Categories
5 – Sưu Tầm 7 - Trang văn học 8 - Trang Tài liệu Việt Nam

DÙNG DẤU HỎI – NGÃ


TIENG VIET1

“Chữ Việt” Thời Sài Gòn xưa 
DÙNG DẤU HỎI – NGÃ


chỉ nhắc cái cơ bản dễ nhớ để viết chính tả tương đối ổn và hạn chế lỗi ở mức thấp nhất .

1 . DÙNG TỪ LÁY THEO QUI ƯỚC :

– Dấu Hỏi đi với Sắc và Ngang .
– Dấu Ngã đi với Huyền và Nặng .

HỎI + SẮC :

– Gởi gắm , thổn thức , rải rác , khoảnh khắc , rẻ rúng , tử tế , cảnh cáo , sửng sốt , hảo hán , phản phúc , phản kháng , rửa ráy , quả quyết , khủng khiếp , khỏe khoắn , nhảm nhí , lở loét , lảnh lót , bảo bối , thưởng thức , thẳng thắn , thảng thốt , hiển hách , nhỏ nhắn , chải chuốt , rả rích , phảng phất , lả lướt , bổ báng , sản xuất .

– Mát mẻ , sắc sảo , mắng mỏ , vất vả , hối hả , hớn hở , xối xả , bóng bẩy , nóng nảy , sắp sửa , sắm sửa , hớt hải , lấp lửng , khúc khuỷu , tá lả , rác rưởi , trống trải , cứng cỏi , sáng sủa , sến sẩm , xấp xỉ , lém lỉnh , láu lỉnh , ngắn ngủi , chống chỏi , hốt hoảng , rắn rỏi , tức tưởi , chúi nhủi , nhắc nhở , nức nở , sấn sổ , ngất ngưởng , thắc thỏm , thấp thỏm , trắc trở , tráo trở , béo bở , ngái ngủ , gắt gỏng , kém cỏi , khấp khểnh , cáu kỉnh , kháu khỉnh , thất thểu , khốn khổ , tán tỉnh , ngúng nguẩy .

HỎI + NGANG :

– Nhỏ nhen , nhởn nhơ , ngẩn ngơ , vẩn vơ , lẳng lơ , lẻ loi , hỏi han , nở nang , nể nang , ngổn ngang , dở dang , giỏi giang , sửa sang , thở than , mỏng manh , chỉn chu , dửng dưng , trả treo , tả tơi , bỏ bê , mải mê , chở che , bảnh bao , hẩm hiu , phẳng phiu , khẳng khiu , rủi ro , mỉa mai , trẻ trung , nghỉ ngơi , ngủ nghê , tỉ tê , xỏ xiên , ngả nghiêng , đảo điên , hiển nhiên , lẻ loi , thảnh thơi , sản sinh .

– Dư dả , chăm chỉ , năn nỉ , thư thả , thon thả , thoang thoảng , trong trẻo , trăn trở , vui vẻ , thơ thẩn , thanh thản , mơn mởn , xăm xỉa , lêu lổng , hư hỏng , căng thẳng , dai dẳng , xây xẩm , san sẻ , xoay sở , hăm hở , xa xỉ , ngoe nguẩy , phe phẩy , đông đủ , tanh tưởi , chưng hửng , tiu nghỉu , sang sảng , nham nhở , chao đảo , gây gổ , sơ hở , cơ sở , tin tưởng , năng nổ , cưa cẩm , thăm thẳm , đưa đẩy , tưng tửng , say xỉn

NGÃ + HUYỀN :

– Bẽ bàng , vẫy vùng , nõn nà , vững vàng , đẫy đà , phũ phàng , bão bùng , sỗ sàng , vỗ về , rõ ràng , vẽ vời , sững sờ , ngỡ ngàng , hỗn hào , hãi hùng , sẵn sàng , kỹ càng , não nề , khẽ khàng , mỡ màng , lỡ làng .
Gần gũi , liều lĩnh , lầm lỗi , gìn giữ , buồn bã , tầm tã , suồng sã , rầu rĩ , thờ thẫn , hờ hững , sàm sỡ , xoàng xĩnh , phè phỡn , bừa bãi , thừa thãi , nghề ngỗng , lừng lẫy , ruồng rẫy , lờ lững , đằng đẵng , mò mẫm , lầm lũi , nhàn nhã, bằng hữu.

NGÃ + NẶNG :

– Lãng mạn , lũ lụt , hãm hại , nhẫn nhịn , lễ lộc , lỗi lạc , rũ rượi , lưỡng lự , chễm chệ , nhã nhặn , mẫu mực , chững chạc , dõng dạc , dữ dội , cãi cọ , nhão nhoẹt , kẽo kẹt , kĩu kịt , nhễ nhại , rõ rệt , lẫn lộn

– Gọn ghẽ , ngạo nghễ , vạm vỡ , lặng lẽ , lạnh lẽo , bạc bẽo , sặc sỡ , rực rỡ , rộn rã , vội vã , nghiệt ngã , hậu hĩ , hậu hĩnh , ngộ nghĩnh , gạt gẫm , hụt hẫng , dựa dẫm , nhẹ nhõm , bập bõm , chập chững , mạnh mẽ , chặt chẽ , sạch sẽ , ngặt nghẽo , khập khiễng , đục đẽo , ruộng rẫy , giặc giã , giặt giũ , giận dỗi , bụ bẫm , dạy dỗ , gặp gỡ , dụ dỗ , lạ lẫm , rộng rãi , tục tĩu , nhục nhã , dạn dĩ , rạng rỡ , rệu rã .

* TỪ KÉP LÀ TỪ THƯỜNG ĐI MỘT CẶP DẤU HỎI HOẶC NGÃ .

– Lã chã , bỗ bã , bẽn lẽn , bỡ ngỡ , mỹ mãn , dễ dãi , cũn cỡn , lững thững , ngẫm nghĩ , lỗ lã , lẽo đẽo , nhõng nhẽo , mũm mĩm , mẫu mã , vĩnh viễn , nhễu nhão .

– Thỏ thẻ , đỏng đảnh , lẻ tẻ , của cải , lẩm bẩm , lẩm cẩm , lảm nhảm , hể hả , kể lể , nhỏng nhảnh , lủng củng , thỉnh thoảng , lảo đảo , tỉ mỉ , thủ thỉ , lảng vảng , rủng rỉnh , loảng xoảng , hổn hển , lủng lẳng , lỏng lẻo , lải nhải , tủm tỉm , bủn rủn , xởi lởi , tẩn mẩn , lẩn quẩn , thỏn mỏn , chỏn lỏn , giả lả , bải hoải , bổi hổi , lẩn thẩn , lởm chởm , rỉ rả , thủng thẳng , bỏm bẻm , nhỏm nhẻm , xiểng niểng , lẩy bẩy

2 . TỪ NGUYÊN ÂM : DẤU HỎI

Ủa , ổi , ổng , ẩu , ủng , ỷ , ổn , ửng , ổ , ủy , ỏn ẻn , ong ỏng , im ỉm , âm ỉ , ấp ủ , ảo ảnh , ăn ở , êm ả , oi ả , yên ả , óng ả , ẩn ý , an ủi , ỉ ôi , ẩm ướt , ủ ê , uể oải , ít ỏi , ủn ỉn , oan uổng , ăng ẳng , ư ử , oẳn tù tì , ẻo lả , ủ rũ , yểu điệu , ỉu xìu , ảm đạm , uyển chuyển , quan ải , oản xôi , yểm trợ ( trừ : ễnh , ưỡn , ẵm , ỡm )

3 . TỪ HÁN VIỆT BẮT ĐẦU LÀ M , N , NH , L , V , D , NG THÌ DẤU NGÃ , CÁC CHỮ KHÁC DẤU HỎI .

Ghi nhớ 7 chữ này bằng câu “ Mình Nên Nhớ Là Viết Dấu Ngã “
– M : Mỹ nhân , Mẫu giáo , Mã đáo , Mãn nguyện , Mãng xà , Mãnh lực , Mẫn cán , Miễn nhiệm , Mão mũ
– N : Não bộ , Nữ nhi , Noãn hoa , Nỗ lực , Nã ( truy nã )
– NH : Nhẫn tâm , Nhãn tiền , Nhiễu loạn , Nhũ mẫu , Nhã nhạc , Nhã nhặn , Nhuyễn thể , Nhĩ ( mộc nhĩ ) , Nhưỡng ( thổ nhưỡng)
– L : Lão gia , Lễ nghi , Lĩnh hội , Lỗi lạc , Lữ khách , Lãng tử , Lưỡng tính , Lãnh địa , Luỹ thành , Lãm nguyệt , Lẫm liệt
– V : Vãn hồi , Viễn xứ , Vĩ đại , Võ sư , Vũ trang , Vĩnh hằng , Vững chãi
– D : Diễm phúc , Dũng khí , Dưỡng dục , Dĩ nhiên , Dõng dạc , Diễu hành , Dã ngoại , Dã tâm , Diễn thuyết
– NG : Nghĩa hiệp , Ngũ cốc , Ngữ hệ , Ngẫu nhiên , Nghiễm nhiên , Ngưỡng mộ , Ngã ( bản ngã )

4 . HỌ VÀ TRẠNG TỪ : DẤU NGÃ

– Họ Nguyễn , Võ , Vũ , Đỗ , Doãn , Lữ , Lã , Mã , Liễu , Nhữ
– Cũng , vẫn , sẽ , mãi , đã , những , hỡi , hễ , lẽ ra , mỗi , nữa , dẫu …

5 . DÙNG DẤU BẰNG CÁCH SUY LUẬN THEO NGHĨA . Ví dụ :

NỔI – NỖI :

– Chỉ sự trổi lên hơn mức bình thường thì dấu hỏi ( nổi trội , nổi bật , nổi danh , nổi tiếng , nổi mụn , nổi gân , nổi điên , nổi giận , nổi xung , nổi hứng , nổi sóng , nổi bọt , nổi dậy , chợ nổi , nông nổi , làm nổi , trôi nổi , hết nói nổi , chịu hết nổi , gánh không nổi )

– Cái nào mang tính biểu cảm thì dấu ngã ( khổ nỗi , đến nỗi nào , làm gì nên nỗi , nỗi lòng , nỗi niềm , nỗi ước ao , nỗi nhục , nỗi oan , nỗi hận , nỗi nhớ )

NGHỈ – NGHĨ :

– Liên quan đến sự dừng lại một hoạt động thì dấu hỏi ( nghỉ ngơi , nghỉ học , nghỉ việc , nghỉ hè , nghỉ lễ , nghỉ mệt , nghỉ dưỡng , nghỉ chơi , nghỉ mát , nghỉ thở , nghiêm nghỉ , nhà nghỉ , an nghỉ )

– Thể hiện cảm xúc suy nghĩ thì dấu ngã ( nghĩ ngợi , suy nghĩ , ngẫm nghĩ , nghĩ cách , thầm nghĩ , nghĩ quẫn , nghĩ bậy , cạn nghĩ )

MẢNH – MÃNH :

– Cái nào gợi hình dáng thì dấu hỏi ( mảnh trăng , mảnh ruộng , mảnh vườn , mảnh đất , mảnh xương , mảnh sành , mảnh vỡ , mảnh khảnh , mảnh mai , mảnh khăn , mảnh áo , mảnh vá , mảnh tình , mỏng mảnh )

Thể hiện tính chất thì dấu ngã ( dũng mãnh , mãnh liệt , ranh mãnh , ma mãnh , mãnh hổ , mãnh thú , mãnh lực ..)

KỶ – KỸ :

– Gắn với bản thân con người thì dấu hỏi ( kỷ vật , kỷ niệm , kỷ luật , kỷ lục , kỷ yếu , ích kỷ , tự kỷ , vị kỷ , tri kỷ , thế kỷ , thập kỷ )

– Gắn với kỹ thuật , trình độ thao tác thì dấu ngã ( Kỹ nghệ , kỹ năng , kỹ xảo , kỹ thuật , kỹ sư , kỹ nữ , kỹ lưỡng , kỹ càng , kỹ tính , nghĩ kỹ , giấu kỹ , tuyệt kỹ )

CHÚ Ý :

Qui ước cơ bản chứ không tuyệt đối , vẫn có một số từ ngoại lệ không theo qui ước trên như :

HỎI + NẶNG : – Hủ tục, hủ bại.

chữ “nữa” viết dấu ngã trong đa số trường hợp, chỉ khi nói về số lượng chia hai như ” phân nửa”, “một nửa”, thì viết dấu hỏi.
Bài viết có thể hữu ích (有益) cho những ai thường phạm lỗi chính tả “hỏi ngã”. Tuy nhiên, phải nên nói rõ hơn là luật “trắc, bằng” thường đi kèm theo với dấu “hỏi” và “nặng huyền” thì thường đi kèm với dấu “ngã” thì chỉ nên áp dụng với chữ kép “thuần” Việt mà thôi. Còn nếu là những từ kép Hán Việt thì “quy luật” đó không có được hiệu nghiệm cho lắm. Tôi xin cho thí dụ:
Ví dụ như chữ “sản xuất” (產出) ở trên là tiếng Hán Việt và “tình cờ” nó đi theo cái luật “bằng, trắc”. Tuy nhiên, nếu là “cộng sản” (共產) hay “tài sản” (財產) thì nó lại không có hợp với luật “huyền nặng”!

Lý do là vì chữ Hán Việt không hề thay đổi từ “hỏi” sang “ngã” hay ngược lại, khi cái chữ đó đi kẹp với những chữ có những dấu khác nhau.

Một khi chữ “sản” đã được viết với dấu “hỏi” rồi thì cho dù nó có đi kẹp với dấu gì đi nữa thì nó vẫn phải viết với dấu hỏi mà thôi.

Giống như chữ “phản ứng” (反應) thì là đúng với quy luật, dấu “hỏi” đi kèm với dấu “sắc”, nhưng “phản hồi” (反囘) thì không theo quy luật vì viết với dấu hỏi, nhưng lại đi kèm theo với dấu “huyền” !
 

Categories
9 - Trang thời sự Việt Nam

Tô Lâm nhậm chức Chủ tịch nước Việt Nam


Tô Lâm nhậm chức Chủ tịch nước Việt Nam

 BM

Sáng 22/05, 100% đại biểu tham gia biểu quyết, đồng ý miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Công an với đại tướng Tô Lâm.
Người kế nhiệm đại tướng Tô Lâm là thượng tướng Trần Quốc Tỏ, Thứ trưởng Bộ Công an. Ông Tỏ sẽ điều hành hoạt động của Bộ Công an cho đến khi cấp có thẩm quyền kiện toàn chức danh Bộ trưởng.

Trước đó, vào buổi sáng cùng ngày, 472/473 đại biểu có mặt đã thông qua Nghị quyết bầu ông Tô Lâm giữ chức Chủ tịch nước Việt Nam nhiệm kỳ 2021-2026. Đúng 9 giờ, ông Tô Lâm bước lên bục thực hiện nghi lễ tuyên thệ.

Như vậy chỉ trong vòng 3 năm qua, nhà nước Việt Nam đã thay 3 chủ tịch nước khác nhau. Trong đó, 2 cựu chủ tịch nước là ông Nguyễn Xuân Phúc và ông Võ Văn Thưởng bị miễn nhiệm trước khi kết thúc nhiệm kỳ do liên quan đến sai phạm.BMVới cương vị tân Chủ tịch nước nhiệm kỳ 2021-2026, trong bài diễn văn nhậm chức, đại tướng Tô Lâm (67 tuổi, quê huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) nói: “Tôi xin hứa thực hiện nghiêm túc đầy đủ, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước đã được hiến định.”

Trần Thanh Mẫn làm Ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninhBMCũng trong sáng ngày 22/05, Quốc hội thông qua nghị quyết phê chuẩn chức danh Ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh đối với ông Trần Thanh Mẫn, Chủ tịch Quốc hội – người nhậm chức cách đây 2 ngày, vào hôm 20/05.
BMTheo Hiến pháp Việt Nam, Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Phó chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh là Thủ tướng Phạm Minh Chính. Các ủy viên Hội đồng quốc phòng và an ninh gồm 2 ông: Đại tướng Phan Văn Giang (Bộ trưởng Quốc phòng) và ông Bùi Thanh Sơn (Bộ trưởng Ngoại giao).

Hiện lãnh đạo Hội đồng Quốc phòng và An ninh gồm 5 người: Chủ tịch, phó Chủ tịch, và 3 Ủy viên.

Còn Bộ Công an hiện ngoài thượng tướng Trần Quốc Tỏ, có 5 thứ trưởng khác, gồm: thượng tướng Lương Tam Quang, thượng tướng Nguyễn Duy Ngọc, trung tướng Lê Quốc Hùng, trung tướng Nguyễn Văn Long, và trung tướng Lê Văn Tuyến.

Băng Băng

Source : https://baomai.blogspot.com/2024/05/to-lam-nham-chuc-chu-tich-nuoc-viet-nam.html

Categories
6 - Trang lượm lặt Việt Nam

DƯỚI BÓNG MÁT CỦA LÁ CỜ “BA QUE”


11178292_1631677003732354_4281267900250539646_n

DƯỚI BÓNG MÁT CỦA LÁ CỜ “BA QUE”

Bài posted lại lần 2

Thứ Ba, 24 tháng 1, 2023

Bài viết dành cho những kẻ mỗi lần mở miệng là phát ra tiếng “Ba que”

