Chế Bồng Nga : Anh Hùng Chiêm Quốc – Chương 13

1

Trong quá trình hợp tác với quân Minh để diệt trừ giặc biển, quân Chiêm Thành đã tỏ ra xuất sắc làm cho vua Minh hết sức ngạc nhiên. Phần lớn đội quân thủy ấy là những người đã được tuyển từ những gia đình quen sống với các nghề trên biển từ nhỏ nên họ vẫn coi cõi sóng nước như chốn đất bằng. Cấp chỉ huy thì có tài nhận xét bén nhạy, chỉcần nhìn qua hình thế núi biển là có thể đoán được nơi nào bọn thủy khấu ẩn núp, nơi nào không. Lính tráng thảy đều có thể bơi lặn, len lách tài tình như những con rái cá. Khi chiến đấu trên mặt nước, họ vẫn thường trội hơn các địch thủ. Nhờ sức của đội quân này nên chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều vùng duyên hải của Trung Hoa đã vắng bóng giặc Nụy. Phần lớn bọn cướp biển phải tản về ẩn núp quanh các miền ven biển và các đảo thuộc các nước nhỏ vùng Đông Nam Á.
Muốn triệt trừ hậu hoạn, vào năm Đinh Mão*, vua Minh đã ra lệnh cho hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông tập trung trên 300 chiến thuyền với đầy đủ khí giới, lương thực tại Chiết Giang để sang Chiêm Thành mở cuộc hành quân phố hợp tiễu trừ bọn giặc này.
Những cuộc hành quân phối hợp Hoa – Chiêm đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp khiến vua Minh rất hài lòng. Vua Minh càng ngày càng tỏ ra ưu đãi Chiêm Thành như với đứa con cưng. Vì thế, vua Chế Bồng Nga càng sinh lòng kiêu căng, ỷ công. Những chiến lợi phẩm đoạt được trong những cuộc hành quân phối hợp đã nhiều lần bị quân Chiêm giấu bớt. Người Minh biết được nhưng vẫn làm ngơ. Tiến xa hơn nữa, một lần nghe được tin Chân Lạp đang đưa 52 con voi sang triều cống nhà Minh, Chế Bồng Nga đã bàn với tướng La Ngai ngầm ra lệnh cho một viên quan võ đem quân giả làm một đám giặc biển để bắt chặn bớt. La Ngai hơi lấy làm lo hỏi:
-Làm thế nếu vua Minh biết được thì rắc rối lắm!
Chế Bồng Nga nói:
-Không sao đâu! Cứ làm cho gọn, đừng để lại tang chứng thì vua Minh làm gì được? Nó bóc lột các nước nhỏ hàng năm không biết tới bao nhiêu mà kể, ta có công bắt giặc biển giúp nó, nay chia bớt của nó một phần cũng hợp lẽ lắm chứ!
Thế rồi La Ngai đã cướp được 15 con voi cùng nhiều tên quản tượng. Việc tuy có người cáo giác, nhưng vì không nắm được tang chứng, vua Minh chỉ gởi một sắc dụ để răn đe Chế Bồng Nga như sau:
“Ta biết rằng ngươi là Di phương Nam, nhưng không nghĩ rằng ngươi vừa tôn kính Trung Hoa, lại lấy việc cướp bóc làm nghề nghiệp. Dù rằng hàng ngày ngươi cướp bóc làm điều bất nghĩa thì cũng phải biết kẻ lớn người nhỏ, kẻ trên người dưới! Há là người đứng đầu một nước lại dám buông tuồng khinh lờn thiên tử. Như năm ngoái ngươi dâng voi và 2 người quản tượng, từ khi cho con ngươi trở về thì trốn tránh không dâng tiếp! Việc làm của ngươi cứ tiếp tục như vậy thì một đàng không có lòng thờ nước lớn, một đàng thì mất sự chính nghĩa để giao tiếp với lân quốc. Ngươi phải suy nghĩ, sửa đổi, chớ để hối về sau.”
