài Cộng sản Việt Nam. Việc lên tiếng của linh mục Anton Đặng Hữu Nam cũng như việc ngài đồng hành với người dân đã làm cho nhà cầm quyền Nghệ An nói riêng và nhà cầm quyền CSVN nói chung hết sức lúng túng và khó chịu. Họ lúng túng, bởi những lời nói, những việc làm bênh vực quyền lợi giáo dân cũng như lương dân của Linh mục Anton Đặng Hữu Nam là những việc chính đáng, thuộc quyền cơ bản của người dân mà họ không thể có cách nào giải thích ngược lại.

https://youtu.be/khsQJ4xOCBc

Categories
Việt Nam

Mau cứu nước khỏi họa bành trướng của Tàu Cộng!


Hà Sĩ Phu 31-5-2018

34135104_973022272864715_4699730056266645504_n

Kính gửi tất cả quý vị trên các Diễn đàn “Dân chủ – Cứu nước

1/ Thưa quý vị, một kẻ ngu độn nhất cũng biết chủ trương cho người nước ngoài thuê đất tới 99 năm” chính là tiếp tay cho mưu đồ bành trướng của Tàu Cộng, củng cố thêm một bước quan trọng để biến Việt Nam chính thức thành một chư hầu nô lệ của họ. Chủ trương như vậy là phản quốc một cách có ý thức, dù ngụy trang bằng mục đích kinh tế.

Categories
Việt Nam

Chương trình giải trí của Trung Quốc dùng Nhã nhạc cung đình Huế


Tàu + hết cướp biển, cướp đất, ăn cắp áo dài của VN rồi gọi là 1 trong những quốc phục của Tàu; giờ lại ăn cắp nhạc !

Chương trình truyền hình thực tế “Sáng tạo doanh 2020” của Trung Quốc bị người Việt Nam phát hiện sử dụng Nhã nhạc cung đình Huế làm nhạc dạo cho một tiết mục biểu diễn của các thực tập sinh.

Sáng tạo doanh 2020
Phần biểu diễn của các thực tập sinh chương trình ‘Sáng tạo doanh 2020’ sử dụng Nhã nhạc cung đình Huế. (Ảnh chụp màn hình/WeTV)

Trong tập 7 Sáng tạo doanh 2020, ở tiết mục Tiểu thư và bốn chàng soái ca, một đoạn Nhã nhạc cung đình Huế được sử dụng làm phần mở đầu nhạc dạo. Đoạn nhạc kéo dài khoảng 20 giây, của bản Lưu Thủy – Kim Tiền.

Trong tiết mục này, 5 nữ thực tập sinh mặc trang phục xưa của Trung Quốc, giới thiệu bản thân sau đó bắt đầu tiết mục trình diễn.

 

.

Do trong phần phát sóng, đoạn nhạc nền không được ghi chú tên ca khúc hay nguồn nhạc, nhiều người Việt Nam cho rằng việc dùng nhạc Việt Nam kết hợp với tiết mục trong một chương trình giải trí Trung Quốc, có thể khiến cho người xem quốc tế hiểu lầm rằng Nhã nhạc cung đình Huế là của Trung Quốc.

Sáng tạo doanh 2020 (CHUANG 2020 – Produce Camp 2020) là chương trình thực tế của Trung Quốc, đang thu hút đông người xem và không ít khán giả trẻ người Việt. Chương trình được chiếu trên WeTV – ứng dụng giải trí trực tuyến Việt Nam.

Lưu Thủy Kim Tiền – Xuân Phong Long Hổ – Ban Nhạc Trúc Xanh

Cùng trong tháng 5, phim cổ trang Trung Quốc “Thịnh Đường Huyễn Dạ” (được chiếu trên VTV8) bị phát hiện sử dụng Nhã nhạc cung đình Huế trong một cảnh phim.

 

 

 

Hai phân đoạn trong phim “Thịnh Đường huyễn dạ” sử dụng Nhã nhạc cung đình Huế

NSƯT Hoàng Trọng Cương, Phó Giám đốc Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế cho biết  các nhà làm phim đã sử dụng một đoạn của hai bài Kim tiền và Long Hổ từ một đoạn của dàn nhạc dân tộc Việt Nam (chưa xác định là của dàn nhạc ở địa phương nào). Đoạn nhạc đã được cải biên, chắp nối, không phải do dàn Nhã nhạc cung đình Huế trình tấu. Phía đài VTV8 sau đó đã ngưng phát sóng phim.

Nguyễn Sơn
.
Categories
Việt Nam

175 tên gọi, bút danh và bí danh của Hồ Chí Minh


XUÂN BÁCH

1. Nguyễn Sinh Cung, 1890. Đây là tên khai sinh tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

2. Nguyễn Sinh Côn. Trong một bài viết của Hồ Chí Minh, năm 1954, Hồ cũng ghi tên còn nhỏ của mình là Nguyễn Sinh Côn.

3. Nguyễn Tất Thành, 1901. Tháng 9, 1901, nhân dịp ông Nguyễn Sinh Sắc, cha Nguyễn Sinh Cung, chuyển về sống ở làng Kim Liên, ông có làm lễ “chào làng” cho hai con trai với tên mới là Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung).

4. Nguyễn Văn Thành

5. Nguyễn Bé Con. Trong tài liệu đề ngày 6 tháng 2, 1920 của Tổng đốc Vinh cung cấp về Nguyễn Sinh Sắc và hai con trai có ghi con trai thứ của Nguyễn Sinh Sắc là Nguyễn Bé Con. Tài liệu mật thám Pháp theo dõi hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, bản ghi số 1116, 1931: Nguyễn Ái Quốc hay Nguyễn Tất Thành tức Nguyễn Sinh Côn hay Nguyễn Bé Con tức Lý Thụy…

6. Văn Ba, 1911. Ngày 5/6/1911 Nguyễn Tất Thành rời Việt Nam làm việc trên một chiếc Tàu Pháp. Trong sổ lương của tàu có tên Văn Ba.

7. Paul Tat Thanh, 1912. Ngày 15 tháng 12 năm 1912, Nguyễn Tất Thành từ New York gửi thư cho khâm sứ Trung Kỳ nhờ tìm địa chỉ của thân phụ là Nguyễn Sinh Huy. Lá thư ký tên Paul Tất Thành.

8. Tất Thành, 1914. Từ nước Anh Nguyễn Tất Thành gửi thư cho Phan Chu Trinh ký tên Tất Thành. Hiện có bốn lá thư được sưu tầm ký tên Tất Thành. Một thư ký Cuồng Điệt Tất Thành, ba thư ký C.Đ Tất Thành.

9. Paul Thanh, 1915. Ngày 16 tháng 4 năm 1915, Nguyễn Tất Thành viết thư cho toàn quyền Đông Dương qua lãnh sự Anh tại Saigon nhờ tìm địa chỉ cha mình. Thư ký tên Paul Thanh.

10. Nguyễn Ái Quốc, 1919. Tên này có khi Nguyễn Tất Thành ở Pháp cùng sinh hoạt chung với nhóm người gồm các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh. Nguyễn Tất Thành là người đến gia nhập nhóm sau cùng.

11. Phéc-đi-năng

12. Albert de Pouvourville, 1920. Báo Điện Tín Thuộc Địa có truyền đơn trích đoạn từ nhiều tờ báo có liên quan tới vấn đề Đông Dương. Người đăng ký tên Albert de Pouvourville.

13. Nguyễn A.Q., 1921-1926. Hai bài báo ký tên Nguyễn A.Q. có tựa “Hãy Yêu Mến Nước Pháp, Người Bảo Hộ Các Anh.” đăng trên báo Người Tự Do, ngày 7 đến 10, 1921. Nguyễn A.Q. còn được ký dưới tranh biếm hoạ ngày 1 tháng 8 năm 1926.

14. Culixe, 1922. Nguyễn Ái Quốc ký bút danh Culixe trong một bài viết trên L’Humanité ngày 18 tháng 3 năm 1922.

15. N.A.Q., 1922. Bút danh này trên báo Le Paria và L’Humanité từ 1922-1930.

16. Ng.A.Q., 1922. Bút danh này trên báo Le Paria từ 1922-1925.

17. Henri Tran, 1922. Henri Tchen là tên ghi trong thẻ đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp của Nguyễn Ái Quốc. Số thẻ: 13861.

18. N., 1923. Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh N. trong các năm 1923-1928 trên Le Paria.

19. Chen Vang, 1923. Ngày 13 tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Paris đi Liên Sô, Tổ Quốc Cách Mạng. Ngày 16 tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến nước Đức. Tại đây, Nguyễn được cơ quan đặc mệnh toàn quyền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghiã Sô Viết Liên Bang tại Berlin cấp cho giấy đi đường số 1829. Trong giấy này Nguyễn Ái Quốc mang tên Chen Vang.

20. Nguyễn, 1923. Bút danh này trong các năm 1923, 1924, 1928 trên Le Paria.

21. Chú Nguyễn, 1923. Thư này Nguyễn Ái Quốc gửi đến các bạn cùng hoạt động tại Pháp trước khi rời Paris đi Liên Sô.

22. Lin, 1924. Nguyễn Ái Quốc dùng tên Lin trong thời gian ở Liên Sô từ 1923-1924 và 1934-1939. Tên Lin xuất hiện lần đầu tiên trong bức điện thư gửi Ban Phương Đông của Quốc Tế Cộng Sản, đề ngày 14 tháng 4, 1924. Tháng 10 năm 1934, Lin được nhận vào trường Quốc Tế Lenin Liên Sô, năm học 1934-1935. Tên Lin số hiệu 375. Tháng 8 năm 1935, Lin dự đại hội lần thứ VII của Quốc Tế Cộng Sản.

