Dù đã cố mượn công việc để quên bớt những sầu não, đầu óc tôi vẫn không sao giảm được sự căng thẳng. Trong những giấc ngủ tôi thường bị những cơn ác mộng hành hạ tột cùng. Trong đó có giấc mộng sinh con đã làm tôi khiếp hãi nhất. Sau này mỗi lần nhớ lại nó tôi vẫn còn rùng mình.
Chuyện bắt đầu lại từ chuyến buôn trầm thảm hại. Sau khi bị bọn bất lương lường gạt, tôi trở về nhà và biết mình mang thai. Tới nước này thì chuyện xấu ấy không còn giấu giếm ai được! Rồi đây tôi biết ăn nói sao với chồng tôi? Làng nước sẽ coi tôi ra thế nào? Tôi đau khổ tủi nhục tột cùng, tưởng chừng chỉ còn con đường tìm đất mà xuống! Sau đó tôi sinh ra một bé gái. Quá phẫn hận trước cái tai họa quá phũ phàng này, tôi đặt tên cho đứa bé là Hồ Thị Hận Thù. Tôi lấy họ Hồ đặt cho đứa bé vì tôi chẳng biết cha nó là ai mà chỉ biết bọn người hại tôi đều là cháu ngoan bác Hồ. Sự hiện hữu của đứa bé như một chứng tích về nỗi ô nhục của tôi. Khốn nỗi đứa bé lại kháu khỉnh dễ thương lạ lùng! Nó chính là một phần máu huyết của tôi nên tôi không ghét bỏ nó được. Mối mâu thuẫn đó đã làm đầu óc tôi càng rối loạn, bi thương.
Rồi một lần giữa lúc tôi đang cho bé Hận Thù bú, anh Thành đột ngột xuất hiện. Trông thấy đứa bé, anh Thành giận dữ sấn vào cướp lấy nó. Tôi hoảng hốt năn nỉ: “Anh đừng làm gì nó, nó vô tội!” Nhưng chàng đã xách ngược chân con bé đập đầu nó vào một tảng đá. Con bé bị vỡ óc não văng tung tóe. Tôi kinh hãi, đau đớn quá kêu thét lên một tiếng rồi tỉnh giấc. Người tôi ướt đẫm mồ hôi, tim tôi đập thình thịch, toàn thân tôi còn run bần bật… Một hồi sau tôi mới định thần lại được, tôi thở phào thốt ra:
- May quá, chỉ là một giấc mộng!
Cơn ác mộng này đã làm tôi hồ nghi mãi trong lòng. Chuyện gì sẽ xảy ra đây? Vì giấc mộng liên can đến chuyện kiêng kị sâu đậm của mình, tôi đâu dám thố lộ với những người quen biết! Nhưng để trong lòng cũng không yên! Tôi phải lần mò tìm hiểu cách đoán điềm giải mộng – dĩ nhiên tôi chỉ dám hỏi bóng hỏi gió những người xa lạ. Ai cũng cho tôi biết đại khái là “sanh dữ, tử hiền”, có nghĩa là mộng thấy sinh đẻ là điềm dữ, mộng thấy chết chóc là điềm lành. Tôi lại ngẩn ngơ suy nghĩ! Nếu quả đúng mộng ứng như vậy có thể tôi sẽ gặp điềm dữ trước rồi điềm lành sau. Thế rồi tôi cứ nơm nớp chờ đợi chuyện sẽ xảy ra.
Một buổi tối chị Hiền sang nhà tôi chơi. Chị cười hớn hở báo một tin sốt dẻo:
- Chị Ngọc ơi, nghe nói thằng cha Phan Cẩn và thằng cha Phước bị mất chức rồi! Tôi đã biết trước mà! Ỷ quyền ỷ thế ham ăn cho nhiều rồi cũng có ngày mắc cổ thôi!
Mấy tên đó có chết cũng chẳng ai thương. Tôi cũng hớn hở hỏi lại:
- Chị nghe sao nói cho tôi nghe với!