Dĩ nhiên là vua Chế Bồng Nga thừa khôn ngoan để “suy nghĩ, sửa đổi”. Chiêm Thành vẫn tiếp tục hợp tác với Trung Hoa trong việc diệt trừ giặc biển…
Cuộc vận động để loại trừ Giản hoàng của Lê Quí Ly đã thành công mỹ mãn. Đó là một thắng lợi cực kỳ to lớn của ông ta, một cú đẩy cực mạnh vào cái đà đang tuột dốc của nhà Trần. Thượng hoàng Nghệ Tôn lúc bấy giờ đã ngoài 70, già nua lẩm cẩm, vị vua mới Trần Thuận Tôn còn quá nhỏ, chưa có mấy kinh nghiệm việc đời và cũng chẳng có quyền hành gì. Những quan văn tướng võ sáng giá liên can hoặc có thiện cảm với Giản hoàng hầu hết đã bị diệt trừ. Những trung thần, những tôn thất nhà Trần còn may mắn không dính líu đến cuộc thanh trừng nói trên đều phải lo tìm cách để giữ mình. Một số xin về vui thú điền viên, những người còn ở lại đều phải nhẫn nhục câm nín để chờ thời. Người em ruột của Giản hoàng là Trần Nguyên Diệu, lúc bấy giờ đang làm An phủ sứ và cũng có đất phong ở Thanh Hóa, trước vốn có hiềm khích với Quí Ly, nay lại thấy vua anh bị giết oan ức, vừa căm giận vừa sợ hãi bèn lấy cớ bệnh hoạn, cáo quan xin về ở ẩn.
Vua Thuận Tôn lên ngôi chưa bao lâu, Lê Quí Ly tâu với Thượng hoàng:
-Theo luật âm dương, có mặt trời phải có mặt trăng vũ trụ mới điều hòa. Nay đã lập vua mới, tưởng cũng nên lập hoàng hậu cho thuận lẽ, xin Thượng hoàng sớm định liệu.
Thượng hoàng nói:
-Khanh hãy dò tìm các quan trong triều từ tam phẩm trở lên, nhà nào có con gái nhan sắc coi được và đủ tài đức hãy lên danh sách cho ta xem để quyết định chọn lập.
Lê Quí Ly tâu:
-Ở gia đình các quan trong triều thì thần chưa rõ, riêng thần cũng có đứa con gái lớn là Thánh Ngâu, thông minh, có sắc, có tài văn chương, công dung ngôn hạnh gồm đủ. Nếu Thượng hoàng không chê, xin đưa về hầu hạ cho quan-gia thì thật là vinh hạnh cho gia đình thần!
Lập con gái Thái sư làm hoàng hậu cũng là một cách gắn bó thêm tình thân giữa Thái sư với vị ấu quân con ngài – Thượng hoàng nghĩ – đó cũng là điều tốt! Ngài nói:
-Ý, ta suýt quên mất! Ta từng nghe Thái sư có một ái nữ là Thánh Ngâu tài sắc vẹn toàn mà! Thế là được rồi! Thôi, chẳng cần dò tìm lựa chọn gì nữa! Giờ chỉ cần chọn ngày lành tháng tốt để lập ngôi hoàng hậu là đủ!
Đầu năm Kỷ Tị*, con gái Thái sư Lê Quí Ly là Thánh Ngâu được lập làm hoàng hậu, cho ở điện Hoàng Nguyên.
Đến tháng tư, Quí Ly lại tâu với Thượng hoàng thăng Phạm Cự Luận chức Thiêm thư khu mật viện sự. Phạm Cự Luận lại tiến cử một số nhân tài cùng cánh là Phạm Phiếm, Vương Khả Tuân, Dương Chương, Hàn Tử Tây, Nguyễn Sùng, Nguyễn Thư, Nguyễn Cảnh Chân và Đỗ Tử Mãn ra nắm giữ các chức vụ khá quan trọng trong triều.