Theo tôi thấy, thì những kẻ hay dùng cái từ 3/// đó thường còn trẻ, đa số chưa đến 60, có nghĩa là vào năm 1975 chỉ còn là con nít. Còn những người lớn tuổi hơn, thậm chí cả đảng viên, họ cũng nói một cách khác. Ngay cả từ Ngụy Quân và Ngụy Quyền cũng đã được chính thức gỡ xuống. Cho rằng họ là những kẻ “chiến thắng” một cuộc chiến đi, nhưng tâm lý mặc cảm thua kém của họ vẫn thể hiện qua rất nhiều mặt. Những giá trị của xã hội thời VNCH vẫn còn đó, làm cho kẻ “chiến thắng” ăn ngủ không yên. Hằng triệu người Bắc di cư vào Nam, sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Hằng triệu người khác vượt biển Đông để từ bỏ chế độ CS sau “chiến thắng” 1975.
<!>
Rồi sau 1975, bao nhiêu triệu người miền Bắc lũ lượt kéo vào miền Nam làm việc và sinh sống. Hà Nội là thủ đô, được đảng CS chăm sóc trước miền Nam những 30 cơ mà? Sao không có làn sóng dân Nam kéo về Hà Nội? Đảng tuyên truyền rằng nhờ Mỹ đổ tiền vô nên miền Nam phồn thịnh! Sao lại bảo là Mỹ ác lắm đem quân vô giết dân Việt.
Điều nào đúng? – Cả hai đều sai!
Nói rằng thiên nhiên miền Nam trù phù hơn. Đó là ngụy biện hoặc là dốt nát. Karl Marx đã sai lầm căn bản ở điểm nầy khi xây dựng lý thuyết Cộng Sản. Theo lý thuyết đó, đất đai và phương tiện sản xuất là suối nguồn của sự giàu có, nên CS không cho tư nhân có quyền sở hữu đất đai và phương tiện sản xuất.
Nhưng thật ra sự phong phú nằm nơi con người, đất nước nào biết chăm sóc và trân trọng con người, đất nước đó sẽ hưởng được sự thịnh vượng. Hãy so sánh Nam và Bắc Hàn. Nam Việt và Bắc Việt cũng không ngoại lệ.
Miền Nam lúc nào cũng bị quân CS đánh phá và khủng bố, chính quyền dân chủ non trẻ với nhiều CS nằm vùng, mà vẫn xây dựng được cuộc sống hài hòa cho người dân. Phát triển mọi mặt từ kinh tế, giao thông công cộng, y tế , giáo dục… Đó là lý do tại sao miền Nam thịnh vượng. Và cái trình độ dân trí đó đã kéo miền Nam vượt lên hẳn so với Hà Nội.
Rồi những người miền nam liều mình vượt biển để tìm con đường sống trong cái chết. Nếu chẳng may bị bắt trở lại thì bị tù đầy với tội danh là “phản quốc”. Khi họ ổn định cuộc sống nơi nước ngoài, gửi những đồng tiền do chính sức lao động của họ về cho thân nhân ở trong nước thì đảng lại gọi họ là “kiều bào”, “khúc ruột ngàn dậm”, nghe sự nịnh nọt trơ trẽn mắc ói! Còn mấy cái mồm tuyên truyền thì kêu đi ra nước ngoài ăn bơ thừa sữa cặn… Nhờ những đồng tiền “bơ thừa sữa cặn” đó mà kinh tế VN vượt qua thời kỳ khô cằn do đường lối kinh tế XHCN, mọi thứ đều quốc doanh hóa, nhà nước quản lý hết… Đến lúc hết thở, nên nhà nước hết hồn, đành buông xả ra gọi là “đổi mới”!
Qua đó, có phải cái bóng mát của VNCH vẫn che cho dân trong những lúc khó khăn đó đến ngày hôm nay?
Vậy đó, Cộng Sản Bắc Việt vi phạm những hiệp ước quốc tế để giành chiến thắng nhưng những giá trị Nhân Bản của VNCH càng lúc càng âm ỉ đốt nóng những trái tim Việt Nam.
Các người cứ dùng lời lẽ sấc xược để tỏ vẻ khinh miệt người khác càng làm lộ rõ các người dốt nát và kém văn hóa mà thôi. Cộng Sản Chủ Nghĩa là đỉnh cao của Xã Hội Chủ Nghĩa. Mà XHCN cũng vỡ tan theo liên bang Sô Viết rồi, còn Thiên Đàng Cộng Sản có nằm mơ cũng không gặp.
Vậy mà các người cố gào 3/// để làm cho mình cao hơn ư? Rất tiếc cái chính nghĩa Cộng Hòa đó vẫn sáng mãi trong lòng dân Việt, nhất là nhân dân miền Nam. Có lẽ phải dùng đến những con số để chứng minh cho thấy cả guồng máy của nhà nước XHCNVN đã và đang sống dưới bóng mát của lá cờ mà họ gọi là 3/// đó.
Các người cứ lục tung hết sổ sách của cái gọi là “chính quyền XHCNVN” lên mà xem tổng ngân sách nhà nước dùng để trả lương cho toàn bộ công nhân viên chức nhà nước là bao nhiêu. Rồi các người xem con số đó có phải chưa bằng một nửa số tiền Việt Kiều gửi về hàng năm, trung bình là 10 tỷ USD, có năm cao hơn. Như vậy các người không ngủ dưới bóng mát của lá cờ vàng ba sọc đỏ là gì?
Tôi sẽ dẫn giải cho các người thấy, cả nước VN từ sau 1975 đến nay vẫn tiếp tục sống dưới bóng mát của lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.
Từ ngày Sài Gòn bị “phỏng giái”, (người dân Miền Nam nói như vậy đó, nói lái là một nét đặc thù trong văn hóa bình dân của dân nam kỳ), thì một mặt trận tiêu diệt Văn Hóa miền Nam được phát động rất quy mô và triệt để. Đó là trận chiến “Tẩy Não” dân Miền Nam, nhằm loại bỏ tư tưởng và ý thức hệ Tự Do Dân Chủ. Tất cả văn hoá phẩm từ sách báo đến âm nhạc đều bị tiêu hủy và cấm đoán. Nhưng làm sao trói buộc được tư tưởng của con người chứ?
Nhà nhà nộp sách đem đốt, việc nầy không khó, nhưng cấm dân miền Nam hát những bản nhạc đã in sâu vào tim vào óc của họ thì quả là không thể được. Khi mọi thứ đã hoang tàn đổ nát kể cả lòng người dân lành, thì những dòng nhạc trữ tình khe khẽ quay trở về như làn gió nhiệm mầu xoa dịu bớt cái nỗi thống khổ của đời thường XHCN. CSVN gọi dòng nhạc đó là “Nhạc Vàng” để cân với dòng “Nhạc Đỏ” sặc mùi chém giết mà giai điệu và tiết tấu mang đậm sắc thái TC. Nhưng tới hiện tại thì họ trở nên ganh tị với cái tên gọi đó, vì nó đích đáng và đúng trên nhiều khía cạnh.
“Nhạc Vàng” không cổ súy chiến tranh mà chỉ biểu lộ những đau thương của con người trong thời chiến. Vậy tại sao người ta cấm Nhạc Vàng? Có phải người ta sợ cái bóng dáng thiên thần dịu dàng và ngọt ngào đầy tình người sẽ làm hiện thân của Ác Quỷ nổi trội rõ nét hơn chăng?
“Nhạc Vàng” một tòa lâu đài văn hóa Việt Nam Cộng Hòa bất diệt, chẳng những không hoen rỉ qua thời gian mà còn lóng lánh hơn như một kho báu cho mọi tầng lớp con dân VN suốt 3 miền và kể cả những kẻ từng lên án, vùi dập lẫn sợ sệt nó. Bao nhiêu người đã khai thác cái kho báu vô tận nầy
“Nhạc Vàng” loài hoa mỹ miều kiêu sa, mọc lên từ bom đạn chiến tranh, tồn tại qua bao sự vùi dập, thể hiện tính Nhân Bản của một xã hội đầy tình người, đáng được trân quý như vàng. Hơn nửa thế kỷ qua, chưa có một đối thủ nào lăm le đứng gần chứ đừng nói là soán ngôi.
“Nhạc Vàng”, một hương vị kỳ diệu, không thể thiếu được khi thưởng thức một ly cà phê ngon hay một chén trà thanh thoát. Một tay guitar và nhạc vàng luôn là tâm điểm cho những buổi nhậu bình dân.
“Nhạc Vàng”, một loại trầm hương hảo hạng cho bất kỳ cuộc họp mặt nào từ quê ra tỉnh, từ đám cưới đến đám tang, từ sân khấu đại nhạc hội hàng ngàn khán thính giả đến quán cà phê dăm ba người cuối phố, thậm chí là niềm giải trí duy nhất trong chốn lao tù….
“Nhạc Vàng”, là ánh lửa rực rỡ của con Phượng Hoàng hồi sinh từ tro bụi sau khi những người nhân danh CSCN đã giết nó bằng mọi khả năng của họ. Ánh lửa đó đã bùng lên, lan tỏa đến từng trái tim của chính những người mang danh hiệu là Đảng Viên ĐCSVN, bất luận là ở đâu, Nghệ Tĩnh, Hà Nội hay Sài Gòn!
Nói mãi về “Nhạc Vàng” VNCH không bao giờ cạn ý.
Nếu những lời lẽ quanh co trên đây chưa thực sự vẽ ra cái bóng mát của lá cờ vàng, chưa chứng minh được âm nhạc VNCH là Vàng ròng 24 kara thì tôi xin được dẫn quý vị vào yếu tố kinh tế của Nhạc Vàng vậy.
Từ hải ngoại đến quốc nội, bao nhiêu doanh nghiệp phát triển nhờ Nhạc Vàng, bao nhiêu ca sĩ thành danh và nên sự nghiệp, bao nhiêu người trở nên giàu có, bao nhiêu công ăn việc làm cho cái kỹ nghệ âm nhạc nầy, từ thời băng từ, đến đĩa từ, CD, kế đến phong trào Karaoke, bao nhiêu kỹ thuật viên, phòng thâu, ca nhạc sĩ, cơ sở sản xuất, phát hành, bán sỉ lẻ, thiết bị âm thanh, ..v.v và v.v…
Bao nhiêu Đại Nhạc Hội, tụ điểm ca nhạc… Biết bao nhiêu ca sĩ, từ Bắc chí Nam đã thành triệu phú đô la nhờ vào cái bị gọi là “Văn Hóa Nô Dịch” đó.
“Nhạc Vàng” đã tham gia với người dân cả nước trong việc mưu sinh hàng ngày, từ quán cà phê, đến hàng loạt xe đò đường dài, đến anh bán kẹo kéo, đến những em bán hàng rong hằng đêm trên phố, đến những người hành khất… Lớp học hát, học đàn nở rộ, tiệm sản xuất đàn guitar gia tăng, quán cà phê nhạc sống, bình dị mà trữ tình ngày càng phổ biến.
Một chiếc điện thoại thông minh, một cái mi-crô không dây, khách ngồi uống nước mía bên vệ đường cũng có thể chia sẻ với nhau một bản tình ca… ấm áp. Cái bóng mát đó càng ngày càng mở rộng ra trên nhiều lãnh vực của cuộc sống và địa phưong, lan dần đến tận các tỉnh miền Bắc… Đó không phải là bóng mát từ nền âm nhạc Việt Nam Cộng Hòa thì là gì, lửa hỏa ngục chăng?
Tôi đã thấy, ca sĩ bậc nhất ĐVH, tranh thủ cho ra mắt 2, 3 album nhạc vàng trong vòng một tháng, hát giành hát giựt, sợ ca sĩ khác hát trước, mất số bán. Như một tên ăn trộm, khám phá ra kho báu, hốt vội hốt vàng, nhạc vàng là vàng ròng đó.
Tôi đã thấy cũng ĐVH hát “Cho một người nằm xuống” , dĩ nhiên là hát để thu tiền, có bao giờ ĐVH nghĩ đến những trái ngọt nầy do ai vun trồng mà nên? Sao không hát cho người thương binh VNCH còn sống vất vưởng ngày hôm nay. Mang danh một điva, một nghệ sĩ , ĐVH nếu có tâm hồn nghệ sĩ, sao không dám một có lần tri ân những người đã nằm xuống để bảo vệ cho thể chế đã sản sinh ra cái kho báu âm nhạc nầy. Phải chăng vì không có tâm hồn mà chỉ hát vì lòng tham nên bị người đời gọi là Ca Nô?
Tôi đã xem video clip của đại ca… sĩ Ngọc Sơn, đại gia từ nhạc vàng, hát trong một hội trường đầy ắp khán giả là quân đội mặc quân phục đại cán, ngực đầy huân chương “cách miệng”. Những ca khúc nhạc vàng cất cao, cả hội trường đứng dậy, hai tay đưa lên cao, đung đưa theo dòng nhạc…
Các vị đa số là đảng viên, các vị chắc đã học tập lý luận nhiều lắm, quý vị có thấy một nghịch lý vô cùng to lớn ở đây không? Hoặc là các vị có thấy xấu hổ trong lòng không? Cái mà quý vị diệt tận, giết sạch ngày hôm qua, thì hôm nay ngồi dưới cái bóng mát của cái “xác khô” VNCH mà chia sẻ hương thơm ngào ngạt của nó.
Các người là kẻ chiếm và thắng, các người hành hạ, chà đạp kẻ thất cơ lỡ vận nhiều rồi, chúng tôi không màng, lịch sử sẽ có lúc trả lại công đạo.
Nếu quý vị mạt sát VNCH thì móc cổ mà ói ra hết những gì quý vị nuốt vô từ nền văn hóa VNCH đi.

Còn như quý vị trơ trẽn, miệng thì mỉa mai: “đu càng, ba que, quần què” mà giành nhau đưa tay vào chấm mút, thật đáng khinh thay!

Hoàng Ngọc Mai

Categories
6 - Trang lượm lặt Việt Nam

VNCH ĐÃ CỨU TRỢ NHÂN ĐẠO CHO MIỀN BẮC TRONG TRẬN LỤT NĂM 1971


434661132_1464942414450125_859600485040280244_n

CHUYỆN ÍT AI BIẾT: VNCH ĐÃ CỨU TRỢ NHÂN ĐẠO CHO MIỀN BẮC TRONG TRẬN LỤT NĂM 1971

Cứu trợ nhân đạo cần vượt qua thể chế, chính kiến, thậm chí “kẻ thù” trong chiến tranh!
Ngày nay chúng ta thường xuyên đọc tin Hàn Quốc viện trợ nhân đạo để cứu đói Bắc Triều Tiên, dù chính quyền Kim Jong Un luôn dùng những lời lẽ thấp kém để nhục mạ cả tổng thống và thể chế chính trị của họ.
Ít người biết chế độ VNCH, ngay trong thời điểm chiến tranh 2 miền khốc liệt, nhưng khi miền Bắc xảy ra lũ lụt cực lớn vào năm 1971, họ đã cho phép báo Tin Sáng (một tờ báo đối lập) lạc quyên ủng hộ đồng bào miền Bắc. Không chỉ vậy, chính quyền VNCH khi đó thông qua Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế, cũng trợ giúp người dân thuộc “kẻ thù” của họ. Trang lưu trữ Thời báo New York còn ghi:
“SAIGON, Nam Việt Nam, Thứ Ba, ngày 7 tháng 9 — Chính phủ Nam Việt Nam đã cung cấp thực phẩm và tiền bạc cho các nạn nhân của trận lũ lụt nặng nề ở miền Bắc Việt Nam ở khu vực xung quanh Hà Nội, Bộ Ngoại giao Sài Gòn thông báo tối qua.
Đây là lần đầu tiên Chính quyền Sài Gòn viện trợ như vậy cho kẻ thù của họ ở miền Bắc.
Thông cáo của Bộ Ngoại giao đã đề nghị 50.000 đô la cho Hội Chữ thập đỏ Quốc tế để mua “những vật phẩm cần thiết cho việc cứu trợ ở miền Bắc”.
Ngoài ra, Nam Việt Nam còn tặng 500 tấn gạo và 1.000 hộp (thùng) sữa đặc nhằm thể hiện sự đồng cảm “tình anh em” giữa hai nửa Việt Nam bị chia cắt.”.
Tất nhiên đây là tầm của một quốc gia, cá nhân thì không đáng nói. Nhưng quyên góp nhân đạo là hành vi bất vụ lợi, vì vậy nếu bạn có lòng bi mẫn thì hãy mở lòng, bất chấp người giúp bạn làm cầu nối với nạn nhân là ai, chính kiến ra sao.
Đó mới thực là Thiện Nguyện!
– Nguyễn Đình Bổn

P/s: Như thường lệ, do bị chính quyền giấu nhẹm nên người dân miền bắc khi ấy hoàn toàn không biết đây là những khoản viện trợ từ VNCH. Cũng giống như Triều Tiên nhận viện trợ Hàn Quốc và chỉ mang ơn “ngài Ủn” thôi.

Categories
6 - Trang lượm lặt Việt Nam

Cuộc Đầu Độc Vĩ Đại Ở Việt Nam


unnamed - 2023-02-22T212335.486Khắp Việt Nam, người dân đang sống với thực phẩm bẩn và thực phẩm tẩm thuốc độc hàng ngày! (Tiền Phong)

Từ bao nhiêu năm nay rồi, quê tôi có những chuyến xe đêm đi thành phố khởi hành lúc một giờ sáng, đến Sài Gòn lúc năm giờ. Có hai loại hành khách thường phải đi xe khuya như vậy: Một là người đi làm thuê và hai là người đi khám bệnh. Đến Sài Gòn lúc năm giờ sáng, người làm thuê kịp giờ đến xí nghiệp và người đi khám kịp vào bệnh viện “bắt số” để xếp hàng. Hành khách đi khám bệnh thường quen nhà xe và quen biết nhau vì họ đi lên đi xuống Sài Gòn tái khám từ năm này qua tháng nọ.

Trên xe, họ trò chuyện thân thiết, hiểu rõ hoàn cảnh gia đình cũng như bệnh tình của nhau, và thường nhắc đến những người bệnh vắng mặt. Cứ dăm ba chuyến xe không gặp thì hiểu là người ấy đã “về nhà” rồi, có nghĩa là về trên chuyến xe chở xác của bệnh viện. Đa số người bệnh trên những chuyến xe khuya ấy đều bệnh ung thư. Quê tôi bệnh ung thư nhiều vô số, đến nỗi có ai đó bị bệnh phải đi Sài Gòn khám là mọi người nói như mặc định “lại ung thư rồi”.

unnamed - 2023-02-22T212515.262Một trong những địa chỉ quen thuộc ở Việt Nam, nơi mỗi năm có hơn 200,000 ca mắc mới; và khoảng 82,000 ca tử vong (NLĐ)
Ở cửa ngõ Sài Gòn hướng miền Tây có Bệnh viện Triều An, gần như đó là bệnh viện dành cho người miền Tây và dành cho bệnh nhân ung thư. Lúc ông Trầm Bê còn đương thời, ông đã dành một khoản từ thiện tài trợ cho bệnh nhân ung thư, bệnh nhân nghèo bệnh nặng được miễn giảm viện phí ở Triều An.

Con sông quê đã hết hiền hòa

Đa số bệnh nhân ung thư ở quê tôi là nông dân. Trong văn chương nghệ thuật, hình ảnh con sông quê luôn đẹp đẽ hiền hòa. Giờ khác rồi, những con sông quê miền Tây vẫn đẹp mà không hiền chút nào. Tất cả ô nhiễm tới nỗi không ai dám tắm sông nữa. Hình ảnh trẻ con bơi đùa trên sông là xưa rồi. Chúng biết sông rất dơ, hễ xuống sông tắm là sẽ bị ngứa, ghẻ lở, nhiễm độc.

Thành phố có công ty vệ sinh đô thị thu gom rác, chứ nông thôn làm gì có, bao nhiêu rác người dân đều thải xuống sông. Cống rãnh đều dẫn ra sông mà không bao giờ và không ai nghĩ đến chuyện xử lý nước thải. Chợ nông thôn hầu hết đều ở ven sông, tan buổi chợ là tất cả rác rến lùa hết xuống sông. Cách đây mươi năm, hầu hết người dân nông thôn đều đi vệ sinh trên cầu cá, tức là đào cái ao nuôi cá tra, phía trên làm cầu tiêu để lấy phân nuôi cá. Tất nhiên là cái ao có đường cống thông ra sông rạch, có nước ra vô. Sau khi cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt ra Chỉ thị 100 cấm cầu cá thì đỡ hơn, nhưng đây đó vùng quê vẫn còn.

unnamed - 2023-02-22T212640.542Sông ngòi miền Tây ô nhiễm kinh hoàng! (RFA)
Dù sao thì rác hữu cơ có dơ chút mà không độc. Những dòng sông quê nhiễm độc là bởi phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, những loại thuốc bảo vệ thực vật cực kỳ độc hại bón trên ruộng lúa, xong rồi xả hết ra sông. Miền Tây trồng lúa ba vụ một năm, đất không có thời gian hồi phục nên phải xài phân thuốc thật nhiều thì lúa mới trúng. Cứ nhìn những doanh nghiệp kinh doanh phân bón, thuốc nông nghiệp giàu lên như thế nào thì đủ biết người nông dân sản xuất lúa toàn bằng phân thuốc.

Khi được sử dụng xong, các chai thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ bỏ lăn lóc bên bờ ruộng hoặc liệng hết xuống sông, hầu như không ai xử lý đúng cách cả. Chúng ta biết là thuốc sâu độc hại ra sao, thuốc diệt cỏ còn hơn vậy. Những người tự tử bằng thuốc sâu thì còn cứu được, chứ uống thuốc cỏ là bó tay luôn. Nông dân biết hết, nhưng họ tỉnh bơ, họ vẫn trữ thuốc độc trong nhà, trong nhà bếp, pha thuốc vào bình xịt xong vứt chai thuốc lăn lóc sau hè. Thậm chí mấy quán tạp hóa ở quê bán thuốc sâu, phân bón chung với thực phẩm luôn.

Mấy anh nông dân than với tôi là mỗi khi đi xịt thuốc về, họ “mắc bịnh” cả tuần chưa hết: Nhức đầu, mệt mỏi, nóng sốt, bải hoải chân tay… Đó chính là tình trạng nhiễm độc thuốc trừ sâu, nhưng họ “quen” rồi, nếu khuyên họ mặc đồ bảo hộ lao động, đeo khẩu trang và kính bảo vệ thì họ không bao giờ nghe, vì “vướng víu khó làm việc”, họ bảo vậy. Những bệnh nhân ung thư tương lai là đây chứ đâu.