23. Ái Quốc, 1924. Ái Quốc là tên ghi trong thẻ dự đại hội V Quốc Tế Cộng Sản, tháng 6 năm 1924. Tháng 8 năm 1927 Nguyễn Ái Quốc gửi đồng chí Francois Billous tấm bưu ảnh, trong đó ký tên Ái Quốc. Sau này còn một số thư khác với tên Ái Quốc.

24. Un Annamite, 1924. Bút danh Annamite được ký dưới một bài viết trên Le Paria.

25. Loo Shing Yan, 1924. Bài “Thư Từ Trung Quốc, số 1”, ngày 12 tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết về phong trào cách mạng Trung Quốc, sự thức tỉnh, giác ngộ cách mạng cho phụ nữ Trung Quốc, gửi tạp chí Rabotnhitxa. Trong bài này, Nguyễn Ái Quốc ký tên Loo Shing Yan, một nữ đảng viên Quốc Dân Đảng. Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho ban biên tập tạp chí, ngày 12 tháng 11 năm 1924, giải thích: “Khi tôi còn ở Quốc Tế Cộng Sản, tôi rất phấn khởi được đôi lần cộng tác với tờ báo của các đồng chí. Nay muốn tiếp tục sự cộng tác ấy. Nhưng vì tôi ở đây hoạt động bất hợp pháp, cho nên tôi gửi bài cho các đồng chí  dưới hình thức “Những bức thư từ Trung Quốc” và ký tên một phụ nữ. Tôi nghĩ rằng làm như vậy bài viết có tính chất độc đáo hơn và phong phú hơn đối với độc giả, đồng thời cũng đảm bảo giữ được tên thật của tôi”.

26. Ông Lu, 1924. Ngày 12 tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi cho một đồng chí trong Quốc Tế Cộng Sản báo tin ông Lu đã đến Quảng Châu, Trung Quốc. Cuối thư đề điạ chỉ liên lạc: Ông Lu, Hãng thông tấn Roxta, Quảng Châu, Trung Quốc. Sau này trong nhiều thư khác Nguyễn Ái Quốc cũng ghi địa chỉ liên lạc là Ông Lu.

27. Lý Thụy, 1924. Nguyễn Ái Quốc dùng bí danh Lý Thụy trong thời gian hoạt động ở Trung Quốc. Ngày 11 tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu với các giấy tờ tùy thân mang tên Lý Thụy. Trong bức thư gửi Quốc Tế Cộng Sản, ngày 18 tháng 12 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc ghi ở cuối thư: “Trong lúc này tôi là một người Trung Quốc, chứ không phải là một người An Nam, và tên tôi là Lý Thụy chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc”.

28. Lý An Nam, 1924-1925. Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Quảng Châu với bí danh Lý Thụy, làm phiên dịch trong văn phòng của Đoàn cố vấn Sô Viết. Lý Thụy cũng có biệt danh là Lý An Nam lúc này.

29. Nilopxki (N.A.Q.), 1924. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu, Trung Quốc, làm việc tại cơ quan của Borodin. Hiện sưu tầm được tất cả 6 lá thư Nguyễn Ái Quốc ký tên Nilopxki.

30. Vương, 1925. Là giảng viên huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Vương. Vương cũng là bí danh để bắt liên lạc với Nguyễn Lương Bằng ở Trung Quốc, 1925.

31. L.T., 1925. Nguyễn Ái Quốc ký tên L.T. gửi thư cho ông H (Thượng Huyền) ngày 9 tháng 4 năm 1925. Sau ngày Nguyễn Ái Quốc còn viết khoảng 15 bài trên báo Nhân Dân với bút hiệu L.T. từ các năm 1949, 1957, 1958, 1960.

32. Howang T.S., 1925. Ngày 2 tháng 5 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc lấy bút hiệu Howang viết về đại hội công nhân và nông dân.

33. Z.A.C., 1925. Bút hiệu này được đăng trên báo Thanh Niên.

34. Lý Mỗ, 1925. Báo Công Nhân Chi Lộ Đặc Hiệu, số 20, ra ngày 14 tháng 7 năm 1925, đã đưa tin một người Việt Nam gia nhập đội diễn thuyết và để giữ bí mật, Nguyễn Ái Quốc có tên là Lý Mỗ.

35. Trương Nhược Trừng, 1925.

36. Vương Sơn Nhi, 1925. Viết trên báo Thanh Niên với bút danh Vương Sơn Nhi, Trương Nhược Trừng.

37. Vương Đạt Nhân, 1926. Với bút danh này, Nguyễn Ái Quốc được Đoàn Chủ Tịch Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Quốc Dân Đảng Trung Quốc mời đến dự và phát biểu ý kiến. Ngày họp là 14 tháng 1 năm 1926.

38. Mộng Liên, 1926. Mộng Liên được ký dưới bài viết “Mục Dành Cho Phụ Nữ” đăng trên báo Thanh Niên, số 40, ngày 4 tháng 4 năm 1926.

39. X., 1926. Bút danh này dùng trong các năm 1926, 1927. X. viết loạt bài nhan đề “Các Sự Biến Ở Trung Quốc”, đăng trên 7 số báo L’Annam.

40. H.T., 1926. Cùng với bút danh Mộng Liên, H.T. là bút danh của Nguyễn Ái Quốc viết bài cho báo Thanh Niên. “Còn một số bút danh khác như Hạ Sĩ, Hương Mộng, Diệu Hương v.v.. có thể cũng là bút danh của Nguyễn Ái Quốc, bởi lúc đó chưa có nhiều người viết bài cho báo Thanh Niên”.

41. Tống Thiệu Tổ, 1926. Theo hồi ký của một số người hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc, Tống Thiệu Tổ là bí danh của Nguyễn Ái Quốc khi ông ta hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc.

42. X.X., 1926. Nguyễn Ái Quốc ký bút danh này trên một bài đăng trong Inprekorr, số 91, ngày 14 tháng 8 năm 1926.

43. Wang, 1927. Bài viết dưới bút danh Wang được đăng trên Thư Tín Quốc Tế (Inprekorr).

44. N.K., 1927. Cũng trong Thư Tín Quốc Tế.

45. N. Ái Quốc, 1927.

46. Liwang, 1927. Ngày 16 tháng 12 năm 1927, từ Berlin Nguyễn Ái Quốc viết thư cho Đoàn Chủ Tịch Quốc Tế Nông Dân, đề nghị giúp đỡ tiền để về nước. Thư viết: “Trong 2 hoặc 3 tuần nữa tôi  sẽ trở về đất nước tôi. Chuyến đi của tôi tốn chừng 500 dollars Mỹ. Vì tôi không có tiền nên tôi mong các đồng chí giúp tôi”. Thư ký tên N. Ái Quốc. Trong thư, Nguyễn Ái Quốc đề nghị nếu có tiền xin gửi đến Uỷ Ban Trung Ương của Đảng Cộng Sản Đức, chuyển cho  “Liwang.”

47. Ông Lai, 1927. Cũng trong thư gửi Đoàn Chủ Tịch Quốc Tế Nông Dân, ngày 16 tháng 12 năm 1927, Nguyễn Ái Quốc ghi địa chỉ trả lời thư: M. Lai, chez M. Eckshtein, 21, Halle Chactrasse, Berlin.

48. A.P., 1927. A.P. viết bài “Văn Minh Pháp ở Đông Dương” trên Inprekorr.

49. N.A.K., 1928. Trong thư gửi Quốc Tế Nông Dân đề ngày 3 tháng 2 năm 1928.

50. Nguyễn Lai, 1928. Với thẻ nhập cảnh mang tên Nguyễn Lai, một Hoa kiều, Nguyễn Ái Quốc đặt chân tới đất Xiêm (Thái Lan).

51. Thọ, 1928

52. Nam Sơn, 1928. Tại Thaí Lan khi họp với người Việt cư  ngụ tại Thái Lan, Nguyễn Ái Quốc tự giới thiệu là Thọ, biệt hiệu Nam Sơn.

53. Chín (Thầu Chín), 1928. Đầu tháng 8 năm 1928, Nguyễn Ái Quốc tới Udon, Thái Lan, ông lấy tên là Chín. Mọi người gọi là Thầu Chín hay ông già Chín.

54. Victor Lebon, 1930. Victor Lebon, 123 av. de la République, Paris, France là điạ chỉ Nguyễn Ái Quốc ghi để nhận thư của đại diện Đảng Cộng Sản Pháp tại Quốc Tế cộng Sản và các đồng chí trong Đảng Cộng Sản Liên Sô. Ngày 27 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc gủi thư cho đại diện Đảng Cộng Sản Pháp tại Quốc Tế Cộng Sản thông báo về việc Đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập, yêu cầu được cung cấp tài liệu để tuyên truyền và giáo dục, đồng thời đề nghị Đảng Cộng Sản Pháp giúp đỡ v.v.. Nguyễn Ái Quốc ghi điạ chỉ nhận thư của mình như ghi trên.