Lúc bấy giờ giặc giã trong nước càng ngày càng gia tăng. Tháng tám năm đó, có tên Nguyễn Thanh người Thanh Hóa tự xưng là Linh Đức đại vương lánh nạn, tụ tập khởi nghĩa ở sông Lương, dân chúng hưởng ứng khá mạnh. Tháng chín lại có Nguyễn Kỵ người Nông Cống tự xưng là Lỗ vương Điền Kỵ cũng tụ họp binh lính đi cướp bóc nhiều nơi. Quan quân nhà Trần phải luôn đánh dẹp rất vất vả.
Nhận được tin này, Chế Bồng Nga liền cử đại binh chia làm hai cánh thủy, bộ tiến ra Thanh Hóa. Đầu tháng mười, cánh quân bộ của Chiêm Thành chiếm lấy làng Cổ Vô làm nơi đóng đại bản doanh. Cánh quân thủy cũng cho thuyền chiến đậu một dãy dọc trên sông Lương gần đại bản doanh để phòng hờ cứu ứng nhau.
Về phía Đại Việt, được tin quân Chiêm sang, Thái sư Lê Quí Ly nhận lệnh Thượng hoàng, cũng chia đại quân làm hai cánh thủy, bộ cùng tiến vào Thanh Hóa để chống cự. Về mặt bộ, dưới quyền Quí Ly có hơn 70 vị tướng sĩ lớn nhỏ đã lập phòng tuyến đối đầu với đại bản doanh của quân Chiêm. Cánh quân thủy thì Quí Ly giao cho tướng Nguyễn Đa Phương chiếm phía hạ lưu sông Lương làm căn cứ. Nguyễn Đa Phương cho quân đóng cọc dày đặc giữa lòng sông để ngăn giặc. Ông có nhiệm vụ vừa đối đầu với cánh quân thủy của Chiêm Thành vừa chận đường tiếp tế lương thực của quân Chiêm từ đường biển lọt vào. Nguyễn Đa Phương từng đánh thắng quân Chiêm mấy trận lớn nên quan quân nước Chiêm đều cảnh giác cánh quân này.
Quân hai bên tuy có tấn công lẫn nhau nhưng những cuộc tấn công này đều chỉ có tính cách lẻ tẻ, thăm dò. Trải hơn nửa tháng vẫn chưa có một trận đụng độ nào đáng kể. Nhìn chung tình hình, Lê Quí Ly đã tỏ ra rất lạc quan, ông nói với các tướng:
-Lần này chắc chắn quân Chiêm sẽ thất bại nặng!
Các tướng hỏi:
-Dựa vào đâu mà Thái sư tin chắc như vậy?
Lê Quí Ly khinh khỉnh đáp:
-Người Chiêm vốn ở phương Nam đâu có quen chịu rét mướt như quân ta? Thế mà Chế Bồng Nga lại xuất quân vào mùa này, đó là điều bất lợi thứ nhất! Quân Chiêm ở xa đến, chủ yếu là phải đánh nhanh, nay Chế Bồng Nga lại lừng khừng không dám đánh! Ở lâu tất phải gặp khó khăn về lương thực, nếu ta chận mất đường tiếp viện lương thực, quân giặc làm sao khỏi sinh loạn? Đó là điều bất lợi thứ hai! Còn ta ở đất nhà, việc chuyển lương không khó mấy. Nay cứ việc thủ cho kỹ để câu thời gian. Khi cạn lương quân Chiêm sẽ phải rút về thôi! Lúc ấy ta cho quân truy kích lẽ nào không thắng?
Các tướng nghe Thái sư luận đều có vẻ tin tưởng.
Trong khi đó về phía Chiêm Thành, Chế Bồng Nga cũng triệu tập các tướng để bàn kế hoạch tấn công Đại Việt. Mở đầu, Chế Bồng Nga hỏi:
-Quân ta ra đây đã gần cả tháng rồi mà vẫn chưa có một cuộc hành quân lớn nào, các khanh nóng ruột không?
Tướng Bố Đông nói:
-Quả tình thần thấy nóng ruột lắm. Quân ta ở xa đến lợi ở chỗ đánh gấp. Trước đây mỗi lần sang Đại Việt là ta tìm mục tiêu tấn công ngay. Nay quân hai bên đã đối mặt nhau hơn nửa tháng mà chỉ có những trận đánh cầm chừng, thần chưa hiểu được chủ định của bệ hạ!