Người nông dân đã hết thật thà

Đến nhà nông dân, bạn sẽ thấy họ trồng riêng một mảnh ruộng, một mảnh vườn “đồ nhà”, tức là không bón phân xịt thuốc, để dành riêng nhà họ ăn. Họ biết rõ bón phân xài thuốc là rất độc nhưng họ vẫn làm – để lúa có năng suất cao, rau cải xanh tốt – để bán cho người khác ăn. Riêng gia đình họ khôn hơn, chỉ ăn đồ nhà. Chưa hết, nếu ngày xưa mua gạo về để lâu trong khạp, bạn thấy có mọt. Giờ kiếm không ra con mọt nào đâu, gạo đều đã được xử lý chất bảo quản, để bao lâu cũng không mọt, không mốc. Còn rau cải, người đi chợ có xu hướng tìm rau cải có sâu để bảo đảm không bị xịt phân thuốc, nhưng làm gì tìm ra được. Rau xanh mướt, nhưng đem về nhà để tới chiều là bấy nhầy ra, ủng thối.

Nhà nông bây giờ khỏe re, nuôi heo không còn lo cám gạo rau muống và xắt chuối cây như ngày xưa. Tất cả heo gà vịt cá tôm đều nuôi bằng thức ăn công nghiệp có chất tăng trọng. Đôi khi tôi nghĩ có phải vì thế mà con người cũng béo phì hơn xưa không, ăn thịt toàn chất tăng trọng cơ mà. Tôi có người bạn, con gái làm trang trại nuôi gà công nghiệp. Bạn nói, nó cho gà ăn toàn thuốc và thực phẩm công nghiệp nhập khẩu Trung Quốc, mở đèn, mở máy lạnh cho gà ăn suốt ngày đêm.

Chỉ 3 tuần lễ là con gà to 3-4 kg. Gà không thể đứng nổi, phải nằm ăn, vì xương không phát triển kịp đủ để nâng đỡ trọng lượng. “Bắt con gà lên sẽ thấy nó nặng trịch và thịt cứng ngắc, rất sợ” – bà bạn cho biết vậy. Gà nuôi bằng thuốc rất yếu, dễ chết, chỉ cần cúp điện tắt máy lạnh chừng vài mươi phút là gà ngã ra chết hết luôn. Họ còn nuôi thuốc cho gà đẻ trứng sai, trứng to và đẻ trứng hai tròng đỏ; nhưng con gà đẻ chỉ một, hai lứa là chết vì kiệt sức. Nếu như ở quê tôi không mấy ai ăn thịt gà công nghiệp thì cả Sài Gòn này đều ăn, nhất là các quán cơm gà bình dân bán cho công nhân và sinh viên. Gà vườn giá hai trăm ngàn trong khi gà công nghiệp chỉ khoảng bảy chục ngàn một ký, Người nghèo ăn đồ độc hại là điều đương nhiên rồi.

Người bán thực phẩm, những mụ phù thủy độc ác

Có lần tôi ra cảng cá, thấy cá từ tàu mang lên ướp nước đá nhão nhoét, tôi thắc mắc “Cá như này sao bán được?” Chủ vựa trả lời: Đây mới là cá tươi, bạn hàng mang cá về nhà sẽ “muối” hàn the và ure, hôm sau mang ra chợ thấy cứng sảng, tươi chong chớ mà ăn độc lắm á em.

Hàn the là chất cấm sử dụng trong thực phẩm, là chất độc và lưu trữ vĩnh viễn trong cơ thể mà không bị đào thải qua bài tiết, nhưng người dân quê vẫn sử dụng để bảo quản thực phẩm, làm cho thức ăn tươi lâu, cứng giòn và dai. Chả lụa ướp hàn the sẽ dai ngon và để ngoài nhiệt độ thường hàng tuần lễ không bị hư. Hàn the ướp dưa chuột, dưa kiệu cho giòn, hàn the hay formol dùng trong sản xuất bún, bánh phở cho dai và để được lâu. Người ta còn dùng Tynopal là chất tẩy trắng trong công nghiệp giấy để làm cho bún trắng sáng. Chập tối đi chợ chiều, tôi từng bắt gặp người bán rải từng vốc hàn the lên thớt thịt để giữ thịt có màu đỏ tươi; sáng mai đem ra bán lại, bán hết thịt cũ mới bán tới thịt tươi, trong khi người nội trợ cứ nghĩ đi chợ sớm sẽ mua được thịt tươi ngon, tội nghiệp biết bao!

unnamed - 2023-02-22T212659.689Ngâm thịt thối để biến thành thịt tươi! (NLĐ)

Đi về vùng biển, tôi được bà con ngư dân chia sẻ một bí mật trong cách làm tôm khô. Tôm biển từ tàu đánh bắt xa bờ (đi ít nhất nửa tháng mới về) thì phải ướp để bảo quản. Cá có thể ướp nước đá, nhưng tôm tép thì không bởi tôm ướp nước đá sẽ bị đen đầu. Do đó, ngư dân phải muối tôm bằng hàn the để giữ được con tôm có màu tươi. Vậy là tôm khô biển rất độc hại, bạn chỉ nên ăn tôm biển từ những tàu đánh bắt gần bờ sáng đi chiều về mà thôi.

Cá khô cũng vậy. Bây giờ ra chợ hải sản khô người ta không thấy ruồi. Cả làng cá ven biển phơi cá lớp lớp trên giàn phơi bốc mùi tanh nồng cũng không thấy con ruồi nào đậu vào. Tại sao? Bạn bè miền biển cho tôi biết, gia đình họ tự phơi cá ăn chứ không bao giờ mua ở chợ, vì cá khô bây giờ đều được ngâm “thuốc ruồi”. Đó là một loại hóa chất diệt côn trùng mua từ bên kia biên giới Việt Nam – Campuchia, chỉ cần ngâm cá vào hóa chất, treo lên giàn một đêm là cá khô bán được, không cần phơi nắng, không bị ruồi bu sinh dòi, làm “cá một nắng” bằng cách ngâm thuốc sẽ bảo quản lâu mà không cần đông lạnh gì cả.

Người ta cũng phát hiện nhà kinh doanh hải sản nhuộm ruốc bằng phẩm màu công nghiệp, đó là chất Rhodamine B dùng nhuộm vải, có thể gây ngộ độc cấp tính và gây ung thư. Vàng Ô (Auramine O) là tên thương mại của chất diarylmethane. Đây là chất màu tổng hợp, chỉ được sử dụng trong công nghiệp để nhuộm và dùng để làm màu sơn quét tường. Thế nhưng người Việt dùng chất đó để nhuộm màu vàng cho măng và dưa cải! Và họ dùng oxyt đồng để nhuộm cho dưa chuột ngâm chua giữ được màu xanh tươi.

Ở Sài Gòn, dù thèm sầu riêng đến mấy tôi cũng không mua. Nhiều người giống như tôi vậy. Họ sợ sầu riêng ngâm thuốc. Con buôn đến từng vườn sầu riêng, bao mua hết vườn, trái non trái già gì họ cũng hái hết, rồi ngâm sầu riêng trong thùng hóa chất; vài hôm sau, sầu riêng chín đều, bán được hết. Những loại trái cây khác như táo, nhãn…, họ cũng ngâm hóa chất – gọi là thuốc phì, chỉ một đêm là táo nở to, trái trông rất ngon; long nhãn nở to đến nỗi nứt cả hạt ra.

Chợ Việt hàng Tàu

Khi tôi đi chợ mua rau củ, tôi chỉ mua hàng xấu, củ nhỏ đèo, màu ít tươi. Tôi nói KHÔNG với hàng Trung Quốc. Tất cả rau củ quả, gia vị như cà rốt, khoai tây, củ hành, tỏi, đường, bột ngọt… đều của Trung Quốc. Chợ Việt Nam toàn hàng Trung Quốc. Rau củ Trung Quốc củ to, màu tươi đẹp, bạn mua về để sáu tháng sau không hư hỏng. Và rất rẻ. Chính một chủ vựa hàng légume nói với tôi rằng, “hàng Trung Quốc vừa rẻ, vừa đẹp, để lâu không bị hư, thì chúng tôi (các nhà kinh doanh) tất nhiên là phải mua bán rồi”.

unnamed - 2023-02-22T212714.325Tại chợ Kim Biên, Sài Gòn, muốn mua hóa chất “bảo quản” gì cũng có. Tất cả đều là hàng Trung Quốc (TN)
Khi đến cửa khẩu Tân Thanh, Lạng Sơn, tôi thấy bãi hoa quả Trung Quốc chuẩn bị đưa sang Việt Nam nồng nặc mùi hóa chất bảo quản. Mỗi thùng trái cây có một bịch hóa chất, bạn sẽ không bao giờ thấy nó bởi chủ vựa đã thủ tiêu mất trước khi bán cho người tiêu dùng. Vì vậy, trái cây Trung Quốc không cần bảo quản lạnh vẫn giữ tươi nguyên mấy tháng liền. Dân buôn bán vùng biên giới gọi đó là hàng nóng. Thật bất công khi hàng Việt Nam bán sang Trung Quốc phải là hàng lạnh, trái cây phải được bảo quản bằng xe container lạnh, trong khi hóa chất bảo quản của Trung Quốc bán sang Việt Nam đầy ắp ở chợ Kim Biên, Sài Gòn.

Trong khuôn khổ một bài viết, tôi không biết nói sao cho hết những nỗi khổ của người Việt Nam khi còng lưng làm lụng để rồi phải ăn toàn chất độc, sống trong môi trường nhiễm độc và chết sớm vì bệnh tật. Trung Quốc cung cấp thuốc độc và người Việt đầu độc lẫn nhau, một cuộc đầu độc vĩ đại có thể khiến đất nước và dân tộc này suy tàn, diệt vong.

Thạch Thảo

Categories
5 – Sưu Tầm Việt Nam

TRỊNH CÔNG SƠN – MỘT LOẠI KÝ SINH TRÙNG….