55. Ông Lý(Lee), 1930. Mr. Lee, The HongKong Shiao Fih Pao, 53, Wyndham Str, HongKong là tên và địa chỉ  để nhận sách báo. Với tên và địa chỉ này Nguyễn Ái Quốc gửi cho đại diện Đảng Cộng Sản Mỹ ngày 27 tháng 2 năm 1930.

56. Ng. Ái Quốc, 1930.

57. L.M.Vang, 1930. Ngày 27 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho văn phòng đại diện Đảng Cộng Sản Đức ở Quốc Tế Cộng Sản đề nghị xin cho ông ta một giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế Giới. Thư ký tên Ng. Ái Quốc. Trong thư ông viết: “ Trong hoàn cảnh tôi sống không hợp pháp, tôi cần có một nghề để nói với người khác. Tội đóng vai phóng viên báo chí. Nhưng cần phải chứng thực danh nghĩa đó của tôi. Trong số tất cả các báo của Đảng chúng ta, tôi thấy chỉ có mỗi một tờ báo không mang cái tên “có tính chất lật đổ” và có thể cấp cho tôi một giấy chứng nhận thuận tiện, đó là báo Thế Giới. Tôi đề nghị các đồng chí xin cho tôi một giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế Giới. Tên của tôi sẽ là L.M. Wang.”

58. Tiết Nguyệt Lâm, 1930. Cũng trong thư Nguyễn Ái Quốc xin giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế Giới, ông ghi địa chỉ để nhận là: Mr. Sit-yet-um, Wah-jon C, 136 wanchai R, HongKong.

59. Paul, 1930. Ngày 27 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi đồng chí Sota, liên đoàn chống đế quốc tại Berlin, thông báo về việc Đảng Cộng Sản Việt Nam đã được thành lập. Thư ký tên Paul. Còn một số thư khác cũng được ký tên Paul.

60. T.V. Wang, 1930. Ngày 2 tháng 3 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Ban Phương  Đông, Quốc Tế Cộng Sản báo cáo về tình hình Mã Lai, Đông Dương và việc gửi 3 học sinh đi học. Cuối thư đề nghị “có thể mua cho tôi hối phiếu của công ty xe lửa tốc hành Mỹ đề tên T.V.Wang và gửi bưu điện cho tôi.”

61. Công Nhân, 1930. Bút danh này trong bài viết “Tranh Thủ Quần Chúng Như Thế Nào?” đăng trên báo Vô Sản, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam, số 1, ra ngày 31 tháng 8 năm 1930.

62. Victo, 1930. Bí danh Victo trong bức thư đề ngày 29 tháng 9 năm 1930 gửi Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng Sản báo cáo về cuộc đấu tranh từ ngày 11 đến 17 tháng 9 năm 1930 của nông dân các tỉnh Thanh Chương, Hưng Nguyên, Nghệ An….

63. V., 1931. Ngày 19 tháng 2 năm 1931,  với bí danh V., Nguyễn Ái Quốc viết bài “Nghệ Tỉnh Đỏ”. V. đồng thời gửi báo cáo cho Ban Phương Đông, ngày 8 tháng 2 năm 1931, liên quan đến chỉ thị việc tổ chức Đảng Cộng Sản Đông Dương.

64. K., 1931. Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Ban Phương Đông ngày 21 tháng 2 năm 1931, ký tên K., trong thư báo tin Lý Tự Trọng bắn chết mật thám Legrant và đã bị bắt. Nguyển Ái Quốc đề nghị Ban Phương Đông liên lạc với Đảng Cộng Sản Pháp tổ chức biểu tình đòi thả Lý Tự Trọng.

65. Đông Dương, 1931. Bút hiệu này được đăng trên bài viết “Kỷ Niệm  Một Năm Khởi Nghĩa Yên Bái” đăng trên Tạp Chí Thư Tín Quốc Tế, 1931, số 12.

66. Quac E. Wen, 1931.

67. K.V., 1931. Nguyễn Ái Quốc dùng bí danh K.V. từ 1931. Bí danh này được nhắc đến trong thư gửi Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương. Đầu thư đề ngày 23 tháng 4, cuối thư đề 24 tháng 4. K.V. thông báo những cán bộ được cử về nước theo đường dây liên lạc, nhắc nhở công tác bảo vệ Đảng, giữ gìn bí mật, duy trì chế độ báo cáo giữa Đảng Cộng Sản Đông Dương với Quốc Tế Cộng Sản và đề nghị Trung ương ghi nhận nhiệm vụ của mình đã được Ban Phương Đông xác định. Năm 1959, K.V. trong bài “Người Cháu Nuôi của Bác” đăng trên báo Nhân Dân ngày 27 tháng 12 năm 1959.

68. Lão Trịnh, 1931. Trong báo cáo của cơ quan an ninh Pháp về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, thời gian trước khi bị bắt ở Hongkong (1918/1931), có một đọan ghi như sau: “ghi chú về vấn đề người cộng sản An Nam Nguyễn Ái Quốc tức Nguyễn Tất Thành, gọi là Lý Thụy, Vương Sơn Nhi, Lão Trịnh, Năm, Lý Phát, Viên, Tống Văn Sơ bị bắt ở phố Cửu Long ngày 6 tháng 6 năm 1931”.

69. Năm, 1931.

70. Lý Phát, 1931.

71. Viên, 1931.

72. Tống Văn Sơ, 1931. Tống Văn Sơ là tên ghi trong thẻ căn cước của Nguyễn Ái Quốc khi ông ta bị bắt ở số 186, phố Tam Lung, Hongkong, ngày 6 tháng 6 năm 1931. “Một chiến dịch điên cuồng tìm diệt cộng sản được chúng (Pháp và Anh) phát động trên quy mô lớn khắp vùng Đông Nam Á.” 

73. New Man, 1933. Bí danh này được gửi cho luật sư Lôdơbi, người đã có công giúp Tống Văn Sơ ra khỏi nhà tù Anh ở Hongkong.

74. Linov, 1934. Tại Viện Nghiên Cứu các vấn đề thuộc địa, năm học 1934-1935.

75. Teng Man Huon, 1935.Tháng 8 năm 1935, Nguyễn Ái Quốc tham dự đại hội lần thứ 7 Quốc Tế Cộng Sản. Trong bản kê khai để tham dự đại hội ngày 16 tháng 8, ông có ghi: Họ, tên, bí danh trong đảng hiện nay: Teng Man Huon. Họ tên bí danh trong đại hội: Lin. Thẻ mang số 154 ghi tên: Lin, thuộc Đảng CS Đông Dương.

76. Hồ Quang, 1938. Hoạt động ở Trung Quốc cuối năm 1938. Nhờ quan hệ Liên Sô và Trung Quốc nên Nguyễn Ái Quốc qua Trung Quốc dễ dàng. Tại Lan Châu thủ phủ tỉnh Cam Túc, Tây Bắc Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc mang phù hiệu Bát lộ quân, quân hàm thiếu tá và giấy tờ mang tên Hồ Quang.

77. P.C. Lin (P.C. Line), 1938. Từ Trung Quốc Nguyễn Ái Quốc viết hằng chục bài gửi về nước đăng trên Notre Voix, ký tên P.C. Lin, P.C. Line, Line (đều là của Lin).

78. D.C. Lin, 1939. Bút hiệu D.C. Lin có bài viết trên báo Dân Chúng xuất bản tại Saigon. Báo đăng liên tiếp ba số 46, 47, 48 ngày 21-28 tháng 8 năm 1939.

79. Lâm Tam Xuyên, 1939. Từ Quế Lâm, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi một  đồng chí ở Ban Phương Đông Quốc Tế Cộng Sản, thư đề ngày 20 tháng 4 năm 1939. Cuối thư, sau dòng chữ bằng tiếng Pháp là chữ Hán viết tay: Quảng Tây, Quế Lâm, Quế Tây lộ tam thập ngũ hiệu Tân Hoa nhật báo chuyển giao Lâm Tam Xuyên tiên sinh. (Tân Hoa nhật báo , số nhà 35, đường Quế Lâm, Quế Tây, Quảng Tây, chuyển cho ông Lâm Tam Xuyên.)

80. Ông Trần, 1940. Cuối tháng 2 năm 1940, Nguyễn Ái Quốc với bí danh Ông Trần đến hiệu dầu cù là Vĩnh An Đường ở Côn Minh, Vân Nam, Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức cộng sản Việt Nam ở Vân Nam để từ đó tìm cách trở về nước.

81. Bình Sơn, 1940. Từ 15 tháng 11 đến 18 tháng 12 năm 1940, với bút hiệu Bình Sơn, Nguyễn Ái Quốc viết 12 bài đăng trên Cứu Vong Nhật Báo (Trung Quốc).

82. Đi Đông. Tên này được Nguyễn Ái Quốc kể lại trong bài báo “Đồng Chí Đi Đông” đăng trên Cứu Quốc.

83. Cúng Sáu Sán, 1941. Ngày 28 tháng 1 năm 1941, người dân tại Pác Bó gọi Nguyễn Ái Quốc là Cúng Sáu Sán nghĩa là ông già ở rừng.

84. Già Thu, 1941. Tại hang Pac Bo, cán bộ gọi Nguyễn Ái Quốc là Già Thu. ( ghi chú của người viết: Còn “Chú Thu” dành riêng cho nữ cán bộ người Tầy Nông Thị Ngác, “Chú Thu, Cháu Trưng hay Ngác” trong các sách báo khác hay đề cập tới thì sao?)