-
Nghe đâu mấy thằng cha đó vẫn hay thông đồng với lão Bản trưởng tổ heo, một bên làm thịt heo, một bên lập biên bản heo chết vì bị bệnh dịch, quen miệng ăn gian của hợp tác xã đã nhiều lần. Mới đây bị ai đó tố cáo không biết. Hình như có liên can tới cả ông bí thư xã nữa… Chuyện này nói ra nguy hiểm lắm. Tôi cũng mới nghe mập mờ như vậy thôi, chị khoan cho ai biết đã nghe!
-
Nghe thì nghe vậy chứ tôi nói với ai làm chi!
Thật tình tôi cũng chỉ nghe được bấy nhiêu. Công việc bề bộn khiến tôi và chị Hiền không có thì giờ gặp nhau để nói chuyện thêm. Hơn nữa chuyện cũng chẳng ăn nhập gì đến công việc của mình nên tôi cũng chẳng quan tâm mấy.
Chiều kia, khi đi chợ về gần tới nhà, nhác thấy một đám đàn bà đang lao nhao trước nhà chị Hiền, tôi tự dưng phát hoảng. Biết đâu chuyện chẳng lành đã đến với mình? Thấy chị Vàng cũng có mặt trong đám người ấy, tôi vội hỏi:
- Lâu ngày quá mới gặp lại chị. Có việc gì mà mấy chị tụ tập ở đây đông vậy?
Chị Vàng thấy tôi mà chẳng lộ vẻ mừng, chị nói:
- Tôi vừa ghé nhà cô, nghe lũ trẻ nói cô đi vắng. Giờ tiện đây cô thay đồ mà đi với chị em một chút cho luôn!
Chuyện gì vậy chị?
Chú Sự mất rồi cô chưa biết à?
Tôi kinh hãi, sửng sờ:
- Anh Sự tập đoàn trưởng tập đoàn mình hả chị?
Chứ còn ai nữa! Nhưng chú ấy đã đổi qua tổ nuôi vịt hai ba tháng nay rồi.
Trời ơi, anh ấy khỏe mạnh như vâm vậy mà chết à? Vì sao thế?
Chị Vàng thúc hối:
- Về thay đồ nhanh đi, chốc nữa rồi biết.
Khi nhập vào đám người cùng tập đoàn trước đây, tôi cảm thấy giữa tôi với họ lúc này hình như có sự gì ngăn cách. Ngoài chị Hiền và chị Lâm lâu nay vẫn qua lại bình thường, chỉ có chị Vàng nói chuyện với tôi có vẻ mặn nồng. Những người khác gặp tôi đều chỉ chào ậm ừ lấy lệ. Người ta đã có thành kiến gì với tôi chăng? Thái độ của họ khiến tôi cảm thấy nhột nhạt trong lòng…
Chúng tôi đến nhà anh Sự vừa kịp nhìn mặt anh ấy lần cuối trước khi liệm. Người đến thăm khá đông. Chị Sự có vẻ ấm ức nhưng không lăn khóc bù lu bù loa như bao nhiêu người vợ mất chồng khác. Con cái anh Sự cũng chẳng có đứa nào khóc, trông nét mặt chúng chỉ có vẻ lầm lì, sợ sệt. Vợ chồng anh Nghiệp, em ruột của anh Sự cũng không thấy thấp thoáng. Xác anh Sự vừa được đưa từ bệnh viện về trước đây mấy giờ nhưng nghe nói sáng hôm sau đã phải đưa ra huyệt mộ. Bà con, bạn bè và hàng xóm của anh đều phải hấp tấp chạy ngược chạy xuôi để lo mọi chuyện cho kịp. Đám tang tổ chức quá đơn giản và gấp gáp như một vụ phi tang. Tuyệt nhiên không có kèn trống, không có kinh kệ gì cả. Cái không khí nặng nề ấy đã khiến tôi liên tưởng đến những vụ chết trùng. Tôi hỏi quanh sao lại có trường hợp bất thường như vậy nhưng chẳng được ai trả lời thỏa đáng. Hình như hầu hết những người đi thăm đám đều không muốn bàn luận đến cái chết của anh Sự. Tôi chỉ nghe loáng thoáng những câu to nhỏ như “Ai ăn đâu mà mình gánh họa!” hoặc “Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”… Những câu nói mù mờ ấy làm tôi càng khó hiểu. Có lẽ chị Vàng, chị Lâm hay chị Hiền cũng chẳng biết gì hơn. Sự bất an từ trong lòng cứ lan tỏa làm tôi càng thêm hoang mang. Khi thắp hương rồi lạy người quá cố xong tôi liền lấy lý do lo cơm nước cho lũ con để xin về trước.