Sau khi miền Nam bị CS cưỡng chiếm thì bao nhiêu sự thật lịch sử đã lần lượt được phơi bày, nhưng chân tướng của Trịnh Công Sơn vẫn còn được một số người cố gắng che dấu. Những người này cố tròng vào cổ Trịnh Công Sơn cái vòng hào quang “Quốc Gia”, họ tiếp tục ca tụng Trịnh Công Sơn là một người quốc gia!
Nhưng có một sự thật hiển nhiên mà họ không thể chối cãi được, là trong suốt cuộc chiến của người Việt Quốc Gia chống lại sự xích hoá của CS Quốc tế, được thực hiện bởi tay sai đắc lực là CS Hà Nội; Trịnh Công Sơn là một tên trốn lính. Chẳng những trốn lính, chẳng những đứng bên lề cuộc chiến, không hề chiến đấu bảo vệ chính bản thân của mình trước làn sóng xâm lăng của CS, Trịnh Công Sơn còn tiếp tay cho công cuộc xâm lăng của CS bằng những bài ca phản chiến!
Vào ngày 30 –4-1975, Trịnh Công Sơn đã lớn tiếng minh định anh ta không phải là người Quốc Gia khi hát bài Nối Vòng Tay Lớn trên đài phát thanh Sàigon để “chào mừng cách mạng thành công” vào lúc xe tăng CS Bắc Việt vừa tới dinh Độc Lập!
Nguyễn Đắc Xuân, một người bạn rất thân của Trịnh Công Sơn, một tay đao phủ của thành phố Huế trong biến cố Tết Mậu Thân 1968, (đệ nhất đao phủ là Hoàng Phủ Ngọc Tường, cũng là bạn rất thân của Trịnh Công Sơn – Trịnh Cung và Đinh Cường), viết rằng:
“Từ sau ngày Trịnh Công Sơn qua đời, nhiều dư luận trong và ngoài nước có khuynh hướng “lôi anh về phía bên này” hoặc “đẩy anh về phía bên kia”. Đối với Trịnh Công Sơn ai lôi anh thì cứ lôi, ai đẩy anh thì cứ đẩy, “kệ”. Trịnh Công Sơn là Trịnh Công Sơn, ai muốn hiểu sao cứ hiểu. Tuy nhiên cuộc đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã thuộc về lịch sử, mà đã là lịch sử thì “bên này” hay “bên kia” phải được chứng minh bằng tư liệu, tư liệu thành văn và tư liệu sống, nói có sách mách có chứng. Không thể phát ngôn về Trịnh Công Sơn theo cảm tính hay theo một định kiến nào….”
(Trịnh Công Sơn, có một thời như thế – Nguyễn Đắc Xuân – nhà xuất bản Văn Học).
Dựa theo những “tư liệu thành văn và tư liệu sống”, Nguyễn Đắc Xuân đã trích lại những điều sau đây do chính Trịnh Công Sơn viết xuống trong quyển sách vừa dẫn:
• Thời kỳ trốn lính
Trước khi sống qua một thời kỳ bất ổn định, tôi đã từng có được hai năm sống thong dong hợp pháp như tất cả mọi người đàng hoàng đứng đắn trên mặt đất. Muốn được thế, tôi đã phải đánh đổi bằng gần sáu mươi ngày nhịn đói tuyệt đối trong hai năm (mỗi năm 30 ngày liên tiếp trước khi trình diện) để đạt được cái mức độ không đủ tiêu chuẩn của một người lính. Nhưng muốn xuống kílô nhanh còn phải không ngủ và uống thêm điamox là một thứ thuốc rút bớt nước trong các tế bào ra. Qua năm thứ ba thì không ra trình diện nữa vì cảm thấy không đủ sức khoẻ để lặp lại cái chế độ ăn uống không có thực phẩm ấy nữa. Trốn lính gần như là một cái “nghề” đầy tính chất phiêu lưu của hàng triệu thanh niên miền Nam lúc bấy giờ. Thái độ phản kháng ấy, dù được nhìn dưới một góc độ nào đó còn mang tính thụ động, vẫn phải được nhắc nhở đến như một nốt nhạc trong trẻo đã ngân lên trong một giai đoạn u ám, nhiễm độc, giữa những đô thị miền Nam.
Tôi đã sống lang thang như một kẻ vô gia cư, vô định trú thứ thiệt. Thời gian không xê dịch nhiều, chỉ kéo dài khoảng ba năm, đó là lúc tôi nhập cư cùng một số sinh viên trốn lính khác đã có mặt trong những căn nhà tiền chế tồi tàn bỏ trống ở khu đất rộng sau trường đại học Văn khoa. Ở đây có một lợi thế là rất hiếm bị khám xét. Vào thời điểm ấy, trên khoảng đất trống lại mọc thêm một cái trụ sở Hội Hoạ Sĩ trẻ bằng gổ, hiện đa số hoạ sĩ vẫn còn có mặt trong thành phố. Giấc ngủ của tôi cứ tùy nghi hoán chuyển từ trên cái ghế bố trong túp lều này qua cái mặt nền xi măng của trụ sở hội nọ. Việc ăn uống đã có hàng quán dọc đường gần đó. Rửa mặt đánh răng thì mỗi sáng vào phòng vệ sinh của những quán cà phê quen thuộc, chỉ có việc mang theo khăn, kem và bàn chải đánh răng.
Thế đấy, nhưng chính những năm này là những năm sôi động nhất của đời tôi.
Sống trong tình trạng bấp bênh như thế tôi vẫn phải làm việc không ngừng để sống. Tôi vẫn viết đều tay và vẫn tiếp tục đi hát. Những ca khúc của tôi được in ra từng tờ rời và từng tuyển tập. Phụ trách công việc in ấn và phát hành đã có người em ruột của tôi, cũng cùng trốn lính, chăm lo. Việc in ấn càng lúc càng khó khăn, nhất là sau khi có lệnh tịch thu của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của tôi. Cảnh sát lúc bấy giờ được lệnh vào tận các nhà in để truy lùng. Thế là phải đổi kế hoạch. Thay vì in trong một nhà in, nay phải rải ra trong ba bốn nhà in khác nhau. Tịch thu nơi này còn nơi khác, và dĩ nhiên, chuyện đi đứng không phải dễ dàng. Đi từ một nhà in ở vùng SàiGòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi.
Sau lệnh tịch thu, tất cả báo chí trong và ngoài nước đều đưa tin . Các hãng thông tấn và truyền hình truyền thanh nước ngoài ào ạt đổ xô về nơi ăn chốn ở rất là “híp pi” đó của tôi càng lúc càng đông. Mỗi ngày trung bình ít lắm cũng phải ba lần phỏng vấn, thu hình, thu mặt. Tôi bỗng trở nên người nổi tiếng bất đắc dĩ. Ban đầu cái sự kiện này cũng mang đến cho tôi chút niềm vui nhưng càng về sau càng trở thành một tai nạn. Họ săn đuổi tôi đến mọi chổ lánh mặt xa xôi nhất. Từ SàiGòn ra Huế, chỉ vài hôm sau đã thấy có mấy mạng người đủ các màu da, xứ sở khác nhau xuất hiện ở cửa. Đời sống bỗng chốc mất đi cái tự do được quyền không nói năng, được quyền ngồi yên tĩnh một mình mà suy ngẫm cho đến nơi đến chốn bao nhiêu điều mình chưa biết trong cõi đời rộng lớn này. Tôi phải sống những khoảnh khắc phù phiếm trên báo chí và trước ông kính ấy cho đến mười ngày trước ngày thành phố được hoàn toàn giải phóng. Giờ đây sau hai mươi năm thành phố đã mang tên Bác, thỉnh thoảng vẫn còn những cuộc phỏng vấn của người nước ngoài, nhưng vó không còn là một nỗi ám ảnh kinh hoàng nữa.
Nghĩ lại chuyện cũ, tôi biết rằng những cái đó có được là do tấm lòng ưu ái của quần chúng đối với mình. Sức mạnh tình cảm của đám đông quần chúng là một trong những tấm khiên che chở mình trước những mối đe dọa và là những kèo cột chống đỡ tinh thần và tình cảm mình được vững vàng trước bao nhiêu khó khăn phức tạp của cuộc sống.
Nhẩm tính lại, tôi đã hùn hạp tất cả vốn liếng của mình vào cái đại gia đình trốn lính vừa tròn chẵn mười ba năm.
Đã qua hẵn rồi cái thời của “bèo giạt mây trôi”, của những giấc ngủ bị săn đuổi.
(sđd tr. 179-183)
Thuở ấy Nhị Xuân, em ở nông trường, em ra biên giới
Đêm Nhị Xuân không còn thấy rõ màu đất đỏ và những bãi mía, bãi dứa cùng lán trại cũng khoác một màu áo khác. Mưa xuống. Hội trường dã chiến như một cái rá lọc nước thả xuống những giọt dài. Chúng tôi (Phạm Trọng Cầu, Trần Long Ẩn và tôi…) cùng anh em Thanh niên Xung phong nam nữ hát với nhau dưới một bầu trời được trang trí lạ mắt như thế . Đêm cứ dài ra và những tiếng hát cứ dài ra. Nước ở con kênh dâng lên. Mặc kệ. Cứ đứng, cứ ngồi, cứ hát. Gần khuya có cô gái Thanh niên Xung phong nhanh nhẹn vui tươi mang cho cho chúng tôi những bát cháo gà trước khi chia tay. Những khuôn mặt ấy, tôi đã quen đã nhìn thấy nhiều lần. Một giờ khuya, lên xe giã từ Nhị Xuân, lòng còn âm vang tiếng cười, tiếng hát. Những bàn tay siết chặt, những cái vẫy trong đêm không nhìn thấy. Quá giờ giới nghiêm, xe dừng lại giữa đường, không được vào thành phố. Ngủ lại chờ sáng. về lại thành phố, trở lại công việc thường ngày. Nhưng ở Nhị Xuân, có hai mươi người con gái Thanh niên Xung phong đi về phía khác. Mấy tháng sau, tôi được tin tất cả hai mươi khuôn mặt tôi đã nhìn, đã gặp đêm hôm nào ở Nhị Xuân cùng nhau ca hát, đã hy sinh ở biên giới Tây Nam. Những tiếng hát giọng cười còn đó. Những cây mía cây dứa các bạn trồng vẫn còn đó , vẫn lớn lên. Tôi bồi hồi nhìn ra quãng trời rộng và thấy lại trong trí nhớ những con người trẻ trung ấy. Trong những trái tim ấy có gì khác chúng ta không. Trong giấc ngủ ban đêm, trên những vầng trán khoẻ mạnh ấy, đã có những cơn mơ nào. Chúng ta nói quá nhiều đến sự tròn đầy và chúng ta quên đi sự mất mát. Chúng ta vẽ ra lắm nụ cười mà quên đi những nỗi ngậm ngùi riêng tư. Những người bạn nhỏ đã ra đi thật vĩnh viễn, nhưng nỗi nhớ thương về họ chưa được hát đủ như một nỗi đau. Còn thiếu sót biết bao nhiêu điều chưa nói hết lúc ở nông trường và càng chưa nói được một mảy may lúc ra biên giới. Làm một điều gì chưa đến chốn với một người không còn nữa, có phải cũng đã là phạm tội với cuộc đời rồi hay không. Xin hãy tha thứ những dòng chữ óng mượt, những sắp xếp tinh khôn, những cân nhắc đong đưa xuôi chèo thuận lái.
(Sđd, chương V: Phát thảo chân dung tôi – Trịnh Công Sơn. Trang 186-188)
Anh Sáu Dân với Trịnh Công Sơn
Hơn hai mươi năm trước, đồng chí Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Văn Kiệt “rủ” Trịnh Công Sơn và tôi đi khảo sát đất Trị An. Từ chuyến đi ấy Trịnh Công Sơn và tôi cũng như một số bạn bè gọi đồng chí Bí thư bằng anh Sáu, anh Sáu Dân rất thân mật. Chuyến đi ấy anh mang đến cho hai đứa tôi về giấc mơ điện “Trị An”. Còn anh, anh không chỉ mơ mà khẳng định quyết tâm và bắt tay tổ chức hiện thực.
Buổi chiều trên đường về mưa gió mịt mù. Trịnh Công Sơn và tôi ngồi trên chiếc xe jeep.
Về đến nhà anh Sáu, áo của Sơn đổi màu mưa bụi. Còn tôi, nhờ có chiếc áo gió, áo trong của tôi còn sạch. Anh Sáu bảo chúng tôi tắm, anh Sáu mang chiếc áo của anh cho Sơn. Chiếc áo ấy Sơn vẫn để trong tủ áo của mình, ít ai biết.
Anh Sáu đánh giá và bình phẩm ca khúc của Trịnh Công Sơn theo cách của anh. Với tôi anh Sáu là một nghệ sĩ, nghệ sĩ với con người chiến sĩ của anh. Không hề có khoảng cách về tuổi tác, về cương vị xã hội, hai người nghệ sĩ ấy đã gặp nhau, đã trở thành một đôi bạn chia sẻ nhiều nổi niềm không thành lời, không thành tiếng. Những năm khó khăn, cơm độn bo bo, có lần anh Sáu gởi gạo đến gia đình Trịnh Công Sơn.
Có một lần anh Sáu tâm sự với Sơn “Anh em trí thức ở thành phố mình bỏ đi nhiều quá. Mỗi người mỗi cương vị, làm sao giữ anh em lại, cùng xây dựng đất nước.” Sau đó Trịnh Công Sơn viết ca khúc “Em còn nhớ hay em đã quên”. Lần thứ hai, anh Sáu nói với Sơn “Trong lúc khó khăn này, làm sao mọi người đều có niềm tin, niềm vui, vượt lên khó khăn để xây dựng Thành phố…” Sau đó, Trịnh Công Sơn cho ra bài “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”.
Sau này anh Sáu về Trung Ương, ở cương vị Phó Thủ Tướng, Thủ Tướng, Cố Vấn BCH Trung Ương Đảng, dù ở cương vị nào, mỗi lần về SàiGòn, ngoài công việc, anh hay gặp gở lại bạn bè. Trong những cuộc gặp gỡ ấy, thường có Trịnh Công Sơn. Những cuộc gặp ấy bao giờ Trịnh Công Sơn cũng ngồi gần anh Sáu, như không thể cách xa nhau. Theo tôi hiểu, ít có người Việt Nam nào đi khắp mọi miền như anh. Anh đến cả những vùng sâu vùng xa đến nỗi, chánh quyền địa phương cũng chưa đặt chân đến.
Anh kể với chúng tôi về những chuyến đi. Rồi ai có sáng tác nào mới, hát cho anh nghe. Trần Long Ẩn chuyên hát lời hai, lời ba. Nguyễn Duy đọc thơ, Trịnh Công Sơn chưa có bài mới thì tùy hứng. Một lần chị Sáu ( vợ anh Sáu) nói “Sao mà tôi thích cái câu – sỏi đá cũng cần có nhau – sâu xa quá!”. Thế là Trịnh Công Sơn cầm đàn hát “Diễm xưa”. Thật khó có người nào hát hay bằng Sơn hát về mình.
Có một lần, tôi kể với Trịnh Công Sơn, anh Sáu nói với tôi rằng anh Sáu vừa nghe đài Hoa Kỳ hai buổi lúc 5h30 sáng, đài Hoa Kỳ bình luận về ba nhạc sĩ lớn của Việt Nam: Văn Cao, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, đài Hoa Kỳ bình luận, ca từ của Trịnh Công Sơn là lời của phù thủy. Họ không giải nỗi ý nghĩa nhiều tầng, nhiều góc ca từ của Trịnh Công Sơn, nên đành phải nói là lời của phù thủy. Anh Sáu thích lắm! Trịnh Công Sơn không ngạc nhiên nhiều về lời bình của đài Hoa Kỳ mà ngạc nhiên :”Anh Sáu theo dõi kỹ vậy à? Thế mà anh em mình không ai biết”.
Anh Sáu quý trọng tài năng của Trịnh Công Sơn và rất yêu con người và tính cách của Sơn có khi hồn nhiên như trẻ thơ.
Có một đêm, anh Sáu rủ Sơn và tôi đến chơi. Anh Sáu mang chai Mao Đài đãi hai chúng tôi. Sơn xỉn. Thế là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bắt đầu dạy Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm chánh trị. ” Anh đi Nhật mà không gọi em là không chính trị. Nhật họ quý em lắm. Anh đi nước ngoài anh phải thế này, thế kia, thế nọ…” Anh Sáu và tôi cứ cười, Sơn thì vẫn cứ thao thao.
Hôm sau tỉnh rượu, tôi lại với Sơn, Sơn ngửa mặt cười:
– Có thật vậy à ? Anh Sáu có giận mình không ?
– Không! Anh Sáu vui!
– Lần sau nhớ nhắc mình nhé!. Tôi thầm nghĩ, Sơn phải là Sơn nhắc làm gì?
Vào một ngày cuối tháng ba năm nay, tôi gặp anh Sáu, anh Sáu hỏi thăm Sơn. Tôi báo anh, Sơn bịnh nhiều, Sơn đang cấp cứu trong bịnh viện. Anh nói:
– Mai mình đi Hà Nội, sau Đại hội Đảng mình về, mình thăm Sơn, các em Sơn. Xem nước ngoài nào chữa được Sơn, mình tạo điều kiện để Sơn đi.
Nhưng không kịp nữa, chiều ngày 1-4-2001 tôi gọi điện thoại cho anh ” Anh Sáu ơi! Sơn mất rồi…” Anh hỏi, anh nói nhưng tôi không nhớ gì, chỉ nhớ ” Đau lòng quá!” và chị Sáu kêu lên ” ….buồn quá…”
Buổi chiều ngày 3-4-2001, vào 18 giờ, tôi nhận được điện thoại của anh, anh chị đi thăm mộ Trịnh Công Sơn đang trên đường về, hẹn tôi ở nhà Trịnh Công Sơn.
Buổi gặp này có anh Sáu, chị Sáu, các em của Trịnh Công Sơn, anh Phạm Phú Ngọc Trai và tôi. Anh hỏi những ngày cuối cùng của Sơn…Anh nói:
– Những năm sau này, Sơn yếu nhưng sức sáng tác của Sơn rất dồi dào. Mỗi lần gặp lại là Sơn có sáng tác mới. Ca từ trong ca khúc sau này của Sơn càng thâm thúy. Ai nghe cũng thấy mình ở trong ấy. Sơn đi là một mất mát lớn, không chỉ cho nền âm nhạc nước nhà mà là còn sự mất mát nhiều mặt của nền văn hóa Việt Nam. Thương và tiếc, tiếc quá! Một mất mát lớn, rất lớn.
Anh Phạm Phú Ngọc Trai thêm một vòng thông tin: ” Nước ngoài đánh giá Trịnh Công Sơn không chỉ là một danh nhân Việt Nam mà còn là danh nhân thế giới”. Anh Sáu trầm ngâm khẽ gật gù.
Tôi nói : ” Lúc sinh thời Sơn vắng mặt chổ này chổ kia, nhưng khi Sơn ra đi, Sơn có mặt khắp mọi nơi”. Chúng tôi đều gặp nhau trong ý nghĩ về Sơn.
Có một lần nhà thơ Nguyễn Duy nói với tôi: ” Với anh Sáu thì mình phục rồi. Riêng tôi có điều phục nữa, anh Sáu là người rất dí dỏm, người biết đùa là người trẻ, người thông minh, mình là người thích nói đùa, mà nhiều khi mình đối đáp không kịp anh ấy!”. Đúng như Nguyễn Duy nhận xét. Lần nào gặp anh, theo từng câu chuyện, lúc nào anh cũng rạng rỡ, nụ cười, giọng cười của anh như kéo mọi người gần nhau.
Buổi gặp gỡ chiều này, tôi ngồi bên anh suốt hai tiếng đồng hồ, tôi không thấy anh cười. Tôi có cảm tưởng Trịnh Công Sơn đã mang theo nụ cười của anh. Anh Sáu buồn, buồn lắm, Sơn có biết không.
5-5-2001
Nguyễn Quang Sáng .
(Trịnh Công Sơn, người hát rong qua nhiều thế hệ – Nhà xuất bản Trẻ, tr. 173-175)
Lý Quý Chung, một nhà báo và là một dân biểu Việt Nam Cộng Hòa, sau ngày 30-4-1975 đã chính thức phô bày bộ mặt thật, có viết về hai chữ “gia nô” như sau:
– Ở miền Nam trước 1975, một người chỉ cần nói đọc báo nào, nghe nhạc gì thì biết ngay người đó là ai, thái độ của người đó đối với chế độ Thiệu và người Mỹ như thế nào và thái độ của người đó đối với cuộc chiến tranh ra sao? Có báo ” gia nô” ( đó là cách gọi của người Sài Gòn trước 1975 đối với loại báo chí của chính quyền Thiệu hoặc theo phe Thiệu )…. ( TCS MTNT tr. 210)
Bài viết của Nguyễn Quang Sáng ghi lại nguyên nhân ra đời của hai bản nhạc ” Em còn nhớ hay em đã quên ” và “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” . Nguyễn Quang Sáng cho biết anh Sáu Dân Võ Văn Kiệt chỉ mới nói vài lời mà Trịnh Công Sơn đã lãnh hội được ý của anh Sáu muốn cái gì và Sơn tự biết mình phải làm cái gì ! Nói theo cách của Lý Quý Chung, đây đúng là hành vi của một “gia nô”. Thiên tài âm nhạc Trịnh Công Sơn sau 1975 đã tự biến hình thành một nhạc – nô viết nhạc theo ý muốn của “trên” để đáp ứng cho nhu cầu tuyên truyền.
Cũng qua bài viết của Nguyễn Quang Sáng, độc giả còn được nhìn thấy cung cách và thái độ của thiên tài âm nhạc họ Trịnh đối với anh Sáu Dân Võ Văn Kiệt . Cái thái độ ấy phải gọi thế nào cho đúng? Bưng bô? Liếm gót?
Riêng cái cung cách của một cán bộ tuyên truyền thì được Trịnh Công Sơn thể hiện rất rõ qua những lời sau đây : ” việc in ấn càng lúc càng khó khăn, nhất là sau khi có lệnh tịch thu của chính quyền Nguyễn văn Thiệu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của tôi …. phải rải ra trong ba bốn nhà in khác nhau….chuyệân đi đứng không phải dễ dàng…..đi từ một nhà in ở Sàigòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi….”
Nếu chính quyền Nguyễn văn Thiệu tịch thu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của Trịnh Công Sơn, thì chính quyền nào cấp giấy thông hành cho ca sĩ Khánh Ly sang Nhật hát bản Diễm Xưa của họ Trịnh tại hội chợ quốc tế Expo Osaka năm 1970? Chẳng lẽ đó là chính quyền Hà Nội?
Nếu chính quyền ông Thiệu ra lệnh tịch thu toàn bộ các tập ca khúc, thì tại sao các tập ca khúc của Trịnh Công Sơn với hình bìa do Trịnh Cung, Đinh Cường vẽ, vẫn được bày bán công khai tại các nhà sách ở Sài Gòn, ai muốn mua bao nhiêu cũng có ?
Nếu chính quyền ông Thiệu tịch thu toàn bộ băng nhạc thì tại sao ” nhạc Trịnh ” vẫn vang dội tại các quán cà phê ở Sài Gòn, tại các câu lạc bộ quân trường? Khánh Ly vẫn nhởn nhơ trình diễn nhạc Trịnh tại Queen Bee hàng đêm, và nhạc Trịnh vẫn được hát tại câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc trong trại Phi Long-Tân Sơn Nhất vào mỗi cuối tuần?
Và đây mới là chuyện lạ bốn phương: ” đi từ một nhà in ở Sài Gòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi …” Đây là thời điểm nào? Trước 30 tháng 4 năm 75 hay sau ngày ” giải phóng”?
Chính quyền Thiệu đã đặt nhiều trạm kiểm soát như thế, mà người em ruột của Trịnh Công Sơn phụ trách phần in ấn và phát hành thường lui tới ba bốn nhà in hàng ngày mà vẫn không bị cảnh sát bắt vì tội trốn lính ?
Căn cứ vào những tài liệu “thành văn” và tài liệu “sống”, hầu như ai cũng biết rằng, thiên tài âm nhạc của họ Trịnh có cơ hội nẩy nở và thăng hoa là nhờ môi trường tự do, khai phóng của miền Nam dưới hai thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa. Chính nhờ sự rộng lượng bao dung của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và sư che chở của một số sĩ quan cao cấp của QLVNCH mà họ Trịnh mới sáng tác được trên dưới 600 nhạc phẩm. Cũng chính chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã đem bài Diễm Xưa đến Hội Chợ Quốc Tế Osaka 1970 để rồi họ Trịnh mới chiếm giải nhất về Dân Ca và được người Nhật thực hiện trên đĩa vàng. Bài hát Nối Vòng Tay Lớn được sử dụng trong các buổi sinh hoạt, họp mặt của thanh niên, sinh viên …..
Tóm lại, danh vọng và tiếng tăm mà họ Trịnh có được là nhờ ở chế độ Việt Nam Cộng Hòa và những sĩ quan cao cấp trong QLVNCH đã cưu mang và che chở cho họ Trịnh. Nói một cách dễ hiểu hơn, Trịnh Công Sơn đã sống như một loại ký sinh trùng trong lòng hai chế độ Cộng Hòa miền Nam.
Ký sinh trùng như giun, sán sống trong ruột của con người, nhờ hấp thụ chất bổ dưỡng tích tụ trong ruột non của con người mà chúng nó mới sống khoẻ sống mạnh và sinh sôi nẩy nở. Thiên tài âm nhạc của Trịnh Công Sơn sẽ không thể phát triển và thăng hoa nếu không ký sinh trong môi trường tự do khai phóng của Việt Nam Cộng Hòa, cho dù đang ở trong giai đoạn chiến đấu chống xâm lăng cộng sản. Và trong lúc Trịnh Công Sơn trốn tránh trách nhiệm, sống như một loài ký sinh trùng giữa đô thị để viết những bài ca phản chiến thì hàng triệu thanh niên cùng lứa tuổi đang hy sinh xương máu tại các chiến trường miền Nam trong từng giây, từng phút.
Đúng với lẽ công bình của trời đất và lương tâm con người, Trịnh Công Sơn đã mang một món nợ rất lớn đối với những người đã chết để họ Trịnh được hít thở không khí tự do cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Những người ấy đã nằm xuống để họ Trịnh được sống, để họ Trịnh được có cơ hội nói ra những lời vô ơn bạc nghĩa và thực hiện những hành vi phản bội trong ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhiều người miền Nam từng coi Trịnh Công Sơn là thần tượng, từng ngưỡng mộ thiên tài âm nhạc của họ Trịnh đã ngỡ ngàng và đau đớn biết bao nhiêu khi nghe Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh kêu gọi mọi người cùng hát bài Nối Vòng Lay Lớn để ” chào mừng cách mạng thành công ” giữa lúc Sài Gòn đang trong cơn hấp hối !
Nhiều người vẫn chưa quên giọng hát hồ hởi, tiếng vổ tay đánh nhịp dồn dập đầy sự phấn khởi của họ Trịnh trong ngày uất hận, đau thương và đen tối nhất của lịch sử dân tộc!
Trong ngày đen tối đó, họ Trịnh đã công khai bội phản những người từng cưu mang, dung dưỡng, che chở cho anh ta; minh thị phản bội những “tấm lòng ưu ái của quần chúng đối với mình “!
Nếu Trịnh Công Sơn không phải là một con người có tâm địa phản trắc thì Trịnh Công Sơn là con người gì?
Hãy nghe Trịnh Công Sơn định nghĩa: “trốn lính là một hành động phản kháng.”
Trốn lính vào thời điểm cộng sản đang tiến chiếm miền Nam là một hành động phản kháng, vậy thì Trịnh Công Sơn muốn phản kháng ai và phản kháng điều gì? Có phải là phản kháng chế độ Việt Nam Cộng Hòa đang dung dưỡng họ Trịnh, phản kháng những nổ lực của quân dân miền Nam đang ngăn chận làn sóng đỏ để bảo vệ cơm no áo ấm cho 25 triệu đồng bào, trong đó có cá nhân và gia đình của Trịnh Công Sơn ?
Thiên tài âm nhạc của Trịnh Công Sơn thật ra không ai phủ nhận, nhưng cái thiên tài ấy đã phản bội chính nghĩa quốc gia, tiếp tay với chế độ phi nhân, tiếp tay với những con người không còn lương tri đã đối đãi với đồng bào ruột thịt như kẻ thù không đội chung trời; cái thiên tài ấy đã góp phần gây ra tai họa khủng khiếp cho dân tộc, đẩy đất nước xuống hố diệt vong. Vậy thì cái vòng hào quang Quốc Gia mà ai đó cố choàng cho Trịnh Công Sơn là không có thật, không bao giờ có thật. Thật sự trong tận cùng tim đen, Trịnh Công Sơn cũng không hề muốn đội cái vòng hào quang Quốc Gia ấy.
• Một lần nữa, hãy nghe họ Trịnh khẳng định chổ đứng :
– Con kênh này sẽ kêu gọi những con kênh khác ra đời. Kênh chị, kênh em sẽ mọc lên cùng khắp để góp phần lợi ích cho những con người mới trong một thời đại mang tên Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam { sđd, tr.170 : Nam Thạch Hãn những ngày đầu tháng ba (1979 ) }
– Trốn lính gần như là một cái ” nghề ” đầy tính chất phiêu lưu của hàng triệu thanh niên miền Nam lúc bấy giờ. Thái độ phản kháng ấy, dù nhìn dưới góc độ nào đó còn mang tính thụ động, vẫn phải được nhắc nhở đến như một nốt nhạc trong trẻo đã ngân lên trong một giai đoạn u ám, nhiễm độc, giữa những đô thị miền Nam.
( sđd,tr.180 )
Giai đoạn mà Trịch Công Sơn cho rằng ” u ám, nhiễm độc ” đó, như đã nói ở trên, chính là giai đoạn mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang ra sức bảo vệ tự do no ấm cho 25 triệu đồng bào miền Nam, chống lại công cuộc xích hóa của CS quốc tế mà Hà Nội là tay sai. Trốn lính trong giai đoạn ấy chỉ có những loại người sau đây: hèn nhát, ích kỷ và CS nằm vùng.
Cho rằng có ” hàng triệu thanh niên miền Nam trốn lính” vào thời bấy giờ, Trịnh Công Sơn đã mặc nhiên hòa nhịp theo cung điệu tuyên truyền của các cán bộ cộng sản, loại cán bộ đã huênh hoang ” lên lớp” những sĩ quan QL/VNCH trong các trại tù cải tạo rằng: máy bay của ta nấp ở trên mây, đợi lúc máy bay địch xuất hiện thì bất thần bay ra nghênh chiến…
Gọi hành động trốn lính là một ” thái độ phản kháng”, Trịnh Công Sơn muốn xác định rõ ràng anh ta không phải là người Quốc Gia.
Gọi hành động trốn lính là ” một nốt nhạc trong trẻo trong giai đoạn u ám, nhiễm độc…”, Trịnh Công Sơn muốn minh định rõ ” thiên tài âm nhạc ” họ Trịnh không thuộc Việt Nam Cộng Hòa mà thuộc về ” thời đại mang tên Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam “!
Qua những tài liệu sống và những tài liệu thành văn, Trịnh Công Sơn là tổng hợp của:
– Một kẻ ích kỷ
– Một tên hèn nhát trốn lính
– Một tên nằm vùng
– Một loại ký sinh trùng
– Một kẻ phản bội
– Một tên lừa dối
– Một tên ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản
Trước lịch sử, Trịnh Công Sơn đã hiện nguyên hình. Không nên bóp méo lịch sử bằng cách choàng lên đầu Trịnh Công Sơn vòng hào quang Quốc Gia không hề có thật; cũng đừng hô biến ” Nối Vòng Tay Lớn ” trở thành một biểu tượng đoàn kết đấu tranh dân chủ, trong khi bài hát ấy đã được tác giả của nó hát lên để đón mừng cái chế độ phi nhân bóp họng dân chủ !
Phải trả lại sự thật cho lịch sử./.
BB & LIÊM

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

60 tấm ảnh màu đẹp lộng lẫy của biệt thự cổ Đà Lạt


Đọc/Xem hình tại link này :

Những tấm ảnh màu đẹp lộng lẫy của biệt thự cổ Đà Lạt

Categories
Việt Nam

Vua Bảo Đại có cống hiến gì cho nước Việt Nam?