85. Kim Oanh, 1941. Bút danh của Nguyễn Ái Quốc ký dưới bài thơ “Phụ Nữ” đăng trên báo Việt Nam Độc Lập, số 104, ra ngày 1 tháng 9 năm 1941.Bài viết nêu những tấm gương anh hùng của phụ nữ Việt Nam từ Bà Trưng, Bà Triệu đến Nguyễn Thị Minh Khai. Kim Oanh kêu gọi chị em phụ nữ cần đòan kết lại  để đấu tranh.

86. Bé Con, 1941. Bút danh Bé Con được ký dưới bài thơ “Trẻ Con” đăng trên Việt Nam Độc Lập, số 106, ngày 21 tháng 9 năm 1941.

87. Ông Cụ, 1941. Các năm 1940-1945, cán bộ cộng sản đồng hành với Nguyễn Ái Quốc thường gọi ông ta là Ông Cụ.

88. Hoàng Quốc Tuấn, 1941. Tên này được các đồng chí của Nguyễn Ái Quốc tự đặt.

89. Bác, 1941. Tên gọi “Bác” xuất hiện từ dịp họp hội nghị Trung Ương lần thứ 8, tháng 5 năm 1941 ở Pắc Bó, Hà Quảng, Cao Bằng.

90. Thu Sơn, 1942. Tháng 1 năm 1942, với bí danh Thu Sơn, Nguyễn Ái Quốc chuyển đến nhà Xích Thắng tức Dương Mạc Thạch tại châu Nguyên Bình, Cao Bằng trong một số ngày.

91. Xung Phong, 1942. Bút danh này Nguyễn Ái Quốc ký dưới hai bài thơ “Tặng Thống Chế Pê Tanh” và “Nhóm Lửa” đăng trên Việt Nam Độc Lập, số 131, ngày 11 tháng 7 năm 1942, số 133 ngày 1 tháng 8 năm1942.

92. Hồ Chí Minh, 1942. Để đánh lạc hướng khi hoạt động tại Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh. Ngày 13 tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh đi Trung Quốc. Ngày 27 tháng 8 năm 1942 tại Túc Vinh Hồ Chí Minh bị bắt. Khi kiểm soát giấy tờ thì thấy thẻ hội viên Hồ Chí Minh là “Hội Ký Giả Thanh Niên Trung Quốc.” Hồ Chí Minh bị phe Tưởng Giới Thạch nghi ngờ là gián điệp cộng sản và bị bắt giải đi giam qua 13 huyện thị của tỉnh Quảng Tây. Ngày 10 tháng 9 năm 1943 Hồ Chí Minh được thả.

93. Hy Sinh, 1942. Với bút hiệu Hy Sinh, Hồ Chí Minh làm bài thơ “Chơi Giăng” đăng trên báo Việt Nam Độc Lập, số 134, ngày 21 tháng 8 năm 1942.

94. Cụ Hoàng, 1945. Cuối tháng 2 năm 1945, Hồ Chí Minh đi Côn Minh với ý định gặp các cơ quan của Mỹ để tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của đồng minh chống phát xít đối với nhóm của Hồ Chí Minh. Khi đến Bixichai, Hồ Chí Minh được giới thiệu là “Cụ Hoàng”. Đây cũng là tên công khai của Hồ Chí Minh trên giấy tờ khi đi giao thiệp.

95. C.M.Hồ, 1945. Hồ Chí Minh ký tên C.M. Hồ dưới thư gửi ông Fenn, ông Tam vào tháng 7 và 8 năm 1945.

96. Chiến Thắng, 1945. Bút danh này Hồ Chí Minh viết bài đăng trên báo Cứu Quốc. Báo này là cơ quan của Tổng bộ Việt Minh, xuất bản số 1 ngày 25 tháng 1 năm 1942. Sau ngày 19 tháng 8 năm 1945, báo này được chuyển về Hà Nội, xuất bản công khai từ số 31 ngày 24 tháng 8 năm 1945. Hồ Chí Minh viết khoảng 400 bài trên báo Cứu Quốc. Bút danh Đ.X. được sử dụng nhiều nhất.

97. Ông Ké, 1945. Chiều cuối tháng 4 năm 1945, Hồ Chí Minh trong bộ áo chàm người Nùng đến chiếc lán ở Pác Tẻng (chân núi Lam Sơn, Cao Bằng) của gia đình đồng chí Hoàng Đức Triều (An Định). Hồ Chí Minh được giới thiệu là “đồng chí Ông Ké.” Với bí danh Ông Ké, Hồ Chí Minh thường họp với Hoàng Quốc Việt, Vũ Anh, Phạm Văn Đồng, Đặng Việt Châu, Dương Đức Hiền, Đặng Văn Cáp.

98. Hồ Chủ Tịch, 1945. Tên này có sau khi tuyên bố có “Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà”.

99. Hồ, 1945. Hồ Chí Minh ký tên Hồ dước các thư gửi các ông Becna và Fenn đề ngày 9 tháng 5 năm 1945 và 9 tháng 6 năm 1945, cám ơn về sự giúp đỡ các học viên lớp vô tuyến điện, nhờ ông Fenn liên lạc chuyển giúp gói quà  có lá cờ của đồng minh đến cho Hồ bằng cách nhanh nhất.

100. Q.T., 1945. Với bút hiệu Q.T. , Hồ Chí Minh viết 10 bài đăng trên báo Cứu Quốc trong các năm 1945-1946.

101. Q.Th., 1945. Với bút hiệu này Hồ Chí Minh viết 14 bài đăng trên báo Cưú Quốc trong các năm 1945-1946. Bài đầu tiên ký tên Q.Th. là “Thế Giới với Việt Nam,” báo số 130, ngày 31 tháng 12 năm 1945.

102. Lucius, 1945. Tên mật do tổ chức OSS đặt cho Hồ Chí Minh khi ông ta làm việc cho cơ quan tình báo OSS của Hoa Kỳ.

103. Bác Hồ, 1946. Nhiều thư ký tên “Bác Hồ” gửi cho các thanh thiếu niên, học sinh.”Bác Hồ” cũng được quần chúng sử dụng rộng rãi, trong sách báo, học đường.

104. H.C.M., 1946. H.C.M. được ký dưới thư gửi cho đồng chí của Hồ Chí Minh là Morixo Tore, tổng bí thư Đảng Cộng Sản Pháp, năm 1946.

105. Đ.H., 1946. Bút danh này Hồ Chí Minh viết tập “Nhật Ký Hành Trình của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Bốn Tháng Sang Pháp”, năm 1946.

106. Xuân, 1946. Trên đường di chuyển từ Hà Nội qua Sơn Tây, Phú Thọ, để trở lại chiến khu Việt Bắc trong những ngày đầu có chiến tranh với Pháp, Hồ Chí Minh đã nghỉ lại ở nhà ông Hoàng Văn Nguyên ở xóm Đồi, xã Cổ Tiết, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ từ ngày 4 tháng 3 năm 1947 đến 18 tháng 3 năm 1947. Thời gian ở đây, Hồ Chí Minh lấy bí danh là Xuân trong các giấy tờ giao dịch.

107. Một Người Việt Nam, 1946. Đây là bút danh của Hồ Chí Minh ký dưới một bài viết “Hoa Việt Thân Thiện”, tháng 12 năm 1946.

108. Tân Sinh, 1947. Bút danh này Hồ Chí Minh dùng trong một số tác phẩm vào các năm 1947-1948, như “Đời Sống Mới”, “Nêu Cao và Thực Hành Cần Kiệm Liêm Chính Tức Là Nhen Lửa Cho Đời Sống Mới,” “Việt Bắc Anh Dũng.”

109. Anh, 1947. Ngày 20 tháng 8 năm 1947, Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Nguyễn Khánh Toàn.

110. X.Y.Z., 1947. Bút danh này được dùng từ 1947-1950 trong các sách “Sửa Đổi Lối Làm Việc”, tháng 10 năm 1947. Sách viết về “xây dựng Đảng” dựa theo cách chỉ dẫn của Lenin. Cũng với bút danh này, Hồ Chí Minh viết bài cho báo Sự Thật vào các năm 1948-1950. Bài “Dân Vận”, số báo 120, ngày 15 tháng 10 năm 1949.

111. A., 1947. Mật danh A., 1947 dùng trong bức thư gửi đồng chí Hoàng Hữu Nam.

112. A.G., 1947. Bút danh A.G. Hồ Chí Minh dùng viết bài trong các năm 1947-1050. “Cán Bộ Tốt và Cán Bộ Xoàng” là bài đầu tiên trên báo Sự Thật, số 77 năm 1947.

113. Z., 1947. Theo cuốn nhật ký của ông Lê Văn Hiến, lúc làm bộ trưởng tài chánh, mật danh Z. là của Hồ Chí Minh dùng trong năm 1947.

114. Lê Quyết Thắng, 1948. “Cần Kiệm Liêm Chính” đăng trên báo Cứu Quốc số ra ngày 30, 31 tháng 5 và 1,2 tháng 6 năm 1949. Sau đó in thành sách cũng với bút hiệu Lê Quyết Thắng.