Chế Bồng Nga gật đầu cười:
-Các khanh nóng ruột là phải. Ta ở xa đến, vấn đề chuyển vận lương thực bao giờ cũng khó khăn. Chỉ có dùng đường thủy mới tiện, nhưng nay quân Trần lại cho Nguyễn Đa Phương án ngữ đường thủy mất rồi! Y lại là một tướng giỏi! Nếu cứ đánh cầm chân nhau ở đây thế này trước sau quân ta cũng sẽ cạn lương mà rút. Khi ấy giặc sẽ thừa cơ truy kích, ta làm sao được vẹn toàn? Nhưng các khanh chớ lo. Ta đã có sẵn một kỳ mưu sẽ làm cho quân Đại Việt tan tác hết trong vài ngày tới!
Thế rồi Chế Bồng Nga gọi Ma Đà Nô, viên phó tướng chỉ huy cánh quân thủy đến dặn:
-Ta biết tướng giặc Nguyễn Đa Phương là một tay kiệt hiệt, nếu khanh trực diện đánh nhau với y chưa biết ai ăn ai. Nhưng khỏi cần đánh nhau! Ta giao cho khanh nhiệm vụ vô hiệu hóa cánh quân của Đa Phương thôi! Chỉ cần thi hành đúng mệnh lệnh của ta thế nào cũng thắng!
Ma Đà Nô thưa:
-Làm thế nào xin bệ hạ chỉ dạy!
-Khanh hãy lặng lẽ cho người lên phía thượng nguồn, chọn nơi nào thuận tiện nhất cho đốn gỗ làm một con đập ngăn nước càng cao càng tốt. Sau đó chia lập mấy trạm canh chừng từ đập ngăn nước tới trạm gần nhất có thể thấy được động thái của đội chiến thuyền Đại Việt.

Các trạm phải liên tục liên lạc nhau bằng cờ hiệu. Bình thường cứ mỗi đầu giờ đồng hồ, trạm gần đội chiến thuyền Đại Việt nhất lại phất cờ trắng lên rồi các trạm kế tiếp sẽ lần lượt phất theo. Khi nào thấy chiến thuyền Đại Việt ồ ạt tiến lên hãy phất cờ đỏ để báo hiệu. Cứ thấy hiệu báo cờ đỏ này, khanh lập tức hạ lệnh phá đập cho nước chảy mạnh để ngăn chận thuyền chúng tiến lên! Đắp đập xong hãy báo cho ta biết để thực hiện mưu kế!
Tướng Ma Đà Nô vâng lệnh, bí mật cho quân đi đắp đập. Thực hiện xong công tác, Ma Đà Nô liền thân hành về báo cáo cho Chế Bồng Nga biết. Chế Bồng Nga vui mừng gọi tướng Bố Đông đến dặn:
-Sau khi ta đã bí mật đưa quân ra rừng phục kích quân Việt, khanh hãy đem quân bản bộ chạy vòng tới vòng lui giả vờ như rút quân khỏi doanh trại, mục đích để quân do thám Đại Việt lầm tưởng quân ta rút đi thật. Như vậy nhất định chúng sẽ cho tinh binh đuổi theo. Khi đó khanh cứ cho quân chạy thẳng vào rừng để dụ chúng theo càng xa càng tốt. Trong lúc giặc tưởng ta đã rút chạy và tinh binh của giặc đã xa rời trại chính, quân phục kích của ta sẽ bất ngờ nổi dậy đánh úp doanh trại của chúng. Nếu cánh quân Việt đuổi theo khanh phát giác được ta dùng kế điệu hổ ly sơn mà quay lui thì khanh cũng phải quay trở lại cố đánh để giữ chân không cho chúng rút lui ứng cứu nhau.
Truyền lệnh cho Bố Đông xong, Chế Bồng Nga lại sai tướng La Ngai bí mật chuyển quân và voi ra rừng phục kích sẵn đợi lệnh.