Đợi mấy ngày sau mọi chuyện đã xong xuôi tôi mới đến thăm chị Sự để hỏi thăm và an ủi chị. Lúc ấy chị Sự mới kể lại cho tôi nghe câu chuyện.
Anh Sự mới rời tập đoàn sang làm việc ở tổ nuôi vịt chưa đầy ba tháng. Tổ nuôi vịt của hợp tác xã gồm có bốn người, do người em ruột của anh Sự tên là Nghiệp làm tổ trưởng. Tổ gánh vác công việc chăn nuôi cả hàng ngàn con vịt. Anh Nghiệp vốn tính thật thà, lại siêng năng, cần cù nên được nhiều người thương mến. Nhưng anh lại có một nhược điểm là tính cả nể.
Về phần anh Sự, tuy làm tập đoàn trưởng nhưng ngoài việc chỉ huy, đốc thúc xã viên làm việc, anh không còn một quyền hành gì khác. Ông Nhiêu an ninh thôn vốn không ưa anh nên hay theo dõi công việc của anh một cách quá đáng. Anh Sự đã nhiều lần lớn tiếng cãi cọ với ông Nhiêu. Cấp trên luôn khiển trách anh vì anh không làm đúng theo ý muốn của họ. Ngược lại, xã viên nhiều người trách anh không đòi hỏi quyền lợi cho xứng đáng với công việc họ làm. Anh rất buồn bực trước cái thế trên đe dưới búa đó nên nẩy sinh ý định thoát ra khỏi tập đoàn. Vì thế, khi nghe tổ nuôi vịt có một người xin nghỉ, anh Sự liền xin thế chân. Ông Nhiêu cũng muốn nhổ cái gai trước mắt nên đã đề nghị với hợp tác xã chấp nhận dễ dàng.
Khi sang tổ nuôi vịt rồi anh Sự mới biết tổ này cũng đang gặp nhiều điều khó xử.
Số là tổ nuôi vịt bình thường lúc nào cũng có một số lúa dự trữ do hợp tác xã cấp. Số lúa này hạt không được tốt, sàng lọc không được kỹ, xay ra cám nhiều hơn gạo, thường dùng để chăn nuôi. Vào thời điểm sau vụ gặt hoặc lúc ruộng chưa cấy, tổ nuôi vịt vẫn lùa vịt ra đồng để cho chúng ăn lúa rơi lúa sót hoặc tôm cá cua ốc giữa ruộng hay các hói lạch. Khi cánh đồng đã cấy, vịt thả ra không được, tổ nuôi vịt mới dùng đến số lúa dự trữ trên. Trong khi hợp tác xã có tổ nuôi vịt thì nhiều cán bộ trong xã cũng có nuôi vịt riêng trong nhà. Cán bộ cũng có nhiều hạng, có hạng cứ thấy của công có thể lợi dụng được thì không kiềm chế nổi lòng tham. Mỗi khi cần một hai bơ lúa, năm bảy cái trứng, các cha cứ đến tổ nuôi vịt. “Lẻ tẻ vài ba chút kể làm gì!”. Những cán bộ đi công tác đêm cũng hay ghé qua tổ nuôi vịt. Không nhiều, nay một bữa cháo, mai một hai dĩa mồi lai rai vài ly cho ấm lòng thôi! Họ vẫn thường trấn an anh Nghiệp: “Khỏi lo! Vịt nó cũng có khi bị trúng gió, cũng có khi bị rắn cắn mèo vật chứ. Vài ba con nhằm nhò gì! Có gì chúng tôi làm chứng cho!”. Cái tính cả nể đã dần đưa anh Nghiệp vào thế kẹt.