115. K.T., 1948. Tháng 2 năm 1948, bút danh K.T., Hồ Chí Minh dịch hai bài thơ chữ Hán.

116. K.Đ., 1948. Ngày 2 tháng 5 năm 1948, Hồ Chí Minh dùng bí danh K.Đ. viết thư gửi đồng chí Hoàng Quốc Việt căn dặn về việc ra báo vào tháng 5. Để tuyên truyền, K.Đ. làm bài thơ với danh nghĩa là đội trưởng dân quân du kích Mán và đề nghị đăng bài thơ này chung với thơ của Tố Hữu, Xuân Diệu.

117. G., 1949. G. viết bài mỉa mai bà Tống Mỹ Linh khi qua Mỹ trong bài “Thêu Gấm và Cho Than” đăng trên báo Sự Thật. G. còn các bài viêt khác như “Bệnh Khẩu Hiệu” trên báo Cứu Quốc, ngày 15 tháng 3 năm 1949, số 1191, nêu lên tầm quan trọng của khẩu hiệu trong công tác tuyên truyền, cổ động, và đồng thời cũng không nên đưa ra quá nhiều khẩu hiệu khó hiểu, daì dòng, không thiết thực.

118. Trần Thắng Lợi, 1949. Hồ Chí Minh dùng bút danh Trần Thắng Lợi viết bài “Đảng Ta” đăng trên tạp chí Sinh Hoạt Nội Bộ số 13, tháng 1 năm 1949.

119. Trần Lực, 1949. Bút danh Trần Lực được Hồ Chí Minh dùng trong các năm 1949-1958 và 1961. Trần Lực đã viết gần 70 bài báo và các tác phẩm ngắn như “Giấc Ngủ 10 Năm”, “Liên Xô Vĩ Đại”, “Đạo Đức Cách Mạng”…

120. H.G., 1949. Trên báo Cứu Quốc, Hồ Chí Minh dùng bút hiệu H.G. viết bài “Trở Lại Vấn Đề Thi Đua Ái Quốc”, số 14, ngày 8 tháng 7 năm 1949.

121. Lê Nhân, 1949.  Với bút hiệu này, Hồ Chí Minh viết bài “Thất Bại và Thành Công”, đăng trên báo Sự Thật ngày 19 tháng 8 năm 1949. Bài viết này cho chương mục “Sửa Đổi Lối Làm Việc”.

122. T.T., 1949.  Bút danh này Hồ Chí Minh ký dưới bài viết “Hồ Chủ Tịch và Văn Nghệ”.

123. Đanh, 1950. Bút danh này Hồ Chí Minh dùng trong các năm1950, 1953, với các bài “Thư Ký Mặt Trận Liên Việt Địa Phương”, …

124. Đinh, 1950. Bí danh Đinh, Hồ Chí Minh ký dưới thư gửi Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai, tháng 3, 1950. Cũng bí danh Đinh, Hồ Chí Minh gửi thư cho Đặng Đỉnh Siêu bên Trung Cộng, Trần Canh ngày 9 tháng 10, 1950.

125. T.L., 1950. Bút danh T.L., Hồ Chí Minh dùng trong thời gian 1950-1969, qua gần 250 bài báo đăng trên Sự Thật, Nhân Dân.

126. Chí Minh, 1950.  Ngày 9 tháng 11 năm 1950 khi nghe tin người anh là Nguyễn Sinh Khiêm mất, Hồ Chí Minh viết một điện thư chia buồn dòng họ Nguyễn Sinh. Cuối điện thư, ký tên Chí Minh.

127. CB., 1951. Bút danh này dùng từ 1951-1957 qua gần 700 bài báo đăng trên Nhân Dân. “Người Đảng Viên Lao Động Việt Nam Phải Như Thế Nào”,  trên Nhân Dân, số 2, ngày 25 tháng 3 năm 1951. “Liên Sô Vĩ Đại” báo Nhân Dân, số 12, ngày 21 tháng 6 năm 1951.

128. H., 1951. Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Xuphanuvong (Lào) đề ngày 10 tháng 5 năm 1951, bằng tiếng Pháp, ký tên H.

129. Đ.X., 1951. Bút danh này Hồ Chí Minh dùng từ năm 1951-1955, bài đăng trên báo Cứu Quốc.

130. V.K., 1951. Bút danh V.K., Hồ Chí Minh dùng trong các năm 1951, 1960, 1961. “Bệnh Cá Nhân Địa Vị” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 9 tháng 8, 1951. “Về Sự Lục Đục của Mỹ và Diệm” đăng trên Nhân Dân, số 2818, ngày 9 tháng 12, 1961.

131. Nhân Dân, 1951. Bút danh Nhân Dân đăng bài “Chúc Mừng Ngày Kỷ Niệm Lần Thứ 34 Cách Mạng Tháng Mười”  trên báo Nhân Dân , ngày 5 tháng 11, 1951. “Nhân Dân Việt Nam Chúc Mừng Ngày Kỷ Niệm Đảng Cộng Sản Trung Quốc” đăng trên Nhân Dân, ngày 1-3 tháng 7 năm 1954.

132. N.T., 1951. Với bút danh N.T., Hồ Chí Minh viết bài “Phát Ngôn của Chính Phủ Nhân Tiếp Các Nhà Báo”, ngày 22 tháng 12 năm 1951.

133. Nguyễn Du Kích, 1951. Hồ Chí Minh dùng bút danh Nguyễn Du Kích viết cuốn “Tỉnh Uỷ Bí Mật” dựa vào chuyện của Liên Sô.

134. Nguyên, 1953. Bút danh này dùng trong bài “Thư Từ Việt Nam – Những Con Voi là Những Con Muỗi”, 3/1953, gửi đăng báo Temps Nouveax (Thời Mới,Liên Sô). Hồ Chí Minh gửi thư cho chú Thận (Trường Chinh) ký tên Nguyên.

135. Hồng Liên, 1953. Hồ Chí Minh dùng bút danh phụ nữ viết bài “Nhân Dịp Đại Hội Phụ Nữ Quốc Tế” đăng trên báo Cứu Quốc, số 2362, ngày 19 tháng 6 năm 1953.

136. Nguyễn Thao Lược, 1954. Nguyễn Thao Lược là bút danh Hồ Chí Minh dùng viết bài “Đẩy Mạnh Phong Trào Du Kích”, đăng trên báo Nhân Dân, số ra ngày 16 – 20 tháng 1 năm 1954. Tác giả khẳng định “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng.”

137. , 1954. Hồ Chí Minh lấy bút danh Lê trong bài “Bức Thư Ngỏ Gửi Thủ Tướng Pháp Mangdet Phorangxo”, trên báo Nhân Dân, số 284, ngày 9 tháng 12 năm 1954.

138. Tân Trào, 1954. Bút danh Tân Trào Hồ Chí Minh ký dưới bài “Giải Phóng Đài Loan”, đăng trên báo Nhân Dân, số 218, ngày 25 – 27 tháng 8 năm 1954.

139. H.B., 1955. Hồ Chí Minh dùng bút danh H.B. viết bài “Có Phê Bình Phải Biết Tự Phê Bình”, đăng trên Nhân Dân, số 488, ngày 4 tháng 7 năm 1955.

140. Nguyễn Tâm, 1957. Bút danh Nguyễn Tâm viết bài “Quyển Nhật Ký Trong Ngục của Bác.” Bài này Hồ Chí Minh viết nhân dịp sinh nhật của ông ta, 19 tháng 5 năm 1957.

141. K.C., 1957. Bút hiệu này Hồ Chí Minh dùng các năm 1957, 1958 qua 4 bài báo xung quanh việc Mỹ phóng vệ tinh nhân tạo.

142. Chiến Sỹ, 1958.  Từ 1958-1968, Hồ Chí Minh dùng bút hiệu Chiến Sỹ viết hơn 80 bài báo đăng trên Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân. Đa số các bài viết lên án Mỹ và các bài viết ca ngợi như bài “Thanh Niên Anh Hùng Lý Tự Trọng.”

143. T., 1958. Bút danh T. Hồ Chí Minh dùng viết bài “Phong Trào Vệ Sinh Yêu Nước Đang Sôi Nổi tại Trung Quốc” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 29 tháng 1 năm 1958.

144.Thu Giang, 1959. Hồ Chí Minh ký bút danh Thu Giang trong bài “Bác Đến Thăm Côn Minh” trên báo Nhân Dân, ngày 12 tháng 4 năm 1959.

145. Nguyên Hảo Studiant, 1959. Hồ Chí Minh dùng bí danh này viết thư gửi giáo sư Ivan Duycel (Bungari) ngày 10 tháng 4 năm 1959.

146. Ph.K.A., 1959. Bút danh này Hồ Chí Minh viết bài “Cuộc Nghỉ Hè 2 Vạn 3 Nghìn Cây Số” về chuyến đi thăm và nghỉ hè tại Trung Cộng và Liên Sô, trên báo Nhân Dân, số 2038, ngày 15 tháng 10 năm 1959.

147. C.K., 1960.  Hồ Chí Minh dùng bút danh C.K. viết bài “Bắt Đầu Hai Chữ” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 14 tháng 1 năm 1960, về hạnh cần kiệm để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

148. Tuyết Lan, 1960.

149. Jean Fort, 1960. Hồ Chí Minh dùng bút hiệu Tuyết Lan viết bài “Ba Chai Rượu Sâm Banh” đăng trên báo Nhân Dân, số 2331, ngày 27 tháng 4 năm 1960. Dưới hình thức dịch lại bức thư của một công nhân tên là Jean Fort, ở Algerie, gửi cho tác giả nói về tình cảm của một người bạn quốc tế đối với Nguyễn Ái Quốc thời ký ở Paris và những năm sau này.