Thái sư Lê Quí Ly vẫn cho người theo dõi tình hình địch hằng ngày, thấy được dấu hiệu quân Chiêm sắp rút ông rất mừng. Ông nói với các tướng:
-Ta đã đoán biết mà! Từ đất Chiêm sang ta rừng núi chập chùng, việc vận chuyển lương thực không dùng đường thủy là gặp rắc rối ngay! Nay cửa sông Lương đã bị quân ta chặn mất, làm sao quân Chiêm không nguy khốn được! Các ông hãy chuẩn bị sẵn sàng, hễ thấy chúng rút là ta tung quân truy kích ngay!
Quí Ly lại dặn tướng Phạm Khả Vĩnh:
-Đây là cơ hội để cho ông lập công lớn! Ông hãy tuyển lựa sẵn một đội quân tinh nhuệ, dũng cảm làm mũi nhọn! Hễ thấy quân Chiêm rút lui ông khỏi cần đợi lệnh ta, cứ việc tùy tiện xuất quân truy kích không cho chúng kịp trở tay! Ta và các tướng khác sẽ điều động số quân còn lại tiếp ứng sau!
Phạm Khả Vĩnh vâng lệnh, tuyển hầu hết những lính trẻ thiện chiến vào đội quân của mình đồng thời cho người liên tục theo dõi sự động tĩnh ở đại bản doanh quân Chiêm.
Ngày kia, lúc vừa tờ mờ sáng, Phạm Khả Vĩnh nhận được báo cáo thấy nhiều toán quân Chiêm từ đại bản doanh Cổ Vô đang rút chạy. Sau khi kiểm chứng cẩn thận, thấy doanh trại quân Chiêm gần như bỏ trống, Khả Vĩnh lập tức nổi hiệu báo động rồi kéo hết đội quân tinh nhuệ của mình đuổi theo.
Lê Quí Ly nghe hiệu báo động liền hỏa tốc hạ lệnh cho toàn quân gắng sức đuổi diệt quân Chiêm Thành. Nhưng quân của Quí Ly tiến ra chưa được bao xa thì bất ngờ bị phục binh Chiêm nổi dậy vây đánh dữ dội. Đội quân tinh nhuệ của Phạm Khả Vĩnh đã đi quá xa không sao quay trở lại giải cứu quân nhà kịp. Tiếng quân reo, tiếng voi gầm khủng khiếp đã làm quân Việt mất hết tinh thần, không chống cự nổi, tan rã hết. Quân Việt bị giết vô số. Hơn 70 tướng lãnh Đại Việt bị tử trận, tướng Nguyễn Chí chỉ huy đội quân Hữu Thánh Dực bị quân Chiêm bắt sống. Lê Quí Ly nhờ một toán thuộc hạ trung thành liều chết cứu thoát được, ông liền bỏ quân mà trốn về Thăng Long…
Tướng Nguyễn Đa Phương chỉ huy cánh quân thủy Đại Việt đang đóng ở hạ lưu sông Lương khi nghe lệnh đuổi đánh quân Chiêm cũng lập tức thúc toàn bộ chiến thuyền của mình tiến lên. Nhưng đoàn chiến thuyền này chỉ mới tiến được một đoạn sông liền bị một dòng nước rất mạnh cùng với những cây gỗ trôi hỗn loạn đẩy ngược lui làm cho quân sĩ chới với không tiến được nữa. Có mấy chiếc đã bị gỗ đụng phải vỡ lật trôi luôn. Một số quân sĩ đã phải chết đuối. Khi dòng cuồng lưu đã giảm sức mạnh, Nguyễn Đa Phương mới chỉnh đốn lại được hàng ngũ. Lúc ấy đại quân của Lê Quí Ly đã tan rã hoàn toàn.