Bài Sưu tầm trên FB, không biết tác giả

Lịch sử sẽ phải viết lại. Từng sự kiện, nhân vật đều phải được trả về đúng giá trị. Lịch sử phải là SỰ THẬT, nghiêm cấm mọi cá nhân, tổ chức…bóp méo LỊCH SỬ!.

Vua Bảo Đại có cống hiến gì cho nước Việt Nam?

107043441_662392561027871_5029736361318462842_n

  • Ông là người có những cải cách mới cho triều đình nhà Nguyễn.

– Ông bãi bỏ các vị thượng thư già cả lạc hậu thay bằng những người trí thức mới.

– Ông phế bỏ chế độ thái giám vô nhơn tánh, bỏ thủ tục quỳ lạy vua.

– Ông giải tán tam cung, lục viện để hàng ngàn phụ nữ tự do.
– Ông mở rộng ngoại giao với các quốc gia trên thế giới như Campuchia, Trung Hoa Dân Quốc, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi, Lào, Anh Quốc, Pháp quốc, Ý Đại Lợi, Thái….

– Năm 1945, ông lợi dụng Pháp bị đảo chánh yêu cầu người Pháp trả lại độc lập cho VN sau gần 100 năm cai trị.

– Ông và Trần Trọng Kim tiếp tế cứu đói trong trận đói năm Ất Dậu.

– Năm 1948, ông yêu cầu Pháp trả lại sáu tỉnh Nam kỳ cho VN bị bảo hộ từ ngày cụ Phan qua xin chuộc bất thành mà tự vận.

– Từ đó, ông thành lập quốc gia Việt Nam với các cải cách dân chủ, lập quân đội, lập nội các, thủ tướng, giáo dục, và viết Hiến Pháp đầu tiên cho quốc gia VN độc lập.

– Ông thành lập trường Võ Bị Đà Lạt năm 1948.

– Năm 1949, ông điều hành quốc gia VN và tham gia liên hiệp quốc và được chấp thuận là một quốc gia hợp pháp trong khi VNDCH bị bác đơn.

– Ông đại diện quốc gia Việt Nam độc lập gia nhập Liên Hiệp Quốc Tế Viễn Thông năm 1952 bao gồm vô tuyến, viễn thông, và chọn đầu số điện thoại ở Nam kỳ là (+84).

– Ông thành lập Ngân Hàng quốc gia Việt Nam vào tháng 1 năm 1955 tại bến Chương Dương. (Sau chánh quyền VNCH tiếp quản vẫn để nguyên tên NGÂN HÀNG QUỐC GIA VIỆT NAM.

– Ông dựa vào uy tín của mình kêu gọi quốc tế viện trợ đưa hơn một triệu dân Bắc kỳ vô Nam tỵ nạn cộng sản năm 1954.

Và hơn hết trong gần 20 năm trị vì ông chưa hề làm đổ máu một người con dân Việt Nam nào…

– Năm 1954, ông không tham dự hiệp Genéve chia đôi đất nước vì ông không muốn nhìn thấy quốc tế chia cắt đất nước của ông và cũng không muốn nhận lấy “một nửa mảnh sơn hà rách tả tơi” khi Pháp trao trả đất nước lại cho Quốc Chủ của ông.

Vua Bảo Đại đặt dân tộc Việt Nam trên ngai vàng của ông. Thà làm dân nước Tự Do hơn làm vua nước nô lệ.
Và còn rất nhiều việc tốt mà ông đã làm cho đất nước của ông vào thời của ông.

Copied từ FB Phan Ngoc Minh
(Bài cần chia sẻ rộng rãi để giáo dục bò đỏ, dư luận viên.)

Categories
Việt Nam

Nguyễn Phú Trọng và ĐCSVN khẳng định là chư hầu của Trung Quốc


Tác giả: Nguyên Thạch – FB Nguyên Thạch

107377512_161173872190068_1855673963866948807_n

Hãy nghe bà Nguyễn Nguyên Bình – Phó viện trưởng các vấn đề phát triển Việt Nam – đã nhận định hành động của Nguyễn Phú Trọng qua việc Đại hội ĐCSTQ lần thứ 19 rằng: “Ông Tập Cận Bình vừa rồi có đọc bài diễn văn nói quá rõ tham vọng xây dựng lại trật tự thế giới mới trong đó có vấn đề ông quyết tâm lấy Biển Đông của Việt Nam”. Bà Bình còn tiếp: “Tập Cận Bình nói rõ những mưu đồ, mà mình lại sang (triều kiến) thì theo tôi cũng như một số các dư luận có quan tâm thì người ta thấy đấy là một sự tiếp tục tỏ thái độ như là chư hầu.”

Ông Hoàng Bình Quân đặc sứ của Việt Nam, trưởng Ban đối ngoại của ĐCSVN và là đặc phái viên của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Bắc Kinh để chúc mừng thành công của Đại hội thứ 19 của ĐCSTQ, bên cạnh việc chúc mừng, ĐCSVN còn mong muốn có sự hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc, trong khi đó trong diễn văn phát biểu khai mạc Đại hội đảng 19, ông Tập nhấn mạnh lại công tác này là tiến triển vững chắc. Nghĩa là ông Tập gởi thông điệp muốnthể hiện quyết chí chiếm trọn Biển Đông mà trong đó phần lớn diện tích biển và đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Sự biểu hiện trắng trợn của TBT (Thằng Ba Trợn) Nguyễn Phú Trọng trước những chuỗi Hiệp định song phương, Hiệp thương về đất liền và vịnh biển, đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt bất bình đẳng mà thiệt thòi lớn luôn nghiêng về phía Việt Nam. Hơn thế nữa Trung cộng đã ngang nhiên cướp chiếm 7 đảo của VN: Châu Viên, Vành khăn, Chữ Thập, Gaven, Tư Nghĩa, Subi và Gạc Ma. Các điểm này Trunng cộng đã và đang xây dựng các căn cứ quân sự kiên cố, sân bay hiện đại, các kho chứa nhiên liệu cũng như kể cả các hầm chứa hỏa tiễn đạn đạo, đồng thời nêu rõ quyết tâm chiếm cho bằng được Biển Đông như chính bản thân người có quyền lực cao nhất Trung cộng cũng đã nói rõ: “Hoạt động cải tạo, bồi lắp lên những đảo nhân tạo tại Biển Đông của Trung Quốc tiêu biểu cho sự quyết đoán ngày càng tăng của Bắc Kinh tại Biển Đông dưới nhiệm kỳ đầu của chủ tịch Tập Cận Bình. Trong diễn văn phát biểu khai mạc Đại hội đảng 19, ông Tập nhấn mạnh lại công tác này là tiến triển vững chắc.” (1) Đây là sự lộ liễu chạy theo giặc, nối giáo cho giặc mà Nguyễn Phú Trọng đã không xem ai ra gì.

Nguyễn Phú Trọng không trọng dân thì đã đành vì đó là bản chất của những tên độc tài và cộng sản nhưng hắn còn không xem ĐCSVN là cái thể thống chi cả. Trong trường hợp này, tập thể đảng viên ĐCS bất luận là chức vị lớn hay nhỏ đều phải có phản ứng:

1- Hãy luận tội Nguyễn Phú Trọng tên phản quốc, bán đứng đất nước biển đảo hùa theo giặc nhằm thôn tính Việt Nam. Đưa y ra đại hội đảng và định tội cũng như xử lý theo pháp luật dành cho những tên bán nước phản bội lại dân tộc.

2- Cúi mặt lặng im và coi như đồng lõa với tên phản quốc, nghĩa là toàn bộ ĐCSVN cũng thỏa thuận việc bán nước cho Trung cộng.

Trước khi là một đảng viên ĐCS thì các đảng viên này là người Việt Nam. Nếu là một người yêu nước, có trách nhiệm và bổn phận của những công dân thì các vị sẽ tự quan tâm đặt câu hỏi và phải có câu trả lời thỏa đáng.

Dưới trướng của tên Thái thú Nguyễn Phú Trọng còn có cả đám đồ đệ được Trọng và Trung Nam Hải bảo trợ như: Lê Chí Vịnh, Hoàng Trung Hải, Tô Lâm ở Bộ chính trị, Ngô Minh Tiến cùng nhiều quan chức các ngành các cấp khác ở trung ương cũng như địa phương với chỉ thị một mực thuần phục Bắc triều.

Hãy nghe bà Nguyễn Nguyên Bình Phó viện trưởng các vấn đề phát triển Việt Nam đã nhận định hành động của Nguyễn Phú Trọng qua việc Đại hội ĐCSTQ lần thứ 19 rằng: “Ông Tập Cận Bình vừa rồi có đọc bài diễn văn nói quá rõ tham vọng xây dựng lại trật tự thế giới mới trong đó có vấn đề ông quyết tâm lấy Biển Đông của Việt Nam”. Bà Bình còn tiếp: “Tập Cận Bình nói rõ những mưu đồ, mà mình lại sang (triều kiến) thì theo tôi cũng như một số các dư luận có quan tâm thì người ta thấy đấy là một sự tiếp tục tỏ thái độ như là chư hầu.”

Giờ đây không còn nghi ngờ gì nữa, toàn thể người dân đã quá rõ bộ mặt của Đ M, (Đỗ Mười) Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Phú Trọng… là những tên phản quốc sẵn sàng bán đứng đồng bào, đưa cả nước vào vòng nô lệ mà không cần phải giấu diếm.

107734795_161170962190359_7642969533971446403_n
VÕ TIẾN TRUNG

90 triệu con tim chung nhịp bước

Tiến về Thăng Long, ta tiến về Hà Nội
Quét sạch bọn tham ô, bọn phản bội quê hương
Tiến về Thủ đô, ta chiếm các nẻo đường
Hài tội quân bán nước một phường giặc nội.

Hơn 70 năm qua, đất nước ngập chìm trong bóng tối
90 triệu dân Việt nam bị đẩy vào ngõ tối lầm than
Hận vút trời cao khắp lối ngập tràn
Quê hương, dân tộc vô vàn thống khổ

Tiến về Sài Gòn ta tiến về các thành phố
Đà Nẵng, Huế, Nha Trang, Tây Đô ta thách đố bạo quyền
Đồ tể cường hào theo ác đảng cuồng điên
Quân bán nước phản Tổ Tiên nòi giống.

Triệu triệu người xuống đường hô to SÁT CỘNG
Giáo mác gươm đao gậy nhọn tầm vông
Hỏi tội bạo quyền có lùi bước hay không?
Bởi hôm nay 90 triệu người đã đồng lòng đứng dậy

Đất tổ quê cha, toàn dân phải giữ lấy.

Nguyên Thạch

FB Nguyên Thạch

______________________________________

Ghi chú:

(1) http://www.rfa.org/…/beijing-seen-poised-for-fresh-scs-asse…

Tướng Võ Tiến Trung: Mỹ tập trận ở Biển Đông không phải để ủng hộ Việt Nam bảo vệ chủ quyền

Nguồn: https://danviet.vn/tuong-vo-tien-trung-my-tap-tran-o-bien-d…

Categories
Việt Nam

ĐIỂM MẶT NHỮNG TÊN VIỆT GIAN PHÁ HOẠI TIẾN TRÌNH XÓA SỔ VIỆT CỘNG


Tran Hung.

I. LỜI NÓI ĐẦU

Lẽ ra tôi sẽ viết bài này vào 04 ngày tới khi nick Tran Hung lâu nay của tôi hết hạn treo giò 30 ngày của Facebook, tuy nhiên vào ngày hôm qua, những tên Việt cộng nằm vùng đã report nick của tôi cách đây gần 01 tháng lại tiếp tục report nick của tôi để Facebook lại treo giò thêm 30 ngày và lại tiếp tục report 24 giờ nick hiện nay tôi mượn xài tạm nên tôi không thể chờ đợi thêm được nữa mà đành phải viết ra hôm nay.

Động cơ để tôi viết bài này vào hôm nay dù biết rằng sức lan tỏa sẽ không như ý vì nick tạm này ít chiến hữu và nick chánh chủ Tran Hung nhiều chiến hữu thì đang bị treo giò. Nhưng vì không thể ngồi yên được khi chứng kiến Việt cộng đang gia tăng “ve sầu thoát xác” mà tôi đã từng cảnh báo mấy tháng trước qua những hành động cụ thể của Việt cộng như:

  1. Cấy đám cộng phỉ con trà trộn vào việc ký thỉnh nguyện thơ phục hoạt Hiệp định Ba Lê 1973 ngay trong lúc này, cụ thể là ả Việt cộng nằm vùng Trần Thị Ái Liên, tên luật sư Việt cộng Nguyễn Văn Đài, tên cộng phỉ con Huỳnh Quốc Huy;
  2. Những tên Việt cộng nằm vùng ở Mỹ là những thánh livestream điển hình như Trương Quốc Huy, Ả Trần Nhật Phong,… ra mặt khẳng định Việt Nam Cộng Hòa đã chết vĩnh viễn, Hiệp định Ba Lê chỉ là bánh vẽ,… và những tên Việt cộng nằm vùng trong mác tù nhơn lương tâm, đấu tranh dân chủ thì cổ súy cho tên Nguyễn Xuân Phúc trở thành Gorbachev Việt Nam để nắm quyền tổng thống, điển hình như Ả Trần Thị Thúy Nga, Hoàng Dũng,… Ngược lại thì những tên tuyên giáo cộm cán, tỏ ra là fan của ông Trump thì lại cổ súy cho Hán nô Nguyễn Phú Trọng quay cần qua Mỹ điển hình như tuyên giáo Ả Trần Đình Thu,…

  3. Việt cộng tung ra chiến lược phỉ báng tổng thống Trump thông qua những kẻ được Việt Tân cho nhập cư vào Mỹ như ả NÚM ĐỘC Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trương Minh Tam,…và thông qua những tên có máu mặt trong làng đấu tranh dân chủ Việt Nam như tên Nguyễn Quang A, Võ Văn Tạo, Mạc Văn Trang,…

  4. Việt cộng tung ra chiến dịch “đưa chim mồi trở lại lồng son” trong đấu pháp “rút củi đáy nồi – rung cây nhát khỉ” để phục vụ cho đại hội 13 nhưng trên hết là đưa Việt Nam lọt thỏm vào vòng tay của Tàu cộng để hình thành phe trục chống Mỹ khi những đòn trừng phạt mạnh mẽ, không khoan nhượng của Mỹ đang và sẽ áp lên Tàu cộng bởi tội đầu độc nhơn loại bằng con virus cúm Tàu cộng. Điển hình là vụ câu lưu tên Việt cộng nòi Phạm Thành Bà Đầm Xòe, Nguyễn Tường Thụy,…

  5. Việt cộng đang gia tăng bàn giao Việt Nam cho Tàu cộng theo công hàm bán nước 1958, theo mật ước Thành Đô năm 1990, theo 27 văn kiện bán nước trong năm 2017 của Hán nô Nguyễn Phú Trọng cùng với nhiều khế ước bán nước khác mà các chóp bu Việt cộng đã thỏa thuận ngầm với Tàu cộng tuân theo các thỏa thuận ngầm của cú đêm Kissinger và các đời tổng thống Mỹ sau này đại diện cho đảng Dân chủ Mỹ.

Nội dung bài viết theo chủ đề ĐIỂM MẶT NHỮNG TÊN VIỆT GIAN PHÁ HOẠI TIẾN TRÌNH XÓA SỔ VIỆT CỘNG sẽ rất dài vì tôi có cập nhật những phương thức hoạt động nằm vùng của Việt cộng mà cha tôi đã đúc kết kinh nghiệm sau ngày Quốc Hận 30/4/1975 cùng với bản thân tôi tự nhận định, rút kinh nghiệm trong quá trình cọ xát với Việt cộng trên mạng xã hội.

Vì vậy tôi chia ra nhiều phần để viết bài chủ đề này. Rút kinh nghiệm từ những lần bị Việt gian report nick Facebook bởi những cái lỗi vô lý mà Facebook áp đặt cho tôi là “Vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng vì xài ngôn từ gây thù ghét” nên kể từ đây trở đi tôi sẽ nhượng bộ Facebook là sẽ xài ngôn từ nhã nhặn, viết đúng chính tả,… Tôi sẽ viết tiếp để hoan thành chủ đề này. Trân trọng./.

Tran Hung.

(Dưới đây chỉ là một số hình điểm mặt loài đội bô -liếm bô bưng và là cánh tay nối dài cho cs.
Còn rất nhiều hình ảnh lưu lại trò bẩn thỉu của bọn tuyên lái cs này,khi nick chính được thả sẽ viết tiếp)

1.https://www.google.com/url…

2.https://www.google.com/url…

3.https://www.google.com/url…

4.https://www.google.com/url…

5.https://www.google.com/url…

6.https://www.google.com/url…

Source :
https://www.thesaigonpost.uk/2020/05/iem-mat-nhung-ten-viet-gian-pha-hoai.html

Categories
Việt Nam

ĐÂY LÀ LÝ DO KHIẾN LM ĐẶNG HỮU NAM PHẢI THÔI CHỨC MỤC VỤ?


20151231_chanam-400x300

Linh mục Anton Đặng Hữu Nam là một linh mục từ khá nhiều năm nay nổi tiếng bởi sự dấn thân, hy sinh và lên tiếng đồng thời luôn đồng hành cùng người dân, những nạn nhân của nhà cầm quyền độc tài Cộng sản Việt Nam. Việc lên tiếng của linh mục Anton Đặng Hữu Nam cũng như việc ngài đồng hành với người dân đã làm cho nhà cầm quyền Nghệ An nói riêng và nhà cầm quyền CSVN nói chung hết sức lúng túng và khó chịu. Họ lúng túng, bởi những lời nói, những việc làm bênh vực quyền lợi giáo dân cũng như lương dân của Linh mục Anton Đặng Hữu Nam là những việc chính đáng, thuộc quyền cơ bản của người dân mà họ không thể có cách nào giải thích ngược lại.

https://youtu.be/khsQJ4xOCBc

Categories
Việt Nam

Mau cứu nước khỏi họa bành trướng của Tàu Cộng!


Hà Sĩ Phu 31-5-2018

34135104_973022272864715_4699730056266645504_n

Kính gửi tất cả quý vị trên các Diễn đàn “Dân chủ – Cứu nước

1/ Thưa quý vị, một kẻ ngu độn nhất cũng biết chủ trương cho người nước ngoài thuê đất tới 99 năm” chính là tiếp tay cho mưu đồ bành trướng của Tàu Cộng, củng cố thêm một bước quan trọng để biến Việt Nam chính thức thành một chư hầu nô lệ của họ. Chủ trương như vậy là phản quốc một cách có ý thức, dù ngụy trang bằng mục đích kinh tế.

Categories
Việt Nam

Chương trình giải trí của Trung Quốc dùng Nhã nhạc cung đình Huế


Tàu + hết cướp biển, cướp đất, ăn cắp áo dài của VN rồi gọi là 1 trong những quốc phục của Tàu; giờ lại ăn cắp nhạc !