150. Trần Lam, 1960. Trần Lam viết bài “Chuyện Giả Mà Có Thật” đăng trên báo Nhân Dân, số 2242, ngày 9 tháng 5 năm 1960. Hồ Chí Minh lấy bút hiệu này viết bài về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Thái Lan.

151. Một người Việt kiều ở Pháp về, 1960. Hồ Chí Minh ký dưới bài  “Vài Mẩu Chuyện Trong Hồi Bác Sang Thăm Pháp.”

152. K.K.T., 1960.  Hồ Chí Minh dùng bút hiệu này viết bài “Tinh Thần Yêu Nước và Tinh Thần Quốc Tế.”

153. T.Lan, 1961. Bút danh T. Lan Hồ Chí Minh dùng trong tác phẩm “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện Một Mình”, đăng nhiều lần trên báo Nhân Dân, tháng 5, 7, 8 năm 1961. Một bài báo khác nhan đề “Bác Ăn Tết Với Chúng Tôi” đăng trên Nhân Dân, ngày 14 tháng 2 năm 1961.

154. Luật sư Th. Lam, 1961. Bút danh này Hồ Chí Minh viết bài “Kính Hỏi Uỷ Ban Quốc Tế Giám Sát và Kiểm Sát” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 5 tháng 8 năm 1961, liên quan về hiệp định Geneve.

155. Ly, 1961.Hố Chí Minh dùng bí danh Ly gửi bức địên đề ngày 13 tháng 12 năm 1961, đến đồng chí Ai dit, chủ tịch Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Indonesia.

156. Lê Thanh Long, 1963. Bút danh này viết bài “Nhân Dịp Mừng Đảng 33 tuổi,” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 4 tháng 2 năm 1963. Hồ Chí Minh viết bài này về Đảng Lao Động Việt Nam và sự giúp đỡ của các Đảng anh em đối với Đảng Lao Động Việt Nam.

157. CH-KOPP (Alabama), 1963. Bút danh này của Hồ Chí Minh viết bài “Chó Mỹ Da Trắng Cắn Mỹ Da Đen” đăng trên Nhân Dân , ngày 30 tháng 4 năm 1963.

158. Than Lan, 1963. Bút danh này Hồ Chí Minh dùng viết bài “Đại Hội Phụ Nữ Quốc Tế,” đăng trên báo Nhân Dân, số 3377, ngày 26 tháng 6 năm 1963. Bài viết về buổi họp phụ nữ tại Moscow.

159. Ng. Văn Trung, 1963.Hồ Chí Minh dùng bút danh này viết bài “Phải Chăng Rồng Lấy Nước”, tháng 6 năm 1963.

160. Ngô Tâm, 1963. Ngày 7 tháng 9 năm 1963, Hồ Chí Minh viết thư gửi Lê Duẩn, ký tên Ngô Tâm.

161. Nguyễn Kim, 1963. Hồ Chí Minh lấy bút danh Nguyễn Kim trong bài “Thư Bạn Đọc” đăng trên báo Nhân Dân,  ngày 7 tháng 12 năm 1963.

162. Dân Việt, 1964. Hồ Chí Minh lấy bút hiệu Dân Việt viết bài “Thư Ngỏ Gửi Ngài Ngoại Trưởng Anh Cát Lợi” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 22 tháng 1 năm 1964.

163. Đinh Văn Hảo, 1964. Bút danh này Hồ Chí Minh viết thư gửi “chủ bút báo Tân Việt Hoa” ngày 2 tháng 5 năm 1964.

164. C.S., 1964. Hồ Chí Minh lấy bút hiệu C.S. viết bài “Chó Mỹ” đăng trên Nhân Dân, ngày 10 tháng 9 năm 1964.

165. Lê Nông, 1964. Bút danh này dùng trong các năm 1964-1966. “Một Mẫu Tây Gặt Được 13 Tấn Thóc”, đăng trên Nhân Dân, từ 15-18 tháng 9 năm 1964.

166. L.K., 1964. Hồ Chí Minh dùng bút danh L.K. viết bài “Báo Chí Anh Lột Trần Âm Mưu của Mỹ ở Việt Nam.”

167. K.O., 1965. Hồ Chí Minh ký bút danh K.O. trong bài “Người Mới Việc Mới” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 10 tháng 9 năm 1965. Bài viết về gương người làm việc tốt được “Bác Hồ” thưởng huy hiệu.

168. Lê Ba, 1966. Bút danh Lê Ba Hồ Chí Minh dùng viết thư “Trả Lời Ông Men Xphin Thượng Nghị Sĩ Mỹ” đăng trên Nhân Dân, số 4407, ngày 30 tháng 4 năm 1966. Bài viết kêu gọi Hoa Kỳ ngưng chiến tại Việt Nam.

169. La Lập, 1966. Hồ Chí Minh dùng bút danh La Lập viết bài “Tổng Giôn Phạm Tội Ác Tày Trời” đăng trên Nhân Dân, số 4508, ngày 10 tháng 8 năm 1966.

170. Nói Thật, 1966. Hồ Chí Minh dùng bút danh này viết 4 bài báo đăng trong báo Nhân Dân năm 1966.

171. Chiến Đấu, 1967.Trong thời gian Hồ Chí Minh chữa bệnh tại Trung Cộng, ông viết 2 bài báo với bút danh Chiến Đấu.  Một bài có tựa “Lại Thêm Một Thắng Lợi To Lớn của Trung Quốc Anh Em”, đăng trên Nhân Dân, số 4823, ngày 24 tháng 6 năm 1967.

172. B., 1968. Ngày 10 tháng 3 năm 1968, Hồ Chí Minh gửi thư cho Lê Duẩn, ký tên B. Nội dung thư liên hệ về việc Hồ Chí Minh đi thăm miền Nam. Trong những năm 60, bí danh B. cũng được dùng để gửi thư các đồng chí trong bộ chính trị.

173. Việt Hồng, 1968. Hồ Chí Minh ký bút danh Việt Hồng viết bài “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện Về Các Mác” đăng trên Nhân Dân, số 5137, ngày 5 tháng 5 năm 1968.

174. Đinh Nhất, 1968. Tháng 5 năm 1964, Hồ Chí Minh đi Côn Minh dùng bí danh này. Hồ Chí Minh gửi thư Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu, ngày 25 tháng 5 năm 1968, cũng dùng bí danh Đinh Nhất.

175. Trần Dân Tiên. Gần đây các nhà nghiên cứu và sưu tầm cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dùng bí danh hoặc bút danh này, tuy nhiên vẫn chưa rõ được dùng vào thời điểm và bối cảnh cụ thể nào.

Hiện vẫn còn khoảng 30 tên gọi, bí danh, bút danh được cho là của Hồ Chí Minh, nhưng chưa có cơ sở để khẳng định chắc chắn hoặc chứng minh cụ thể Bác đã dùng vào thời gian nào, trong trường hợp nào, nên vẫn chưa thể công bố chính thức. Chúng tôi sẽ tiếp tục sưu tầm và giới thiệu đến độc giả.

Nguồn: Ban Tư liệu – Văn kiện – dangcongsan.vn Trích dẫn từ Trang điện tử Nhà Văn hóa Thanh niên TP. Hồ Chí Minh.

Source :
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/nhan-vat-su-kien/175-ten-goi-but-danh-va-bi-danh-cua-chu-tich-ho-chi-minh?fbclid=IwAR3DgMRXdGkgGKvPYTKy3ukIClOtvRB5e9KRJ4RmDIddaR4QWQT8ugwpuCk

Categories
Việt Nam

Khóc một dòng sông…(Tổng hợp một số bài viết về sự khô cạn của sông Cửu Long)


Khóc một dòng sông Mekong
Sông Mekong cạn nước. (Ảnh: Shutterstock)

Đất không một ngày nghỉ ngơi, vắt kiệt sức cho những đồng lúa tăng vụ, sông không một khúc bình yên vì bị chặn đập nắn dòng, sụp lở vì nạo vét cát như những vết thương ăn sâu vào đôi bờ, chưa kể sự ô nhiễm đổ ra con sông từ nhiều nguồn. Biến đổi khí hậu được cảnh báo hàng chục năm trước và nay đã hiện diện rõ ràng, những con đập trên thượng nguồn đã xây dựng và có kế hoạch xây dựng tiếp cũng từ hàng chục năm nay, mùa nước nổi trở nên thất thường về thời gian, về cường độ trong vài năm gần đây… Tất cả là dấu hiệu rõ ràng bệnh tình của sông Mẹ.

Đọc tiếp => Khóc một dòng sông…

Categories
Việt Nam

ANDRE MENRAS VIỆT NAM: TIẾNG GÀO THÉT TỪ BÊN TRONG


ANDRE MENRAS VIỆT NAM : TIẾNG GÀO THÉT TỪ BÊN TRONG

Xin hết lòng cảm tạ quý vị, nữ hay nam, đã phát biểu, đã đón tiếp và tin cẩn tôi. Một lần nữa, tôi xin ca ngợi lòng dũng cảm của họ trong quá khứ và hiện tại, lòng yêu đất nước và nhân dân bất diệt của họ. André Menras- Hồ Cương Quyết (Một người Pháp yêu VN)

Categories
Việt Nam

Nguyễn Cao Kỳ : “Miền Nam Việt Nam cần một lãnh tụ thật sự như Hồ Chí Minh”


Nguyễn Cao Kỳ : Một phó TT VNCH bưng bô Vịt Cộng !