Tướng Phạm Khả Vĩnh đang chỉ huy đội quân tinh nhuệ đuổi theo đội quân Chiêm bỗng nghe voi rống quân reo ở phía sau biết ngay mình đã mắc kế “điệu hổ ly sơn”, ông vội ra lệnh ngừng đuổi để trở lại cứu trại nhà. Nhưng đội quân Chiêm vừa bị truy đuổi liền quay ngược trở lại đánh liều để cầm chân Phạm Khả Vĩnh. Hai bên còn đang dùng dằng thì cánh phục binh của Chế Bồng Nga đã loại trừ xong cánh quân của Lê Quí Ly. Quân Chiêm chia làm đôi, một phần tiếp tục truy đuổi tàn quân Đại Việt, phần còn lại tập trung tiếp tay tướng Bố Đông vây đánh Phạm Khả Vĩnh. Đội quân của Khả Vĩnh dần lâm vào thế “lưỡng đầu thọ địch”. Tuy thiện chiến nhưng đội quân này quân số kém hẳn quân Chiêm, lại đã quá mệt mỏi nên càng lúc càng bị dồn đến đường cùng. Giữa lúc mười phần nguy khốn ấy bất ngờ có một đội quân Việt khác từ phía sông Lương đánh vào vòng vây khiến quân Chiêm đâm ra rối loạn. Quân của Phạm Khả Vĩnh cũng thừa cơ hội phản công dữ dội phá trùng vây. Không mấy chốc hai đội quân Việt đã bắt tay được với nhau. Khi ấy Phạm Khả Vĩnh mới biết được đội quân cứu nguy mình chính là đội quân của tướng Nguyễn Đa Phương!
Vua Chế Bồng Nga thấy quân Chiêm cũng đã mệt mỏi nên ra lệnh rút về đại bản doanh để tạm nghỉ.
Nguyễn Đa Phương cùng Phạm Khả Vĩnh nhập quân làm một rồi rút về nơi đóng binh thuyền cố thủ. Khi ấy Phạm Khả Vĩnh mới hỏi Nguyễn Đa Phương:
-Tại sao hồi sáng ông không tiếp cứu Lê Thái sư để đến nỗi quân ta thua tan tác như vậy? Bây giờ Lê Thái sư ra sao ông có biết không?
Nguyễn Đa Phương nói:
-Tôi cũng chưa biết tin tức gì về Lê Thái sư cả. Chỉ nghe là các tướng lãnh của ta bị phục binh Chiêm giết gần hết. Khi ông đã xuất quân đuổi quân Chiêm, tôi vâng lệnh Thái sư mở hàng cọc cho các chiến thuyền tiến lên để tiếp sức cho ông và Thái sư. Nhưng không ngờ quân Chiêm đã ngầm đắp đập trên thượng nguồn ngăn nước lại, chờ lúc ấy chúng phá đập ra khiến nước chảy mạnh quá tạo một dòng cuồng lưu với những thớt gỗ trôi hỗn loạn, đẩy những chiến thuyền của tôi bị dội ngược hết, dồn cục xuống hạ lưu. Có mấy chiến thuyền bị gỗ đánh vỡ chìm trôi luôn! Quân sĩ cũng chết mất một số! Tới khi dòng cuồng lưu đã yếu, thuyền có thể tiến lên được thì cánh quân của Lê Thái sư đã tan rã rồi. Tôi chỉ còn biết chỉnh đốn lại hàng ngũ, phòng thủ ở đây để theo dõi tình hình diễn biến ra sao. May cũng cứu được một số tàn quân của ta chạy lạc. Vừa rồi đám quân do thám của tôi lại thấy được ông đang lâm nguy nên tôi kíp đến hỗ trợ cho ông đấy!
-Thật cũng may cho tôi. Nếu ông rút chạy rồi thì tôi cũng khó sống!
-Rút chạy làm sao được? Giặc sẽ đuổi theo ngay! Và như thế thì cánh quân thủy của tôi cũng tan rã mất!
Phạm Khả Vĩnh lo lắng hỏi:
-Thế bây giờ ông tính sao? Liệu chúng ta có cầm cự được với giặc để đợi viện binh của triều đình không?