Thậm chí có lần anh Nghiệp phải bấm bụng cho xuất kín cả trăm con vịt với sự tiếp tay của viên chủ nhiệm hợp tác xã Thiện Trường Phan Cẩn. Chính ông Cẩn hoặc ông Phước phó chủ nhiệm đã chứng nhận biên bản báo cáo số vịt trên bị chết do bệnh dịch. Giữ được biên bản chứng nhận của cấp trên, anh Nghiệp cũng vững bụng.
Nhưng dần dần sự thật cũng lộ ngoài. Trâu cột ghét trâu ăn, cán bộ cũng phe này cánh nọ, cứ chờ sơ hở của nhau để hạ uy tín nhau.
Thế rồi việc gì sẽ đến phải đến. Tổ heo bị tố cáo gian lận trong việc làm thịt heo bệnh. Nhiều viên chức của chính quyền xã bị liên hệ trong việc này. Ông Cẩn và ông Phước bị liên hệ tới việc ký xác nhận heo chết vì bệnh dịch. Ông Bản trưởng tổ heo thì khai chỉ làm thịt heo theo lệnh của cấp trên và mỗi lần như thế, ông chỉ được ông chủ nhiệm hợp tác xã cho một miếng thịt. Bây giờ thì cả ông Cẩn, ông Phước lẫn ông Bản đều mất chức và bị tịch biên tài sản để đền bù.
Nhân vụ này, chính quyền xã mở rộng việc điều tra sang tổ vịt. Việc theo dõi tiến hành kín đáo quá nên anh Nghiệp chẳng hay biết gì.
Khốn nỗi anh Nghiệp lại chẳng bao giờ hé môi với anh Sự về những khó khăn của mình. Khi anh Sự đổi qua tổ nuôi vịt thì tệ trạng ở tổ này đã lún khá sâu. Lúc ấy ban thanh tra của xã đang điều tra về những thất thoát, hao hụt tài vật, của cải trong tổ vịt. Anh Sự với lòng dạ ngay thẳng, với lòng tin tưởng người em mình, đã khảng khái bào chữa cho anh Nghiệp. Nhưng sự bào chữa của anh Sự đã gây nên tác dụng ngược. Đây là vấn đề trâu bò húc nhau nhưng anh Sự vô tình không biết. Anh Sự đã bị gán cho là thấy em mình ở tổ nuôi vịt làm ăn được nên bỏ tập đoàn sản xuất nông nghiệp để xin chuyển sang đó. Lúc này những biên bản báo cáo hàng trăm con vịt bị chết vì bệnh dịch do chủ nhiệm hay phó chủ nhiệm hợp tác xã chứng nhận đâu còn hiệu lực nữa! Cũng chẳng còn ai dám làm chứng cho chuyện vịt bị rắn cắn mèo vật hay trứng bị chuột tha! Anh Nghiệp bị đánh đập tả tơi một trận để rồi phải nhận tội lấy của công làm của tư, dùng của công để mua chuộc, hủ hóa cán bộ v.v… Đã đau xót cho em mình, lại quá uất ức khi bị vu oan anh xin qua tổ vịt chỉ vì gian ý, anh Sự bèn uống thuốc rầy tự tử. Anh được đưa đến bệnh viện nhưng không còn cứu kịp.
Chị Sự ghé miệng tận tai tôi nói nhỏ:
- Quyền thế mạnh vẫn hơn. Nghe chuyện này liên hệ tới cả ông bí thư Hồ Hoạch nên ông ta không nới tay trong việc rửa sạch vết dơ. Cũng vì thế nên thằng cha Cẩn bị trù dập xuống tận bùn đen. Đáng kiếp thằng nịnh, con rệp cuối cùng vẫn hoàn con rệp!
Cái tai họa của gia đình anh Sự làm tôi càng đau lòng và càng sợ hãi cái hợp tác xã Thiện Trường. Riêng về cơn ác mộng vừa rồi, tôi thấy nỗi lo sợ của tôi đã có phần dịu xuống. Có lẽ một phần do tôi tin vào cái thuyết đoán mộng “sanh dữ tử hiền”. Nay phần dữ của giấc mộng đã ứng, hi vọng nay mai tôi có thể sẽ có tin lành!
*
Một buổi chiều khác, khi đi buôn về tôi thấy thằng Tí con tôi đang gánh nước. Vừa thấy tôi, nó hớn hở nói:
- Ba về rồi mẹ ơi! Mà ba cụt cả hai chân!