.

Tháng 3/1977, cựu Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ trả lời phỏng vấn của phóng viên Micheal Charlton trong loạt bài Nhiều lý do tại sao: Sự can dự của Mỹ vào Việt Nam (Many Reasons Why: The American Involvement in Vietnam) của Đài phát thanh số 3 thuộc hãng BBC (Anh). Sau đó, tuần báo The Listener đăng lại trên số ra ngày 24/11/1977 ở các trang 670-672 dưới nhan đề: Điều mà miền Nam Việt Nam cần là một người như Hồ Chí Minh (What South Vietnam needs is a man like Ho).

indeNCky`

Dưới đây, chúng tôi trích dịch bài báo và thêm một số chú thích.

– Micheal CharltonChuyện [Ngô Đình] Diệm bị lật đổ và bị ám sát quan trọng như thế nào đối với anh?

Đọc tiếp => Nguyễn Cao Kỳ : “Miền Nam Việt Nam cần một lãnh tụ thật sự như Hồ Chí Minh”

Categories
Việt Nam

Việt Nam tặng thiết bị, vật tư, y tế ‘tốt nhất’ giúp Trung Quốc chống virus Corona


Vũ Hân

“Các trang thiết bị, vật tư y tế mà Việt Nam trao tặng Trung Quốc là số tốt nhất mà Việt Nam có, trong bối cảnh chúng tôi cũng có nhu cầu rất lớn với các vật tư này”, theo Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng.

Theo tin từ Bộ Ngoại giao, chiều 9.2, lễ trao trang thiết bị, vật tư y tế chống virus Corona của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam tặng Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đã diễn ra tại sân bay Nội Bài (Hà Nội).

Đọc tiếp =>  Việt Nam tặng thiết bị, vật tư, y tế ‘tốt nhất’ giúp Trung Quốc chống virus Corona

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

Báo động đỏ: Trung Quốc lừa mua con gái Việt Nam rồi mổ lấy nội tạng


Biên tập viên

Tôi vừa được người bạn tù chuyển cho tôi một clip nguồn “Phục Hưng Việt” về các cô gái Việt khoe thân cho bọn Chệt Hoa Lục về làm vợ tại một địa điểm kín đáo năm 2019. Quí vị vào trang WEB sau đây để xem toàn bộ cái clip này:

Tội ác này đã không còn giới hạn trong phạm vi Hoa Lục, có những đường dây buôn bán nội tạng bất hợp pháp xuyên biên giới, đưa người Tàu Hoa Lục xoay sở kiếm nội tạng ở nước ngoài, cung cấp cho các bác sỹ và bệnh viện cấy ghép nội tạng ở Hoa Lục. Chỉ biết rằng, một số quốc gia là nguồn cấp nội tạng vô tận cho Hoa Lục với giá rẻ mạt, đó là Việt Nam, Campuchia. Do đó, một số người Tàu Hoa Lục sang nước ta, thu mua nội tạng thiếu nữ Việt Nam qua hình thức “hôn nhân”. Nhiều thiếu nữ nhẹ dạ bị rơi vào đường dây buôn bán người để mổ cướp nội tạng.

Đọc tiếp => Báo động đỏ: Trung Quốc lừa mua con gái Việt Nam rồi mổ lấy nội tạng

Categories
Việt Nam

Cận cảnh “phố Trung Quốc” dọc sân bay Nước Mặn Đà Nẵng


Dọc khu vực sân bay Nước Mặn, TP Đà Nẵng có hàng loạt quán ăn, nhà hàng có biển hiệu bằng tiếng Trung Quốc biến nơi đây thành “phố Tàu”.

>>“Phố Trung Quốc” ở Hà Tĩnh

Ngày 20/9, tại buổi tiếp xúc cử tri quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng, ông Nguyễn Quang Vinh, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) TP đã giải trình với cử tri về thông tin “21  trường hợp người Trung Quốc có tên trong quyền sử dụng đất ở khu vực dự án đô thị dọc sân bay Nước Mặn” thuộc quận này. Theo ông Vinh, trên địa bàn quận này có 20 trường hợp doanh nghiệp trong nước có giấy đăng ký chứng nhận quyền sử dụng đất với 20 lô đất, có cổ phần của người nước ngoài.

Ông Vinh lý giải, những người nước ngoài trên không nắm đủ cổ phần để nắm quyền chi phối, theo quy định của pháp luật Việt Nam vì doanh nghiệp trong nước chiếm 51% cổ phần nên có quyền chi phối. Chính vì thế, 20 trường hợp trên đều là doanh nghiệp trong nước nhưng có cổ phần góp vốn nước ngoài.

Trước đó, trong ngày 19-9, tại buổi tiếp xúc cử tri huyện Hòa Vang, ông Tô Văn Hùng, Giám đốc Sở TN-MT TP Đà Nẵng cho hay trước nhiều ý kiến về thực trạng người Trung Quốc mua đất, Bộ TN-MT có chỉ đạo và sở đã tiến hành rà soát. “Hiện nay, trên toàn địa bàn thành phố, đặc biệt là ở khu vực các dự án, đô thị dọc sân bay Nước Mặn (thuộc khu ven biển quận Ngũ Hành Sơn – PV), trong đó khu dọc sân bay Nước Mặn có tất cả 246 lô đất. Qua rà soát, có 21 trường hợp là người Trung Quốc đứng tên” – Ông Hùng nói.

Cũng theo ông Hùng, trước đây, 21 trường hợp này được cơ quan chức năng cấp giấy chứng nhận cho người Việt Nam. “Tuy nhiên, trong trong quá trình khai thác sử dụng thì người ta sử dụng hình thức mua cổ phần và góp vốn. Hiện nay chuyển sang người Trung Quốc đứng tên” – Ông Hùng nói.

Giám đốc Sở TN-MT TP Đà Nẵng cũng khẳng định, việc cấp giấy chứng nhận là hoàn toàn đúng pháp luật còn “có dấu hiệu hay không, có dấu hiệu người Trung Quốc núp bóng hay không” là thuộc về cơ quan điều tra.

Thực tế, vệt đất ven biển thuộc quận Ngũ Hành Sơn, dọc sân bay Nước Mặn, có hàng chục hàng quán, cơ sở lưu trú phục vụ cho người Trung Quốc với các biển hiệu tiếng Trung. Phần lớn các biển hiệu này dưới hàng chữ tiếng Việt đều đi kèm tiếng Trung Quốc.

Dưới đây là hình ảnh tại khu vực sân bay Nước Mặn, nơi được mệnh danh là “phố Trung Quốc”:

Cận cảnh phố Trung Quốc dọc sân bay Nước Mặn Đà Nẵng - 1

 

Đọc tiếp => Cận cảnh “phố Trung Quốc” dọc sân bay Nước Mặn Đà Nẵng

Đọc thêm => Tin Việt Nam

Categories
Việt Nam

VIỆT NAM CÓ NÊN TIẾP TỤC SỢ BỌN GIẶC XÂM LƯỢC TÀU NỮA HAY KHÔNG?


Con Gà Què  FB Azalea Vu

Từ ngàn xưa, đối với Việt Nam, bọn giặc Tàu luôn là kẻ xâm lược ! Cặp mắt cú vọ của Tàu lúc nào cũng rình mò, lăm le để há cái mõm đầy nanh vuốt đòi nhai nát và nuốt trọn Việt Nam !


Nếu chỉ nói riêng về Biển Đông, kể từ ngày được phát giác ra là nơi tràn ngập các tài nguyên phong phú – Đặc biệt là những mỏ dầu – Lòng tham của bọn Tàu đã nổi dậy nên chúng tìm đủ cách chiếm 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, rồi từ đó đẻ ra đường lưỡi bò, chiếm gần hết biển của Việt Nam !

Đọc tiếp => VIỆT NAM CÓ NÊN TIẾP TỤC SỢ BỌN GIẶC XÂM LƯỢC TÀU NỮA HAY KHÔNG?

Categories
Việt Nam

Hà Nội: 1 người dân và 3 cảnh sát chết trong vụ đụng độ ở xã Đồng Tâm


Hình ảnh lan truyền trên mạng xã hội cho thấy đông đảo lực lượng cơ động đang tiến về thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, ngoại thành Hà Nội sáng sớm ngày 9/1/2020. (trái). Người dân Đồng Tâm bắt giữ 38 công an làm con tin rồi thả ra sau đó khi ông Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung có mặt tại địa phương để đối thoại với người dân hồi tháng 4/2017 (phải).

Hình ảnh lan truyền trên mạng xã hội cho thấy đông đảo lực lượng cơ động đang tiến về thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, ngoại thành Hà Nội sáng sớm ngày 9/1/2020. (trái). Người dân Đồng Tâm bắt giữ 38 công an làm con tin rồi thả ra sau đó khi ông Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung có mặt tại địa phương để đối thoại với người dân hồi tháng 4/2017 (phải).