Nguyễn Đa Phương tỏ vẻ chán nản:
-Lê Thái sư cầm quân dở quá nên đánh đâu bại đó! Giặc vừa đại thắng xong, thế quân quá mạnh, quân ta ít oi thế này làm sao cầm cự lâu dài được! Nhưng nếu quân ta rút giặc lại thừa cơ đuổi đánh càng thêm khốn! Tôi nghĩ bây giờ chỉ còn cách hư trương thanh thế, phóng cờ quạt ra thật nhiều, buộc các thuyền lớn vào cọc gỗ ở sông, canh phòng thật nghiêm mật, rồi nửa đêm dùng thuyền nhỏ lẻn trốn về là bảo toàn được lực lượng.
Phạm Khả Vĩnh khen:
-Ông tính kế ấy hay lắm! Cứ thế mà làm thôi!
Thế là trong đêm đó Nguyễn Đa Phương và Phạm Khả Vĩnh đã rút quân về không hao một người. Hai tướng cùng vào bái yết Thượng hoàng để xin chịu tội. Thượng hoàng an ủi:
-Hai khanh đem quân cô để chống với đại địch mà rút về được an toàn như vậy là giỏi lắm! Các tướng giỏi ngày xưa cũng không hơn được đâu! Ta lẽ nào lại bắt tội hai khanh!
Thấy vua khen hai tướng, các vị quan vốn ghét Lê Quí Ly cũng khen dồi thêm với mục đích làm cho Lê Quí Ly nhột nhạt. Lê Quí Ly xấu hổ bèn xin thôi nắm giữ binh quyền.
Nguyễn Đa Phương được nhiều người ca tụng quá đâm ra kiêu căng. Trước kia Đa Phương từng ủng hộ Quí Ly, từng bày mưu lập kế cho Quí Ly, nay thấy Quí Ly tỏ ra quá bất tài về mặt quân sự thì đâm ra khinh lờn. Nhân một lần say rượu Phương nói:
-Thái sư xin thôi nắm giữ binh quyền là phải. Ông ấy còn cầm quân ngày nào thì quân ta còn khó chống Chiêm Thành ngày ấy!
Quí Ly nghe được lời Nguyễn Đa Phương nói giận lắm. Dù sao thì Đa Phương cũng nhờ ông ta cất nhắc mà nên. Đối với Quí Ly, đây là một hành vi trở mặt cần phải trừng trị để răn kẻ khác. Một lần nhân bàn việc nước với Thượng hoàng, Quí Ly nói:
-Nguyễn Đa Phương giỏi thì thiệt giỏi, chỉ tiếc là hắn kiêu căng, cẩu thả quá nên dễ làm hư việc. Trong trận sông Lương vừa rồi hắn báo với thần là hắn dò biết quân Chiêm đã bỏ trại chạy trốn hết, thần tin lời hắn nên sai Phạm Khả Vĩnh đem hết quân tinh nhuệ đuổi theo. Không ngờ lại mắc mưu giặc nên quân ta mới đến nỗi thảm bại như thế!
Thượng hoàng nghe Quí Ly nói thì nổi giận:
-Thế mà ta lại tưởng nó có công khen nó chứ!
Quí Ly trình với Thượng hoàng nên tạm cắt quyền chỉ huy của Nguyễn Đa Phương một thời gian để răn đe. Thượng hoàng nghe theo. Mấy ngày sau Quí Ly lại tâu:
-Theo thần dò biết, sau khi bị cắt quyền chỉ huy, Đa Phương tỏ vẻ bất mãn oán hận lắm! Thần ngại hắn có thể làm phản!
Thượng hoàng lo lắng hỏi:
-Theo khanh nghĩ bây giờ ta nên làm sao?
Quí Ly tâu:
-Đa Phương rất gan góc, tráng kiện. Thần sợ hắn sẽ trốn sang nước Minh phương Bắc hay Chiêm Thành phương Nam, thả cọp để lại mối họa về sau, chi bằng giết đi là hơn!
Thượng hoàng lại nghe theo. Lê Quí Ly liền bắt ép Nguyễn Đa Phương phải tự tử. Nguyễn Đa Phương than:
-Ta vì có tài mà được giàu sang, rồi cũng vì tài mà đến nỗi chết! Chỉ hận là không được chết ở chiến trường!

 

Chế Bồng Nga : Anh Hùng Chiêm Quốc – Chương 14