Chương trình truyền hình thực tế “Sáng tạo doanh 2020” của Trung Quốc bị người Việt Nam phát hiện sử dụng Nhã nhạc cung đình Huế làm nhạc dạo cho một tiết mục biểu diễn của các thực tập sinh.

Sáng tạo doanh 2020
Phần biểu diễn của các thực tập sinh chương trình ‘Sáng tạo doanh 2020’ sử dụng Nhã nhạc cung đình Huế. (Ảnh chụp màn hình/WeTV)

Trong tập 7 Sáng tạo doanh 2020, ở tiết mục Tiểu thư và bốn chàng soái ca, một đoạn Nhã nhạc cung đình Huế được sử dụng làm phần mở đầu nhạc dạo. Đoạn nhạc kéo dài khoảng 20 giây, của bản Lưu Thủy – Kim Tiền.

Trong tiết mục này, 5 nữ thực tập sinh mặc trang phục xưa của Trung Quốc, giới thiệu bản thân sau đó bắt đầu tiết mục trình diễn.

 

.

Do trong phần phát sóng, đoạn nhạc nền không được ghi chú tên ca khúc hay nguồn nhạc, nhiều người Việt Nam cho rằng việc dùng nhạc Việt Nam kết hợp với tiết mục trong một chương trình giải trí Trung Quốc, có thể khiến cho người xem quốc tế hiểu lầm rằng Nhã nhạc cung đình Huế là của Trung Quốc.

Sáng tạo doanh 2020 (CHUANG 2020 – Produce Camp 2020) là chương trình thực tế của Trung Quốc, đang thu hút đông người xem và không ít khán giả trẻ người Việt. Chương trình được chiếu trên WeTV – ứng dụng giải trí trực tuyến Việt Nam.

Lưu Thủy Kim Tiền – Xuân Phong Long Hổ – Ban Nhạc Trúc Xanh

Cùng trong tháng 5, phim cổ trang Trung Quốc “Thịnh Đường Huyễn Dạ” (được chiếu trên VTV8) bị phát hiện sử dụng Nhã nhạc cung đình Huế trong một cảnh phim.

 

 

 

Hai phân đoạn trong phim “Thịnh Đường huyễn dạ” sử dụng Nhã nhạc cung đình Huế

NSƯT Hoàng Trọng Cương, Phó Giám đốc Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế cho biết  các nhà làm phim đã sử dụng một đoạn của hai bài Kim tiền và Long Hổ từ một đoạn của dàn nhạc dân tộc Việt Nam (chưa xác định là của dàn nhạc ở địa phương nào). Đoạn nhạc đã được cải biên, chắp nối, không phải do dàn Nhã nhạc cung đình Huế trình tấu. Phía đài VTV8 sau đó đã ngưng phát sóng phim.

Nguyễn Sơn
.
Categories
Việt Nam

175 tên gọi, bút danh và bí danh của Hồ Chí Minh


XUÂN BÁCH

1. Nguyễn Sinh Cung, 1890. Đây là tên khai sinh tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

2. Nguyễn Sinh Côn. Trong một bài viết của Hồ Chí Minh, năm 1954, Hồ cũng ghi tên còn nhỏ của mình là Nguyễn Sinh Côn.

3. Nguyễn Tất Thành, 1901. Tháng 9, 1901, nhân dịp ông Nguyễn Sinh Sắc, cha Nguyễn Sinh Cung, chuyển về sống ở làng Kim Liên, ông có làm lễ “chào làng” cho hai con trai với tên mới là Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung).

4. Nguyễn Văn Thành

5. Nguyễn Bé Con. Trong tài liệu đề ngày 6 tháng 2, 1920 của Tổng đốc Vinh cung cấp về Nguyễn Sinh Sắc và hai con trai có ghi con trai thứ của Nguyễn Sinh Sắc là Nguyễn Bé Con. Tài liệu mật thám Pháp theo dõi hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, bản ghi số 1116, 1931: Nguyễn Ái Quốc hay Nguyễn Tất Thành tức Nguyễn Sinh Côn hay Nguyễn Bé Con tức Lý Thụy…

6. Văn Ba, 1911. Ngày 5/6/1911 Nguyễn Tất Thành rời Việt Nam làm việc trên một chiếc Tàu Pháp. Trong sổ lương của tàu có tên Văn Ba.

7. Paul Tat Thanh, 1912. Ngày 15 tháng 12 năm 1912, Nguyễn Tất Thành từ New York gửi thư cho khâm sứ Trung Kỳ nhờ tìm địa chỉ của thân phụ là Nguyễn Sinh Huy. Lá thư ký tên Paul Tất Thành.

8. Tất Thành, 1914. Từ nước Anh Nguyễn Tất Thành gửi thư cho Phan Chu Trinh ký tên Tất Thành. Hiện có bốn lá thư được sưu tầm ký tên Tất Thành. Một thư ký Cuồng Điệt Tất Thành, ba thư ký C.Đ Tất Thành.

9. Paul Thanh, 1915. Ngày 16 tháng 4 năm 1915, Nguyễn Tất Thành viết thư cho toàn quyền Đông Dương qua lãnh sự Anh tại Saigon nhờ tìm địa chỉ cha mình. Thư ký tên Paul Thanh.

10. Nguyễn Ái Quốc, 1919. Tên này có khi Nguyễn Tất Thành ở Pháp cùng sinh hoạt chung với nhóm người gồm các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh. Nguyễn Tất Thành là người đến gia nhập nhóm sau cùng.

11. Phéc-đi-năng

12. Albert de Pouvourville, 1920. Báo Điện Tín Thuộc Địa có truyền đơn trích đoạn từ nhiều tờ báo có liên quan tới vấn đề Đông Dương. Người đăng ký tên Albert de Pouvourville.

13. Nguyễn A.Q., 1921-1926. Hai bài báo ký tên Nguyễn A.Q. có tựa “Hãy Yêu Mến Nước Pháp, Người Bảo Hộ Các Anh.” đăng trên báo Người Tự Do, ngày 7 đến 10, 1921. Nguyễn A.Q. còn được ký dưới tranh biếm hoạ ngày 1 tháng 8 năm 1926.

14. Culixe, 1922. Nguyễn Ái Quốc ký bút danh Culixe trong một bài viết trên L’Humanité ngày 18 tháng 3 năm 1922.

15. N.A.Q., 1922. Bút danh này trên báo Le Paria và L’Humanité từ 1922-1930.

16. Ng.A.Q., 1922. Bút danh này trên báo Le Paria từ 1922-1925.

17. Henri Tran, 1922. Henri Tchen là tên ghi trong thẻ đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp của Nguyễn Ái Quốc. Số thẻ: 13861.

18. N., 1923. Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh N. trong các năm 1923-1928 trên Le Paria.

19. Chen Vang, 1923. Ngày 13 tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Paris đi Liên Sô, Tổ Quốc Cách Mạng. Ngày 16 tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến nước Đức. Tại đây, Nguyễn được cơ quan đặc mệnh toàn quyền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghiã Sô Viết Liên Bang tại Berlin cấp cho giấy đi đường số 1829. Trong giấy này Nguyễn Ái Quốc mang tên Chen Vang.

20. Nguyễn, 1923. Bút danh này trong các năm 1923, 1924, 1928 trên Le Paria.

21. Chú Nguyễn, 1923. Thư này Nguyễn Ái Quốc gửi đến các bạn cùng hoạt động tại Pháp trước khi rời Paris đi Liên Sô.

22. Lin, 1924. Nguyễn Ái Quốc dùng tên Lin trong thời gian ở Liên Sô từ 1923-1924 và 1934-1939. Tên Lin xuất hiện lần đầu tiên trong bức điện thư gửi Ban Phương Đông của Quốc Tế Cộng Sản, đề ngày 14 tháng 4, 1924. Tháng 10 năm 1934, Lin được nhận vào trường Quốc Tế Lenin Liên Sô, năm học 1934-1935. Tên Lin số hiệu 375. Tháng 8 năm 1935, Lin dự đại hội lần thứ VII của Quốc Tế Cộng Sản.

23. Ái Quốc, 1924. Ái Quốc là tên ghi trong thẻ dự đại hội V Quốc Tế Cộng Sản, tháng 6 năm 1924. Tháng 8 năm 1927 Nguyễn Ái Quốc gửi đồng chí Francois Billous tấm bưu ảnh, trong đó ký tên Ái Quốc. Sau này còn một số thư khác với tên Ái Quốc.

24. Un Annamite, 1924. Bút danh Annamite được ký dưới một bài viết trên Le Paria.

25. Loo Shing Yan, 1924. Bài “Thư Từ Trung Quốc, số 1”, ngày 12 tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết về phong trào cách mạng Trung Quốc, sự thức tỉnh, giác ngộ cách mạng cho phụ nữ Trung Quốc, gửi tạp chí Rabotnhitxa. Trong bài này, Nguyễn Ái Quốc ký tên Loo Shing Yan, một nữ đảng viên Quốc Dân Đảng. Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho ban biên tập tạp chí, ngày 12 tháng 11 năm 1924, giải thích: “Khi tôi còn ở Quốc Tế Cộng Sản, tôi rất phấn khởi được đôi lần cộng tác với tờ báo của các đồng chí. Nay muốn tiếp tục sự cộng tác ấy. Nhưng vì tôi ở đây hoạt động bất hợp pháp, cho nên tôi gửi bài cho các đồng chí  dưới hình thức “Những bức thư từ Trung Quốc” và ký tên một phụ nữ. Tôi nghĩ rằng làm như vậy bài viết có tính chất độc đáo hơn và phong phú hơn đối với độc giả, đồng thời cũng đảm bảo giữ được tên thật của tôi”.

26. Ông Lu, 1924. Ngày 12 tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi cho một đồng chí trong Quốc Tế Cộng Sản báo tin ông Lu đã đến Quảng Châu, Trung Quốc. Cuối thư đề điạ chỉ liên lạc: Ông Lu, Hãng thông tấn Roxta, Quảng Châu, Trung Quốc. Sau này trong nhiều thư khác Nguyễn Ái Quốc cũng ghi địa chỉ liên lạc là Ông Lu.

27. Lý Thụy, 1924. Nguyễn Ái Quốc dùng bí danh Lý Thụy trong thời gian hoạt động ở Trung Quốc. Ngày 11 tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu với các giấy tờ tùy thân mang tên Lý Thụy. Trong bức thư gửi Quốc Tế Cộng Sản, ngày 18 tháng 12 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc ghi ở cuối thư: “Trong lúc này tôi là một người Trung Quốc, chứ không phải là một người An Nam, và tên tôi là Lý Thụy chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc”.

28. Lý An Nam, 1924-1925. Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Quảng Châu với bí danh Lý Thụy, làm phiên dịch trong văn phòng của Đoàn cố vấn Sô Viết. Lý Thụy cũng có biệt danh là Lý An Nam lúc này.

29. Nilopxki (N.A.Q.), 1924. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu, Trung Quốc, làm việc tại cơ quan của Borodin. Hiện sưu tầm được tất cả 6 lá thư Nguyễn Ái Quốc ký tên Nilopxki.

30. Vương, 1925. Là giảng viên huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Vương. Vương cũng là bí danh để bắt liên lạc với Nguyễn Lương Bằng ở Trung Quốc, 1925.

31. L.T., 1925. Nguyễn Ái Quốc ký tên L.T. gửi thư cho ông H (Thượng Huyền) ngày 9 tháng 4 năm 1925. Sau ngày Nguyễn Ái Quốc còn viết khoảng 15 bài trên báo Nhân Dân với bút hiệu L.T. từ các năm 1949, 1957, 1958, 1960.

32. Howang T.S., 1925. Ngày 2 tháng 5 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc lấy bút hiệu Howang viết về đại hội công nhân và nông dân.

33. Z.A.C., 1925. Bút hiệu này được đăng trên báo Thanh Niên.

34. Lý Mỗ, 1925. Báo Công Nhân Chi Lộ Đặc Hiệu, số 20, ra ngày 14 tháng 7 năm 1925, đã đưa tin một người Việt Nam gia nhập đội diễn thuyết và để giữ bí mật, Nguyễn Ái Quốc có tên là Lý Mỗ.

35. Trương Nhược Trừng, 1925.

36. Vương Sơn Nhi, 1925. Viết trên báo Thanh Niên với bút danh Vương Sơn Nhi, Trương Nhược Trừng.

37. Vương Đạt Nhân, 1926. Với bút danh này, Nguyễn Ái Quốc được Đoàn Chủ Tịch Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Quốc Dân Đảng Trung Quốc mời đến dự và phát biểu ý kiến. Ngày họp là 14 tháng 1 năm 1926.

38. Mộng Liên, 1926. Mộng Liên được ký dưới bài viết “Mục Dành Cho Phụ Nữ” đăng trên báo Thanh Niên, số 40, ngày 4 tháng 4 năm 1926.

39. X., 1926. Bút danh này dùng trong các năm 1926, 1927. X. viết loạt bài nhan đề “Các Sự Biến Ở Trung Quốc”, đăng trên 7 số báo L’Annam.

40. H.T., 1926. Cùng với bút danh Mộng Liên, H.T. là bút danh của Nguyễn Ái Quốc viết bài cho báo Thanh Niên. “Còn một số bút danh khác như Hạ Sĩ, Hương Mộng, Diệu Hương v.v.. có thể cũng là bút danh của Nguyễn Ái Quốc, bởi lúc đó chưa có nhiều người viết bài cho báo Thanh Niên”.

41. Tống Thiệu Tổ, 1926. Theo hồi ký của một số người hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc, Tống Thiệu Tổ là bí danh của Nguyễn Ái Quốc khi ông ta hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc.

42. X.X., 1926. Nguyễn Ái Quốc ký bút danh này trên một bài đăng trong Inprekorr, số 91, ngày 14 tháng 8 năm 1926.

43. Wang, 1927. Bài viết dưới bút danh Wang được đăng trên Thư Tín Quốc Tế (Inprekorr).

44. N.K., 1927. Cũng trong Thư Tín Quốc Tế.

45. N. Ái Quốc, 1927.

46. Liwang, 1927. Ngày 16 tháng 12 năm 1927, từ Berlin Nguyễn Ái Quốc viết thư cho Đoàn Chủ Tịch Quốc Tế Nông Dân, đề nghị giúp đỡ tiền để về nước. Thư viết: “Trong 2 hoặc 3 tuần nữa tôi  sẽ trở về đất nước tôi. Chuyến đi của tôi tốn chừng 500 dollars Mỹ. Vì tôi không có tiền nên tôi mong các đồng chí giúp tôi”. Thư ký tên N. Ái Quốc. Trong thư, Nguyễn Ái Quốc đề nghị nếu có tiền xin gửi đến Uỷ Ban Trung Ương của Đảng Cộng Sản Đức, chuyển cho  “Liwang.”

47. Ông Lai, 1927. Cũng trong thư gửi Đoàn Chủ Tịch Quốc Tế Nông Dân, ngày 16 tháng 12 năm 1927, Nguyễn Ái Quốc ghi địa chỉ trả lời thư: M. Lai, chez M. Eckshtein, 21, Halle Chactrasse, Berlin.

48. A.P., 1927. A.P. viết bài “Văn Minh Pháp ở Đông Dương” trên Inprekorr.

49. N.A.K., 1928. Trong thư gửi Quốc Tế Nông Dân đề ngày 3 tháng 2 năm 1928.

50. Nguyễn Lai, 1928. Với thẻ nhập cảnh mang tên Nguyễn Lai, một Hoa kiều, Nguyễn Ái Quốc đặt chân tới đất Xiêm (Thái Lan).

51. Thọ, 1928

52. Nam Sơn, 1928. Tại Thaí Lan khi họp với người Việt cư  ngụ tại Thái Lan, Nguyễn Ái Quốc tự giới thiệu là Thọ, biệt hiệu Nam Sơn.

53. Chín (Thầu Chín), 1928. Đầu tháng 8 năm 1928, Nguyễn Ái Quốc tới Udon, Thái Lan, ông lấy tên là Chín. Mọi người gọi là Thầu Chín hay ông già Chín.

54. Victor Lebon, 1930. Victor Lebon, 123 av. de la République, Paris, France là điạ chỉ Nguyễn Ái Quốc ghi để nhận thư của đại diện Đảng Cộng Sản Pháp tại Quốc Tế cộng Sản và các đồng chí trong Đảng Cộng Sản Liên Sô. Ngày 27 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc gủi thư cho đại diện Đảng Cộng Sản Pháp tại Quốc Tế Cộng Sản thông báo về việc Đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập, yêu cầu được cung cấp tài liệu để tuyên truyền và giáo dục, đồng thời đề nghị Đảng Cộng Sản Pháp giúp đỡ v.v.. Nguyễn Ái Quốc ghi điạ chỉ nhận thư của mình như ghi trên.

55. Ông Lý(Lee), 1930. Mr. Lee, The HongKong Shiao Fih Pao, 53, Wyndham Str, HongKong là tên và địa chỉ  để nhận sách báo. Với tên và địa chỉ này Nguyễn Ái Quốc gửi cho đại diện Đảng Cộng Sản Mỹ ngày 27 tháng 2 năm 1930.

56. Ng. Ái Quốc, 1930.

57. L.M.Vang, 1930. Ngày 27 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho văn phòng đại diện Đảng Cộng Sản Đức ở Quốc Tế Cộng Sản đề nghị xin cho ông ta một giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế Giới. Thư ký tên Ng. Ái Quốc. Trong thư ông viết: “ Trong hoàn cảnh tôi sống không hợp pháp, tôi cần có một nghề để nói với người khác. Tội đóng vai phóng viên báo chí. Nhưng cần phải chứng thực danh nghĩa đó của tôi. Trong số tất cả các báo của Đảng chúng ta, tôi thấy chỉ có mỗi một tờ báo không mang cái tên “có tính chất lật đổ” và có thể cấp cho tôi một giấy chứng nhận thuận tiện, đó là báo Thế Giới. Tôi đề nghị các đồng chí xin cho tôi một giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế Giới. Tên của tôi sẽ là L.M. Wang.”

58. Tiết Nguyệt Lâm, 1930. Cũng trong thư Nguyễn Ái Quốc xin giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế Giới, ông ghi địa chỉ để nhận là: Mr. Sit-yet-um, Wah-jon C, 136 wanchai R, HongKong.

59. Paul, 1930. Ngày 27 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi đồng chí Sota, liên đoàn chống đế quốc tại Berlin, thông báo về việc Đảng Cộng Sản Việt Nam đã được thành lập. Thư ký tên Paul. Còn một số thư khác cũng được ký tên Paul.

60. T.V. Wang, 1930. Ngày 2 tháng 3 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Ban Phương  Đông, Quốc Tế Cộng Sản báo cáo về tình hình Mã Lai, Đông Dương và việc gửi 3 học sinh đi học. Cuối thư đề nghị “có thể mua cho tôi hối phiếu của công ty xe lửa tốc hành Mỹ đề tên T.V.Wang và gửi bưu điện cho tôi.”

61. Công Nhân, 1930. Bút danh này trong bài viết “Tranh Thủ Quần Chúng Như Thế Nào?” đăng trên báo Vô Sản, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam, số 1, ra ngày 31 tháng 8 năm 1930.

62. Victo, 1930. Bí danh Victo trong bức thư đề ngày 29 tháng 9 năm 1930 gửi Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng Sản báo cáo về cuộc đấu tranh từ ngày 11 đến 17 tháng 9 năm 1930 của nông dân các tỉnh Thanh Chương, Hưng Nguyên, Nghệ An….

63. V., 1931. Ngày 19 tháng 2 năm 1931,  với bí danh V., Nguyễn Ái Quốc viết bài “Nghệ Tỉnh Đỏ”. V. đồng thời gửi báo cáo cho Ban Phương Đông, ngày 8 tháng 2 năm 1931, liên quan đến chỉ thị việc tổ chức Đảng Cộng Sản Đông Dương.

64. K., 1931. Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Ban Phương Đông ngày 21 tháng 2 năm 1931, ký tên K., trong thư báo tin Lý Tự Trọng bắn chết mật thám Legrant và đã bị bắt. Nguyển Ái Quốc đề nghị Ban Phương Đông liên lạc với Đảng Cộng Sản Pháp tổ chức biểu tình đòi thả Lý Tự Trọng.