Đọc tiếp…Hà Nội : 1 người dân và 3 cảnh sát chết trong vụ đụng độ ở xã Đồng Tâm
Đọc thêm… Tin Việt Nam

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

Trại “cải tạo” của CSVN sau năm 1975


Nguyễn Cao Quyền

LTS: Ông Nguyễn Cao Quyền từng là một viên chức cao cấp trong chính quyền VNCH. Tốt nghiệp khóa 1 Trừ Bị Nam Định và khóa 51-53 trường Saint Cyr (Pháp), đỗ cử nhân luật và cao học tiến sĩ kinh tế Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1963), thẩm phán Tòa Án Quân Sự, đại tá chánh thẩm Tòa Án Đặc Biệt (1966-1968), cố vấn ngoại giao tại Paris (1968-1974), Nha Thông Tin Báo Chí Bộ Ngoại Giao (1974-1975). Sau năm 1975, ông bị đưa đi tù “cải tạo” (1975-1985), rồi sau đó sang định cư tại Maryland, Hoa Kỳ, từ năm 1990. Ông từng là chủ tịch Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị vùng Hoa Thịnh Đốn, cựu phó chủ tịch ngoại vụ Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, cựu chủ tịch Cộng Đồng Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn (1996-1998). Ông còn viết nhiều bài khảo luận về kinh tế, chính trị được phổ biến rộng rãi.

Những đoạn viết sau đây sẽ trình bày một số sự kiện chính trị đưa dẫn đến việc những quân nhân VNCH bị Hà Nội tập trung “cải tạo,” mô tả chính sách cải tạo của CSVN sau năm 1975 và sau cùng đề cập đến thiện chí của Hoa Kỳ trong việc giải thoát tù “cải tạo” và cho họ cùng gia đình sang sinh sống tại Hoa Kỳ và tại những nước dân chủ trên thế giới.

Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, chỉ trong vòng hai tháng, hàng trăm ngàn quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị đưa vào các trại tập trung “cải tạo.” (Hình: rfa.org)

I-Giai đoạn lịch sử chung của Hoa Kỳ và Việt Nam

Đọc tiếp => Trại “cải tạo” của CSVN sau năm 1975

Categories
Việt Nam

Việt Nam bắt đầu nhiệm vụ Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc


2020-01-03

Hình minh họa. Một cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc hôm 30/4/2019

Hình minh họa. Một cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc hôm 30/4/2019 – AP

Ngày 2/1/2019, Việt Nam chính thức đảm nhiệm vai trò là Chủ tịch luân phiên của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc tháng đầu tiên trong nhiệm kỳ 2020 – 2021 tại buổi lễ diễn ra ở trụ sở của Liên Hiệp quốc (UN) tại New York.

Đại sứ, Trưởng phái đoàn Đại diện thường trực của Việt Nam tại UN Đặng Đình Quý phát biểu tại buổi lễ rằng đây là một vinh dự cho Việt Nam. Ông Quý nói Việt Nam sẽ nỗ lực hết sức để đóng góp vào công việc của Hội đồng Bảo an nhằm bảo đảm việc tuân thủ Hiến chương Liên Hiệp quốc và thúc đẩy chủ nghĩa đa phương. Ông đồng thời cũng bày tỏ mong muốn có được sự ủng hộ của các nước đối với những nỗ lực của Việt Nam không chỉ trong Tháng Chủ tịch mà trong cả thời gian tới.

Trong cùng ngày, Hội đồng Bảo an đã thông qua chương trình làm việc của tháng 1/2020 do Việt Nam đề xuất bao gồm 12 cuộc họp công khai và 15 cuộc họp kín. Các vấn đề được thảo luận bao gồm tình hình Trung Đông, Syria, Yemen, Tây Phi, Sahel, Mali, Libi, Trung Á và Síp.

Đọc tiếp =>  Việt Nam bắt đầu nhiệm vụ Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc

Categories
Việt Nam

Nhậu ! Nhậu ! Nhậu !


82167585_3147822691899307_394199039094030336_n

January 4, 2020

Một buổi nhậu nhẹt. Nguồn: Viet Fun Travel.

NGUYỄN HÒA

Phạt khi say rượu lái xe, nhưng…

Bạn có thể bị phạt đến tám triệu đồng tiền Việt Nam nếu như đang say rượu, hay chưa say nhưng có nồng độ cồn trong máu cao, mà dám chạy xe gắn máy ngoài đường. Xe gắn máy là phương tiện đi lại phổ biến nhất trong các đô thị Việt Nam. Số tiền phạt này khá lớn nếu so sánh mức thu nhập bình quân của một công nhân vùng Sài Gòn là 10 triệu đồng một tháng.

Đó là qui định mới của Luật phòng chống tác hại của rượu bia, có hiệu lực từ ngày 1-1-2020. Đây không phải là lần đầu tiên chính quyền Việt Nam muốn kiểm soát tệ nạn say rượu lái xe, gây tai nạn. Hồi năm 2016 đã có những qui định về nồng độ cồn trong máu khi chạy xe, so với qui định có hiệu lực vào ngày 1-1-2020 vừa qua, thì số tiền phạt được nâng lên gấp đôi.

Đọc tiếp => Nhậu ! Nhậu ! Nhậu !

Categories
Việt Nam

2-3 NĂM NỮA, KHÔNG CÒN CHỖ CHỨA TRO XỈ CỦA NHIỆT ĐIỆN THAN !


TTCT – Các nhà máy nhiệt điện than ở trung tâm nhiệt điện Vĩnh Tân (huyện Tuy Phong, Bình Thuận) và Duyên Hải (Trà Vinh) đang phát sinh lượng tro xỉ rất lớn. 

Những ngày này, đại công trường bãi chứa tro xỉ (tro bay và xỉ đáy lò) rộng khoảng 40ha của Công ty nhiệt điện Vĩnh Tân tấp nập công nhân, xe cơ giới, xe vận chuyển ra vào.

Sẽ không còn chỗ chứa tro xỉ của nhiệt điện than? - Ảnh 2.

Bãi cao gần 30m, chia thành nhiều ô với công suất thiết kế tích trữ khoảng 13 triệu tấn tro xỉ. Đây là nơi tích trữ tro xỉ của 3 nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) Vĩnh Tân 2, Vĩnh Tân 4 và Vĩnh Tân 4 mở rộng.

Hiện nay nhà máy Vĩnh Tân 4 mở rộng đang xây dựng nên lượng tro xỉ mới chỉ phát sinh từ hai nhà máy còn lại.

Tại bãi chứa đã có nhiều ô tích trữ đầy tro xỉ, phần còn lại đang đổ vào san lấp, lu lèn. Công nhân thay phiên phun nước giữ ẩm, tránh bụi phát tán. Tại những ô đã chứa đầy tro xỉ xuất hiện nhiều điểm xói lở do ảnh hưởng của cơn mưa lớn kéo dài thời gian qua.

Đứng trên triền đê bãi chứa này sẽ quan sát được hết các khu dân cư vùng ven và trung tâm nhiệt điện Vĩnh Tân cách đó khoảng 2km. Cạnh đó là bãi chứa tro xỉ của NMNĐ Vĩnh Tân 1 diện tích khoảng 60ha, hoạt động khoảng 2 tháng nay.

Sẽ không còn chỗ chứa tro xỉ của nhiệt điện than? - Ảnh 3.

Một ô chứa trong bãi tại trung tâm nhiệt điện Vĩnh Tân đã tích trữ đầy tro xỉ – Ảnh: ĐỨC TRONG

Theo ông Lý Tư Trí – phó giám đốc Công ty nhiệt điện Vĩnh Tân, lượng tro xỉ tại các bãi chứa hiện nay gần 4,5 triệu tấn.

Đọc tiếp => 2-3 NĂM NỮA, KHÔNG CÒN CHỖ CHỨA TRO XỈ CỦA NHIỆT ĐIỆN THAN !

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

Tội ác của Tố Hữu đối với cái chết của nhà thơ Vũ Hoàng Chương


Thứ Năm, 2 tháng 1, 2020
.

Vũ Hoàng Chương (5 tháng 5 năm 1916 – 6 tháng 9 năm 1976) là một nhà thơ người Việt Nam, với văn phong được cho là sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc thái Đông Phương. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên. Thuở nhỏ, ông học chữ Hán ở nhà rồi lên học tiểu học tại Nam Định. Năm 1931 ông nhập học trường Albert Sarraut ở Hà Nội, đỗ Tú tài năm 1937. Năm 1938 ông vào Trường Luật nhưng chỉ được một năm thì bỏ đi làm Phó Kiểm soát Sở Hỏa xa Đông Dương, phụ trách đoạn đường Vinh – Na Sầm. Năm 1941, ông bỏ Sở hỏa xa đi học Cử nhân toán tại Hà Nội, rồi lại bỏ dở để đi dạy ở Hải Phòng. Trong suốt thời gian này, ông không ngừng sáng tác thơ và kịch. Sau đó trở về Hà Nội lập “Ban kịch Hà Nội” cùng Chu Ngọc và Nguyễn Bính. Năm 1942 đoàn kịch công diễn vở kịch thơ Vân muội tại Nhà hát Lớn. Cũng năm đó ông gặp Đinh Thục Oanh, chị ruột nhà thơ Đinh Hùng và hai người thành hôn năm 1944.

Đọc tiếp =>  Tội ác của Tố Hữu đối với cái chết của nhà thơ Vũ Hoàng Chương