65. Đông Dương, 1931. Bút hiệu này được đăng trên bài viết “Kỷ Niệm  Một Năm Khởi Nghĩa Yên Bái” đăng trên Tạp Chí Thư Tín Quốc Tế, 1931, số 12.

66. Quac E. Wen, 1931.

67. K.V., 1931. Nguyễn Ái Quốc dùng bí danh K.V. từ 1931. Bí danh này được nhắc đến trong thư gửi Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương. Đầu thư đề ngày 23 tháng 4, cuối thư đề 24 tháng 4. K.V. thông báo những cán bộ được cử về nước theo đường dây liên lạc, nhắc nhở công tác bảo vệ Đảng, giữ gìn bí mật, duy trì chế độ báo cáo giữa Đảng Cộng Sản Đông Dương với Quốc Tế Cộng Sản và đề nghị Trung ương ghi nhận nhiệm vụ của mình đã được Ban Phương Đông xác định. Năm 1959, K.V. trong bài “Người Cháu Nuôi của Bác” đăng trên báo Nhân Dân ngày 27 tháng 12 năm 1959.

68. Lão Trịnh, 1931. Trong báo cáo của cơ quan an ninh Pháp về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, thời gian trước khi bị bắt ở Hongkong (1918/1931), có một đọan ghi như sau: “ghi chú về vấn đề người cộng sản An Nam Nguyễn Ái Quốc tức Nguyễn Tất Thành, gọi là Lý Thụy, Vương Sơn Nhi, Lão Trịnh, Năm, Lý Phát, Viên, Tống Văn Sơ bị bắt ở phố Cửu Long ngày 6 tháng 6 năm 1931”.

69. Năm, 1931.

70. Lý Phát, 1931.

71. Viên, 1931.

72. Tống Văn Sơ, 1931. Tống Văn Sơ là tên ghi trong thẻ căn cước của Nguyễn Ái Quốc khi ông ta bị bắt ở số 186, phố Tam Lung, Hongkong, ngày 6 tháng 6 năm 1931. “Một chiến dịch điên cuồng tìm diệt cộng sản được chúng (Pháp và Anh) phát động trên quy mô lớn khắp vùng Đông Nam Á.” 

73. New Man, 1933. Bí danh này được gửi cho luật sư Lôdơbi, người đã có công giúp Tống Văn Sơ ra khỏi nhà tù Anh ở Hongkong.

74. Linov, 1934. Tại Viện Nghiên Cứu các vấn đề thuộc địa, năm học 1934-1935.

75. Teng Man Huon, 1935.Tháng 8 năm 1935, Nguyễn Ái Quốc tham dự đại hội lần thứ 7 Quốc Tế Cộng Sản. Trong bản kê khai để tham dự đại hội ngày 16 tháng 8, ông có ghi: Họ, tên, bí danh trong đảng hiện nay: Teng Man Huon. Họ tên bí danh trong đại hội: Lin. Thẻ mang số 154 ghi tên: Lin, thuộc Đảng CS Đông Dương.

76. Hồ Quang, 1938. Hoạt động ở Trung Quốc cuối năm 1938. Nhờ quan hệ Liên Sô và Trung Quốc nên Nguyễn Ái Quốc qua Trung Quốc dễ dàng. Tại Lan Châu thủ phủ tỉnh Cam Túc, Tây Bắc Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc mang phù hiệu Bát lộ quân, quân hàm thiếu tá và giấy tờ mang tên Hồ Quang.

77. P.C. Lin (P.C. Line), 1938. Từ Trung Quốc Nguyễn Ái Quốc viết hằng chục bài gửi về nước đăng trên Notre Voix, ký tên P.C. Lin, P.C. Line, Line (đều là của Lin).

78. D.C. Lin, 1939. Bút hiệu D.C. Lin có bài viết trên báo Dân Chúng xuất bản tại Saigon. Báo đăng liên tiếp ba số 46, 47, 48 ngày 21-28 tháng 8 năm 1939.

79. Lâm Tam Xuyên, 1939. Từ Quế Lâm, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi một  đồng chí ở Ban Phương Đông Quốc Tế Cộng Sản, thư đề ngày 20 tháng 4 năm 1939. Cuối thư, sau dòng chữ bằng tiếng Pháp là chữ Hán viết tay: Quảng Tây, Quế Lâm, Quế Tây lộ tam thập ngũ hiệu Tân Hoa nhật báo chuyển giao Lâm Tam Xuyên tiên sinh. (Tân Hoa nhật báo , số nhà 35, đường Quế Lâm, Quế Tây, Quảng Tây, chuyển cho ông Lâm Tam Xuyên.)

80. Ông Trần, 1940. Cuối tháng 2 năm 1940, Nguyễn Ái Quốc với bí danh Ông Trần đến hiệu dầu cù là Vĩnh An Đường ở Côn Minh, Vân Nam, Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức cộng sản Việt Nam ở Vân Nam để từ đó tìm cách trở về nước.

81. Bình Sơn, 1940. Từ 15 tháng 11 đến 18 tháng 12 năm 1940, với bút hiệu Bình Sơn, Nguyễn Ái Quốc viết 12 bài đăng trên Cứu Vong Nhật Báo (Trung Quốc).

82. Đi Đông. Tên này được Nguyễn Ái Quốc kể lại trong bài báo “Đồng Chí Đi Đông” đăng trên Cứu Quốc.

83. Cúng Sáu Sán, 1941. Ngày 28 tháng 1 năm 1941, người dân tại Pác Bó gọi Nguyễn Ái Quốc là Cúng Sáu Sán nghĩa là ông già ở rừng.

84. Già Thu, 1941. Tại hang Pac Bo, cán bộ gọi Nguyễn Ái Quốc là Già Thu. ( ghi chú của người viết: Còn “Chú Thu” dành riêng cho nữ cán bộ người Tầy Nông Thị Ngác, “Chú Thu, Cháu Trưng hay Ngác” trong các sách báo khác hay đề cập tới thì sao?)

85. Kim Oanh, 1941. Bút danh của Nguyễn Ái Quốc ký dưới bài thơ “Phụ Nữ” đăng trên báo Việt Nam Độc Lập, số 104, ra ngày 1 tháng 9 năm 1941.Bài viết nêu những tấm gương anh hùng của phụ nữ Việt Nam từ Bà Trưng, Bà Triệu đến Nguyễn Thị Minh Khai. Kim Oanh kêu gọi chị em phụ nữ cần đòan kết lại  để đấu tranh.

86. Bé Con, 1941. Bút danh Bé Con được ký dưới bài thơ “Trẻ Con” đăng trên Việt Nam Độc Lập, số 106, ngày 21 tháng 9 năm 1941.

87. Ông Cụ, 1941. Các năm 1940-1945, cán bộ cộng sản đồng hành với Nguyễn Ái Quốc thường gọi ông ta là Ông Cụ.

88. Hoàng Quốc Tuấn, 1941. Tên này được các đồng chí của Nguyễn Ái Quốc tự đặt.

89. Bác, 1941. Tên gọi “Bác” xuất hiện từ dịp họp hội nghị Trung Ương lần thứ 8, tháng 5 năm 1941 ở Pắc Bó, Hà Quảng, Cao Bằng.

90. Thu Sơn, 1942. Tháng 1 năm 1942, với bí danh Thu Sơn, Nguyễn Ái Quốc chuyển đến nhà Xích Thắng tức Dương Mạc Thạch tại châu Nguyên Bình, Cao Bằng trong một số ngày.

91. Xung Phong, 1942. Bút danh này Nguyễn Ái Quốc ký dưới hai bài thơ “Tặng Thống Chế Pê Tanh” và “Nhóm Lửa” đăng trên Việt Nam Độc Lập, số 131, ngày 11 tháng 7 năm 1942, số 133 ngày 1 tháng 8 năm1942.

92. Hồ Chí Minh, 1942. Để đánh lạc hướng khi hoạt động tại Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh. Ngày 13 tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh đi Trung Quốc. Ngày 27 tháng 8 năm 1942 tại Túc Vinh Hồ Chí Minh bị bắt. Khi kiểm soát giấy tờ thì thấy thẻ hội viên Hồ Chí Minh là “Hội Ký Giả Thanh Niên Trung Quốc.” Hồ Chí Minh bị phe Tưởng Giới Thạch nghi ngờ là gián điệp cộng sản và bị bắt giải đi giam qua 13 huyện thị của tỉnh Quảng Tây. Ngày 10 tháng 9 năm 1943 Hồ Chí Minh được thả.

93. Hy Sinh, 1942. Với bút hiệu Hy Sinh, Hồ Chí Minh làm bài thơ “Chơi Giăng” đăng trên báo Việt Nam Độc Lập, số 134, ngày 21 tháng 8 năm 1942.

94. Cụ Hoàng, 1945. Cuối tháng 2 năm 1945, Hồ Chí Minh đi Côn Minh với ý định gặp các cơ quan của Mỹ để tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của đồng minh chống phát xít đối với nhóm của Hồ Chí Minh. Khi đến Bixichai, Hồ Chí Minh được giới thiệu là “Cụ Hoàng”. Đây cũng là tên công khai của Hồ Chí Minh trên giấy tờ khi đi giao thiệp.

95. C.M.Hồ, 1945. Hồ Chí Minh ký tên C.M. Hồ dưới thư gửi ông Fenn, ông Tam vào tháng 7 và 8 năm 1945.

96. Chiến Thắng, 1945. Bút danh này Hồ Chí Minh viết bài đăng trên báo Cứu Quốc. Báo này là cơ quan của Tổng bộ Việt Minh, xuất bản số 1 ngày 25 tháng 1 năm 1942. Sau ngày 19 tháng 8 năm 1945, báo này được chuyển về Hà Nội, xuất bản công khai từ số 31 ngày 24 tháng 8 năm 1945. Hồ Chí Minh viết khoảng 400 bài trên báo Cứu Quốc. Bút danh Đ.X. được sử dụng nhiều nhất.

97. Ông Ké, 1945. Chiều cuối tháng 4 năm 1945, Hồ Chí Minh trong bộ áo chàm người Nùng đến chiếc lán ở Pác Tẻng (chân núi Lam Sơn, Cao Bằng) của gia đình đồng chí Hoàng Đức Triều (An Định). Hồ Chí Minh được giới thiệu là “đồng chí Ông Ké.” Với bí danh Ông Ké, Hồ Chí Minh thường họp với Hoàng Quốc Việt, Vũ Anh, Phạm Văn Đồng, Đặng Việt Châu, Dương Đức Hiền, Đặng Văn Cáp.

98. Hồ Chủ Tịch, 1945. Tên này có sau khi tuyên bố có “Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà”.

99. Hồ, 1945. Hồ Chí Minh ký tên Hồ dước các thư gửi các ông Becna và Fenn đề ngày 9 tháng 5 năm 1945 và 9 tháng 6 năm 1945, cám ơn về sự giúp đỡ các học viên lớp vô tuyến điện, nhờ ông Fenn liên lạc chuyển giúp gói quà  có lá cờ của đồng minh đến cho Hồ bằng cách nhanh nhất.

100. Q.T., 1945. Với bút hiệu Q.T. , Hồ Chí Minh viết 10 bài đăng trên báo Cứu Quốc trong các năm 1945-1946.

101. Q.Th., 1945. Với bút hiệu này Hồ Chí Minh viết 14 bài đăng trên báo Cưú Quốc trong các năm 1945-1946. Bài đầu tiên ký tên Q.Th. là “Thế Giới với Việt Nam,” báo số 130, ngày 31 tháng 12 năm 1945.

102. Lucius, 1945. Tên mật do tổ chức OSS đặt cho Hồ Chí Minh khi ông ta làm việc cho cơ quan tình báo OSS của Hoa Kỳ.

103. Bác Hồ, 1946. Nhiều thư ký tên “Bác Hồ” gửi cho các thanh thiếu niên, học sinh.”Bác Hồ” cũng được quần chúng sử dụng rộng rãi, trong sách báo, học đường.

104. H.C.M., 1946. H.C.M. được ký dưới thư gửi cho đồng chí của Hồ Chí Minh là Morixo Tore, tổng bí thư Đảng Cộng Sản Pháp, năm 1946.

105. Đ.H., 1946. Bút danh này Hồ Chí Minh viết tập “Nhật Ký Hành Trình của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Bốn Tháng Sang Pháp”, năm 1946.

106. Xuân, 1946. Trên đường di chuyển từ Hà Nội qua Sơn Tây, Phú Thọ, để trở lại chiến khu Việt Bắc trong những ngày đầu có chiến tranh với Pháp, Hồ Chí Minh đã nghỉ lại ở nhà ông Hoàng Văn Nguyên ở xóm Đồi, xã Cổ Tiết, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ từ ngày 4 tháng 3 năm 1947 đến 18 tháng 3 năm 1947. Thời gian ở đây, Hồ Chí Minh lấy bí danh là Xuân trong các giấy tờ giao dịch.

107. Một Người Việt Nam, 1946. Đây là bút danh của Hồ Chí Minh ký dưới một bài viết “Hoa Việt Thân Thiện”, tháng 12 năm 1946.

108. Tân Sinh, 1947. Bút danh này Hồ Chí Minh dùng trong một số tác phẩm vào các năm 1947-1948, như “Đời Sống Mới”, “Nêu Cao và Thực Hành Cần Kiệm Liêm Chính Tức Là Nhen Lửa Cho Đời Sống Mới,” “Việt Bắc Anh Dũng.”

109. Anh, 1947. Ngày 20 tháng 8 năm 1947, Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Nguyễn Khánh Toàn.

110. X.Y.Z., 1947. Bút danh này được dùng từ 1947-1950 trong các sách “Sửa Đổi Lối Làm Việc”, tháng 10 năm 1947. Sách viết về “xây dựng Đảng” dựa theo cách chỉ dẫn của Lenin. Cũng với bút danh này, Hồ Chí Minh viết bài cho báo Sự Thật vào các năm 1948-1950. Bài “Dân Vận”, số báo 120, ngày 15 tháng 10 năm 1949.

111. A., 1947. Mật danh A., 1947 dùng trong bức thư gửi đồng chí Hoàng Hữu Nam.

112. A.G., 1947. Bút danh A.G. Hồ Chí Minh dùng viết bài trong các năm 1947-1050. “Cán Bộ Tốt và Cán Bộ Xoàng” là bài đầu tiên trên báo Sự Thật, số 77 năm 1947.

113. Z., 1947. Theo cuốn nhật ký của ông Lê Văn Hiến, lúc làm bộ trưởng tài chánh, mật danh Z. là của Hồ Chí Minh dùng trong năm 1947.

114. Lê Quyết Thắng, 1948. “Cần Kiệm Liêm Chính” đăng trên báo Cứu Quốc số ra ngày 30, 31 tháng 5 và 1,2 tháng 6 năm 1949. Sau đó in thành sách cũng với bút hiệu Lê Quyết Thắng.

115. K.T., 1948. Tháng 2 năm 1948, bút danh K.T., Hồ Chí Minh dịch hai bài thơ chữ Hán.

116. K.Đ., 1948. Ngày 2 tháng 5 năm 1948, Hồ Chí Minh dùng bí danh K.Đ. viết thư gửi đồng chí Hoàng Quốc Việt căn dặn về việc ra báo vào tháng 5. Để tuyên truyền, K.Đ. làm bài thơ với danh nghĩa là đội trưởng dân quân du kích Mán và đề nghị đăng bài thơ này chung với thơ của Tố Hữu, Xuân Diệu.

117. G., 1949. G. viết bài mỉa mai bà Tống Mỹ Linh khi qua Mỹ trong bài “Thêu Gấm và Cho Than” đăng trên báo Sự Thật. G. còn các bài viêt khác như “Bệnh Khẩu Hiệu” trên báo Cứu Quốc, ngày 15 tháng 3 năm 1949, số 1191, nêu lên tầm quan trọng của khẩu hiệu trong công tác tuyên truyền, cổ động, và đồng thời cũng không nên đưa ra quá nhiều khẩu hiệu khó hiểu, daì dòng, không thiết thực.

118. Trần Thắng Lợi, 1949. Hồ Chí Minh dùng bút danh Trần Thắng Lợi viết bài “Đảng Ta” đăng trên tạp chí Sinh Hoạt Nội Bộ số 13, tháng 1 năm 1949.

119. Trần Lực, 1949. Bút danh Trần Lực được Hồ Chí Minh dùng trong các năm 1949-1958 và 1961. Trần Lực đã viết gần 70 bài báo và các tác phẩm ngắn như “Giấc Ngủ 10 Năm”, “Liên Xô Vĩ Đại”, “Đạo Đức Cách Mạng”…

120. H.G., 1949. Trên báo Cứu Quốc, Hồ Chí Minh dùng bút hiệu H.G. viết bài “Trở Lại Vấn Đề Thi Đua Ái Quốc”, số 14, ngày 8 tháng 7 năm 1949.

121. Lê Nhân, 1949.  Với bút hiệu này, Hồ Chí Minh viết bài “Thất Bại và Thành Công”, đăng trên báo Sự Thật ngày 19 tháng 8 năm 1949. Bài viết này cho chương mục “Sửa Đổi Lối Làm Việc”.

122. T.T., 1949.  Bút danh này Hồ Chí Minh ký dưới bài viết “Hồ Chủ Tịch và Văn Nghệ”.

123. Đanh, 1950. Bút danh này Hồ Chí Minh dùng trong các năm1950, 1953, với các bài “Thư Ký Mặt Trận Liên Việt Địa Phương”, …

124. Đinh, 1950. Bí danh Đinh, Hồ Chí Minh ký dưới thư gửi Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai, tháng 3, 1950. Cũng bí danh Đinh, Hồ Chí Minh gửi thư cho Đặng Đỉnh Siêu bên Trung Cộng, Trần Canh ngày 9 tháng 10, 1950.

125. T.L., 1950. Bút danh T.L., Hồ Chí Minh dùng trong thời gian 1950-1969, qua gần 250 bài báo đăng trên Sự Thật, Nhân Dân.

126. Chí Minh, 1950.  Ngày 9 tháng 11 năm 1950 khi nghe tin người anh là Nguyễn Sinh Khiêm mất, Hồ Chí Minh viết một điện thư chia buồn dòng họ Nguyễn Sinh. Cuối điện thư, ký tên Chí Minh.

127. CB., 1951. Bút danh này dùng từ 1951-1957 qua gần 700 bài báo đăng trên Nhân Dân. “Người Đảng Viên Lao Động Việt Nam Phải Như Thế Nào”,  trên Nhân Dân, số 2, ngày 25 tháng 3 năm 1951. “Liên Sô Vĩ Đại” báo Nhân Dân, số 12, ngày 21 tháng 6 năm 1951.

128. H., 1951. Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Xuphanuvong (Lào) đề ngày 10 tháng 5 năm 1951, bằng tiếng Pháp, ký tên H.

129. Đ.X., 1951. Bút danh này Hồ Chí Minh dùng từ năm 1951-1955, bài đăng trên báo Cứu Quốc.

130. V.K., 1951. Bút danh V.K., Hồ Chí Minh dùng trong các năm 1951, 1960, 1961. “Bệnh Cá Nhân Địa Vị” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 9 tháng 8, 1951. “Về Sự Lục Đục của Mỹ và Diệm” đăng trên Nhân Dân, số 2818, ngày 9 tháng 12, 1961.

131. Nhân Dân, 1951. Bút danh Nhân Dân đăng bài “Chúc Mừng Ngày Kỷ Niệm Lần Thứ 34 Cách Mạng Tháng Mười”  trên báo Nhân Dân , ngày 5 tháng 11, 1951. “Nhân Dân Việt Nam Chúc Mừng Ngày Kỷ Niệm Đảng Cộng Sản Trung Quốc” đăng trên Nhân Dân, ngày 1-3 tháng 7 năm 1954.

132. N.T., 1951. Với bút danh N.T., Hồ Chí Minh viết bài “Phát Ngôn của Chính Phủ Nhân Tiếp Các Nhà Báo”, ngày 22 tháng 12 năm 1951.

133. Nguyễn Du Kích, 1951. Hồ Chí Minh dùng bút danh Nguyễn Du Kích viết cuốn “Tỉnh Uỷ Bí Mật” dựa vào chuyện của Liên Sô.

134. Nguyên, 1953. Bút danh này dùng trong bài “Thư Từ Việt Nam – Những Con Voi là Những Con Muỗi”, 3/1953, gửi đăng báo Temps Nouveax (Thời Mới,Liên Sô). Hồ Chí Minh gửi thư cho chú Thận (Trường Chinh) ký tên Nguyên.

135. Hồng Liên, 1953. Hồ Chí Minh dùng bút danh phụ nữ viết bài “Nhân Dịp Đại Hội Phụ Nữ Quốc Tế” đăng trên báo Cứu Quốc, số 2362, ngày 19 tháng 6 năm 1953.

136. Nguyễn Thao Lược, 1954. Nguyễn Thao Lược là bút danh Hồ Chí Minh dùng viết bài “Đẩy Mạnh Phong Trào Du Kích”, đăng trên báo Nhân Dân, số ra ngày 16 – 20 tháng 1 năm 1954. Tác giả khẳng định “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng.”

137. , 1954. Hồ Chí Minh lấy bút danh Lê trong bài “Bức Thư Ngỏ Gửi Thủ Tướng Pháp Mangdet Phorangxo”, trên báo Nhân Dân, số 284, ngày 9 tháng 12 năm 1954.

138. Tân Trào, 1954. Bút danh Tân Trào Hồ Chí Minh ký dưới bài “Giải Phóng Đài Loan”, đăng trên báo Nhân Dân, số 218, ngày 25 – 27 tháng 8 năm 1954.

139. H.B., 1955. Hồ Chí Minh dùng bút danh H.B. viết bài “Có Phê Bình Phải Biết Tự Phê Bình”, đăng trên Nhân Dân, số 488, ngày 4 tháng 7 năm 1955.

140. Nguyễn Tâm, 1957. Bút danh Nguyễn Tâm viết bài “Quyển Nhật Ký Trong Ngục của Bác.” Bài này Hồ Chí Minh viết nhân dịp sinh nhật của ông ta, 19 tháng 5 năm 1957.

141. K.C., 1957. Bút hiệu này Hồ Chí Minh dùng các năm 1957, 1958 qua 4 bài báo xung quanh việc Mỹ phóng vệ tinh nhân tạo.

142. Chiến Sỹ, 1958.  Từ 1958-1968, Hồ Chí Minh dùng bút hiệu Chiến Sỹ viết hơn 80 bài báo đăng trên Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân. Đa số các bài viết lên án Mỹ và các bài viết ca ngợi như bài “Thanh Niên Anh Hùng Lý Tự Trọng.”

143. T., 1958. Bút danh T. Hồ Chí Minh dùng viết bài “Phong Trào Vệ Sinh Yêu Nước Đang Sôi Nổi tại Trung Quốc” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 29 tháng 1 năm 1958.

144.Thu Giang, 1959. Hồ Chí Minh ký bút danh Thu Giang trong bài “Bác Đến Thăm Côn Minh” trên báo Nhân Dân, ngày 12 tháng 4 năm 1959.

145. Nguyên Hảo Studiant, 1959. Hồ Chí Minh dùng bí danh này viết thư gửi giáo sư Ivan Duycel (Bungari) ngày 10 tháng 4 năm 1959.

146. Ph.K.A., 1959. Bút danh này Hồ Chí Minh viết bài “Cuộc Nghỉ Hè 2 Vạn 3 Nghìn Cây Số” về chuyến đi thăm và nghỉ hè tại Trung Cộng và Liên Sô, trên báo Nhân Dân, số 2038, ngày 15 tháng 10 năm 1959.

147. C.K., 1960.  Hồ Chí Minh dùng bút danh C.K. viết bài “Bắt Đầu Hai Chữ” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 14 tháng 1 năm 1960, về hạnh cần kiệm để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

148. Tuyết Lan, 1960.

149. Jean Fort, 1960. Hồ Chí Minh dùng bút hiệu Tuyết Lan viết bài “Ba Chai Rượu Sâm Banh” đăng trên báo Nhân Dân, số 2331, ngày 27 tháng 4 năm 1960. Dưới hình thức dịch lại bức thư của một công nhân tên là Jean Fort, ở Algerie, gửi cho tác giả nói về tình cảm của một người bạn quốc tế đối với Nguyễn Ái Quốc thời ký ở Paris và những năm sau này.

150. Trần Lam, 1960. Trần Lam viết bài “Chuyện Giả Mà Có Thật” đăng trên báo Nhân Dân, số 2242, ngày 9 tháng 5 năm 1960. Hồ Chí Minh lấy bút hiệu này viết bài về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Thái Lan.

151. Một người Việt kiều ở Pháp về, 1960. Hồ Chí Minh ký dưới bài  “Vài Mẩu Chuyện Trong Hồi Bác Sang Thăm Pháp.”

152. K.K.T., 1960.  Hồ Chí Minh dùng bút hiệu này viết bài “Tinh Thần Yêu Nước và Tinh Thần Quốc Tế.”

153. T.Lan, 1961. Bút danh T. Lan Hồ Chí Minh dùng trong tác phẩm “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện Một Mình”, đăng nhiều lần trên báo Nhân Dân, tháng 5, 7, 8 năm 1961. Một bài báo khác nhan đề “Bác Ăn Tết Với Chúng Tôi” đăng trên Nhân Dân, ngày 14 tháng 2 năm 1961.

154. Luật sư Th. Lam, 1961. Bút danh này Hồ Chí Minh viết bài “Kính Hỏi Uỷ Ban Quốc Tế Giám Sát và Kiểm Sát” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 5 tháng 8 năm 1961, liên quan về hiệp định Geneve.

155. Ly, 1961.Hố Chí Minh dùng bí danh Ly gửi bức địên đề ngày 13 tháng 12 năm 1961, đến đồng chí Ai dit, chủ tịch Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Indonesia.

156. Lê Thanh Long, 1963. Bút danh này viết bài “Nhân Dịp Mừng Đảng 33 tuổi,” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 4 tháng 2 năm 1963. Hồ Chí Minh viết bài này về Đảng Lao Động Việt Nam và sự giúp đỡ của các Đảng anh em đối với Đảng Lao Động Việt Nam.

157. CH-KOPP (Alabama), 1963. Bút danh này của Hồ Chí Minh viết bài “Chó Mỹ Da Trắng Cắn Mỹ Da Đen” đăng trên Nhân Dân , ngày 30 tháng 4 năm 1963.

158. Than Lan, 1963. Bút danh này Hồ Chí Minh dùng viết bài “Đại Hội Phụ Nữ Quốc Tế,” đăng trên báo Nhân Dân, số 3377, ngày 26 tháng 6 năm 1963. Bài viết về buổi họp phụ nữ tại Moscow.

159. Ng. Văn Trung, 1963.Hồ Chí Minh dùng bút danh này viết bài “Phải Chăng Rồng Lấy Nước”, tháng 6 năm 1963.

160. Ngô Tâm, 1963. Ngày 7 tháng 9 năm 1963, Hồ Chí Minh viết thư gửi Lê Duẩn, ký tên Ngô Tâm.

161. Nguyễn Kim, 1963. Hồ Chí Minh lấy bút danh Nguyễn Kim trong bài “Thư Bạn Đọc” đăng trên báo Nhân Dân,  ngày 7 tháng 12 năm 1963.

162. Dân Việt, 1964. Hồ Chí Minh lấy bút hiệu Dân Việt viết bài “Thư Ngỏ Gửi Ngài Ngoại Trưởng Anh Cát Lợi” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 22 tháng 1 năm 1964.

163. Đinh Văn Hảo, 1964. Bút danh này Hồ Chí Minh viết thư gửi “chủ bút báo Tân Việt Hoa” ngày 2 tháng 5 năm 1964.

164. C.S., 1964. Hồ Chí Minh lấy bút hiệu C.S. viết bài “Chó Mỹ” đăng trên Nhân Dân, ngày 10 tháng 9 năm 1964.

165. Lê Nông, 1964. Bút danh này dùng trong các năm 1964-1966. “Một Mẫu Tây Gặt Được 13 Tấn Thóc”, đăng trên Nhân Dân, từ 15-18 tháng 9 năm 1964.

166. L.K., 1964. Hồ Chí Minh dùng bút danh L.K. viết bài “Báo Chí Anh Lột Trần Âm Mưu của Mỹ ở Việt Nam.”

167. K.O., 1965. Hồ Chí Minh ký bút danh K.O. trong bài “Người Mới Việc Mới” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 10 tháng 9 năm 1965. Bài viết về gương người làm việc tốt được “Bác Hồ” thưởng huy hiệu.

168. Lê Ba, 1966. Bút danh Lê Ba Hồ Chí Minh dùng viết thư “Trả Lời Ông Men Xphin Thượng Nghị Sĩ Mỹ” đăng trên Nhân Dân, số 4407, ngày 30 tháng 4 năm 1966. Bài viết kêu gọi Hoa Kỳ ngưng chiến tại Việt Nam.

169. La Lập, 1966. Hồ Chí Minh dùng bút danh La Lập viết bài “Tổng Giôn Phạm Tội Ác Tày Trời” đăng trên Nhân Dân, số 4508, ngày 10 tháng 8 năm 1966.

170. Nói Thật, 1966. Hồ Chí Minh dùng bút danh này viết 4 bài báo đăng trong báo Nhân Dân năm 1966.

171. Chiến Đấu, 1967.Trong thời gian Hồ Chí Minh chữa bệnh tại Trung Cộng, ông viết 2 bài báo với bút danh Chiến Đấu.  Một bài có tựa “Lại Thêm Một Thắng Lợi To Lớn của Trung Quốc Anh Em”, đăng trên Nhân Dân, số 4823, ngày 24 tháng 6 năm 1967.

172. B., 1968. Ngày 10 tháng 3 năm 1968, Hồ Chí Minh gửi thư cho Lê Duẩn, ký tên B. Nội dung thư liên hệ về việc Hồ Chí Minh đi thăm miền Nam. Trong những năm 60, bí danh B. cũng được dùng để gửi thư các đồng chí trong bộ chính trị.

173. Việt Hồng, 1968. Hồ Chí Minh ký bút danh Việt Hồng viết bài “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện Về Các Mác” đăng trên Nhân Dân, số 5137, ngày 5 tháng 5 năm 1968.

174. Đinh Nhất, 1968. Tháng 5 năm 1964, Hồ Chí Minh đi Côn Minh dùng bí danh này. Hồ Chí Minh gửi thư Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu, ngày 25 tháng 5 năm 1968, cũng dùng bí danh Đinh Nhất.

175. Trần Dân Tiên. Gần đây các nhà nghiên cứu và sưu tầm cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dùng bí danh hoặc bút danh này, tuy nhiên vẫn chưa rõ được dùng vào thời điểm và bối cảnh cụ thể nào.

Hiện vẫn còn khoảng 30 tên gọi, bí danh, bút danh được cho là của Hồ Chí Minh, nhưng chưa có cơ sở để khẳng định chắc chắn hoặc chứng minh cụ thể Bác đã dùng vào thời gian nào, trong trường hợp nào, nên vẫn chưa thể công bố chính thức. Chúng tôi sẽ tiếp tục sưu tầm và giới thiệu đến độc giả.

Nguồn: Ban Tư liệu – Văn kiện – dangcongsan.vn Trích dẫn từ Trang điện tử Nhà Văn hóa Thanh niên TP. Hồ Chí Minh.

Source :
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/nhan-vat-su-kien/175-ten-goi-but-danh-va-bi-danh-cua-chu-tich-ho-chi-minh?fbclid=IwAR3DgMRXdGkgGKvPYTKy3ukIClOtvRB5e9KRJ4RmDIddaR4QWQT8ugwpuCk

Categories
Việt Nam

Khóc một dòng sông…(Tổng hợp một số bài viết về sự khô cạn của sông Cửu Long)


Khóc một dòng sông Mekong
Sông Mekong cạn nước. (Ảnh: Shutterstock)

Đất không một ngày nghỉ ngơi, vắt kiệt sức cho những đồng lúa tăng vụ, sông không một khúc bình yên vì bị chặn đập nắn dòng, sụp lở vì nạo vét cát như những vết thương ăn sâu vào đôi bờ, chưa kể sự ô nhiễm đổ ra con sông từ nhiều nguồn. Biến đổi khí hậu được cảnh báo hàng chục năm trước và nay đã hiện diện rõ ràng, những con đập trên thượng nguồn đã xây dựng và có kế hoạch xây dựng tiếp cũng từ hàng chục năm nay, mùa nước nổi trở nên thất thường về thời gian, về cường độ trong vài năm gần đây… Tất cả là dấu hiệu rõ ràng bệnh tình của sông Mẹ.

Đọc tiếp => Khóc một dòng sông…

Categories
Việt Nam

ANDRE MENRAS VIỆT NAM: TIẾNG GÀO THÉT TỪ BÊN TRONG


ANDRE MENRAS VIỆT NAM : TIẾNG GÀO THÉT TỪ BÊN TRONG

Xin hết lòng cảm tạ quý vị, nữ hay nam, đã phát biểu, đã đón tiếp và tin cẩn tôi. Một lần nữa, tôi xin ca ngợi lòng dũng cảm của họ trong quá khứ và hiện tại, lòng yêu đất nước và nhân dân bất diệt của họ. André Menras- Hồ Cương Quyết (Một người Pháp yêu VN)

Categories
Việt Nam

Nguyễn Cao Kỳ : “Miền Nam Việt Nam cần một lãnh tụ thật sự như Hồ Chí Minh”


Nguyễn Cao Kỳ : Một phó TT VNCH bưng bô Vịt Cộng !

.

Tháng 3/1977, cựu Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ trả lời phỏng vấn của phóng viên Micheal Charlton trong loạt bài Nhiều lý do tại sao: Sự can dự của Mỹ vào Việt Nam (Many Reasons Why: The American Involvement in Vietnam) của Đài phát thanh số 3 thuộc hãng BBC (Anh). Sau đó, tuần báo The Listener đăng lại trên số ra ngày 24/11/1977 ở các trang 670-672 dưới nhan đề: Điều mà miền Nam Việt Nam cần là một người như Hồ Chí Minh (What South Vietnam needs is a man like Ho).

indeNCky`

Dưới đây, chúng tôi trích dịch bài báo và thêm một số chú thích.

– Micheal CharltonChuyện [Ngô Đình] Diệm bị lật đổ và bị ám sát quan trọng như thế nào đối với anh?

Đọc tiếp => Nguyễn Cao Kỳ : “Miền Nam Việt Nam cần một lãnh tụ thật sự như Hồ Chí Minh”

Categories
Việt Nam

Việt Nam tặng thiết bị, vật tư, y tế ‘tốt nhất’ giúp Trung Quốc chống virus Corona


Vũ Hân

“Các trang thiết bị, vật tư y tế mà Việt Nam trao tặng Trung Quốc là số tốt nhất mà Việt Nam có, trong bối cảnh chúng tôi cũng có nhu cầu rất lớn với các vật tư này”, theo Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng.

Theo tin từ Bộ Ngoại giao, chiều 9.2, lễ trao trang thiết bị, vật tư y tế chống virus Corona của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam tặng Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đã diễn ra tại sân bay Nội Bài (Hà Nội).

Đọc tiếp =>  Việt Nam tặng thiết bị, vật tư, y tế ‘tốt nhất’ giúp Trung Quốc chống virus Corona

Categories
Sưu Tầm Việt Nam

Báo động đỏ: Trung Quốc lừa mua con gái Việt Nam rồi mổ lấy nội tạng


Biên tập viên

Tôi vừa được người bạn tù chuyển cho tôi một clip nguồn “Phục Hưng Việt” về các cô gái Việt khoe thân cho bọn Chệt Hoa Lục về làm vợ tại một địa điểm kín đáo năm 2019. Quí vị vào trang WEB sau đây để xem toàn bộ cái clip này:

Tội ác này đã không còn giới hạn trong phạm vi Hoa Lục, có những đường dây buôn bán nội tạng bất hợp pháp xuyên biên giới, đưa người Tàu Hoa Lục xoay sở kiếm nội tạng ở nước ngoài, cung cấp cho các bác sỹ và bệnh viện cấy ghép nội tạng ở Hoa Lục. Chỉ biết rằng, một số quốc gia là nguồn cấp nội tạng vô tận cho Hoa Lục với giá rẻ mạt, đó là Việt Nam, Campuchia. Do đó, một số người Tàu Hoa Lục sang nước ta, thu mua nội tạng thiếu nữ Việt Nam qua hình thức “hôn nhân”. Nhiều thiếu nữ nhẹ dạ bị rơi vào đường dây buôn bán người để mổ cướp nội tạng.

Đọc tiếp => Báo động đỏ: Trung Quốc lừa mua con gái Việt Nam rồi mổ lấy nội tạng

Categories
Việt Nam

Cận cảnh “phố Trung Quốc” dọc sân bay Nước Mặn Đà Nẵng


Dọc khu vực sân bay Nước Mặn, TP Đà Nẵng có hàng loạt quán ăn, nhà hàng có biển hiệu bằng tiếng Trung Quốc biến nơi đây thành “phố Tàu”.

>>“Phố Trung Quốc” ở Hà Tĩnh

Ngày 20/9, tại buổi tiếp xúc cử tri quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng, ông Nguyễn Quang Vinh, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) TP đã giải trình với cử tri về thông tin “21  trường hợp người Trung Quốc có tên trong quyền sử dụng đất ở khu vực dự án đô thị dọc sân bay Nước Mặn” thuộc quận này. Theo ông Vinh, trên địa bàn quận này có 20 trường hợp doanh nghiệp trong nước có giấy đăng ký chứng nhận quyền sử dụng đất với 20 lô đất, có cổ phần của người nước ngoài.

Ông Vinh lý giải, những người nước ngoài trên không nắm đủ cổ phần để nắm quyền chi phối, theo quy định của pháp luật Việt Nam vì doanh nghiệp trong nước chiếm 51% cổ phần nên có quyền chi phối. Chính vì thế, 20 trường hợp trên đều là doanh nghiệp trong nước nhưng có cổ phần góp vốn nước ngoài.

Trước đó, trong ngày 19-9, tại buổi tiếp xúc cử tri huyện Hòa Vang, ông Tô Văn Hùng, Giám đốc Sở TN-MT TP Đà Nẵng cho hay trước nhiều ý kiến về thực trạng người Trung Quốc mua đất, Bộ TN-MT có chỉ đạo và sở đã tiến hành rà soát. “Hiện nay, trên toàn địa bàn thành phố, đặc biệt là ở khu vực các dự án, đô thị dọc sân bay Nước Mặn (thuộc khu ven biển quận Ngũ Hành Sơn – PV), trong đó khu dọc sân bay Nước Mặn có tất cả 246 lô đất. Qua rà soát, có 21 trường hợp là người Trung Quốc đứng tên” – Ông Hùng nói.

Cũng theo ông Hùng, trước đây, 21 trường hợp này được cơ quan chức năng cấp giấy chứng nhận cho người Việt Nam. “Tuy nhiên, trong trong quá trình khai thác sử dụng thì người ta sử dụng hình thức mua cổ phần và góp vốn. Hiện nay chuyển sang người Trung Quốc đứng tên” – Ông Hùng nói.

Giám đốc Sở TN-MT TP Đà Nẵng cũng khẳng định, việc cấp giấy chứng nhận là hoàn toàn đúng pháp luật còn “có dấu hiệu hay không, có dấu hiệu người Trung Quốc núp bóng hay không” là thuộc về cơ quan điều tra.

Thực tế, vệt đất ven biển thuộc quận Ngũ Hành Sơn, dọc sân bay Nước Mặn, có hàng chục hàng quán, cơ sở lưu trú phục vụ cho người Trung Quốc với các biển hiệu tiếng Trung. Phần lớn các biển hiệu này dưới hàng chữ tiếng Việt đều đi kèm tiếng Trung Quốc.

Dưới đây là hình ảnh tại khu vực sân bay Nước Mặn, nơi được mệnh danh là “phố Trung Quốc”:

Cận cảnh phố Trung Quốc dọc sân bay Nước Mặn Đà Nẵng - 1

 

Đọc tiếp => Cận cảnh “phố Trung Quốc” dọc sân bay Nước Mặn Đà Nẵng

Đọc thêm => Tin Việt Nam