Tôi hơi bàng hoàng giây lát. Tôi liên tưởng ngay tới câu “sanh dữ tử hiền” của những người đoán mộng. Phần thứ hai của giấc mộng đã ứng? Tôi mừng rỡ hấp tấp bước nhanh về nhà. Bé Hoa thấy tôi cũng chạy ra tận cửa ngõ nói lớn:
- Ba về rồi mẹ ơi!
Mấy đứa có nấu nướng gì cho ba ăn chưa?
Chưa, ba sai anh Tí thắp hương ở các bàn thờ để cúng lạy thôi!
Tôi mừng rỡ khôn tả, vừa bước vào nhà vừa kêu lớn:
- Anh Thành ơi! Em về đây này!
Nhưng tôi không nghe tiếng trả lời. Thằng Sửu cầm tay tôi chỉ vào bên trong:
- Ba đang ngồi trên bộ phản kìa!
Tôi để đồ đoàn xuống cho thằng Sửu cất rồi chạy lại chỗ Thành đang ngồi. Nhưng tôi chợt khựng lại. Thành vẫn ngồi lặng lẽ, chỉ ngước nhìn tôi, nét mặt không tỏ dấu hiệu gì mừng rỡ cả. Tôi nghĩ có lẽ anh đang mệt. Nhìn kỹ tôi thấy anh hơi đen và có vẻ mập hơn trước kia nhiều. Tôi ngồi xuống cạnh Thành, vuốt tóc anh, sờ vào hai đầu đôi chân cụt của anh rồi hỏi:
- Anh mệt lắm à?
Không phải! Tôi đang ngột vì mùi thuốc lá!
Tôi giật thót mình. Trước đây cả hai vợ chồng tôi đều không hút thuốc. Tôi bắt đầu hút từ những ngày cấy lúa ở những thửa ruộng sâu khi khí trời lạnh muốn đứt ruột ấy. Việc hút thuốc có tác dụng làm cho người thợ cấy giảm bớt phần nào sự tê lạnh. Làm việc với đám đông, khi mỏi lưng muốn nghỉ vài phút, tay vấn điếu thuốc rồi châm lửa vẫn thấy hợp lý dễ chịu hơn là nghỉ đứng không. Riết rồi thành quen. Khi làm việc một mình có điếu thuốc trên miệng cũng vui hơn. Giờ đây, ngày nào cũng phải hít thở cái mùi cá tanh nồng tôi lại càng cần đến điếu thuốc. Vì đã quen với mùi thuốc lá lâu ngày, tôi quên hẳn đó là thứ chồng tôi kiêng kị. Tôi nói giả lả:
- Em xin lỗi, vì em đang buôn xác cá, mùi xác cá nặng quá chịu không nổi nên em hút vài ba điếu để nó tiệp bớt mùi hôi. Anh thông cảm cho em.
Thành gằn giọng:
- Bây giờ tôi là thằng tàn phế bỏ đi rồi, cô muốn làm gì cô làm chứ tôi đâu dám làm gì mà thông cảm với không thông cảm!
Trời đất ơi, nếu em có lòng khinh bạc, phản bội anh xin trời đất trừng phạt!
Thành xua tay:
- Thôi, thôi, tôi biết hết cả rồi!
Tôi ứa nước mắt, kể lể:
- Anh không hề biết em đã mấy lần lặn lội tìm thăm anh, nào trại Bầu Lâm, nào bến xe Nha Trang… Em đã chịu bao khốn đốn, tủi nhục tột cùng cũng chỉ vì lo nuôi con và tìm cách để đi thăm anh…
Thôi, được rồi, bây giờ cô để cho tôi yên một lát.
Có chuyện gì anh cứ nói ra đi! Sao về với vợ con mà anh không một chút mừng rỡ lại hất hủi vợ con thế này?
Mấy năm nay tôi đã sống cô độc quen rồi.
Những câu đối đáp của Thành khiến tôi nghĩ chàng đã biết cái chuyện nhục nhã của tôi. Nhưng chuyện đó đâu phải chuyện do tôi cố tình gây nên? Đáng lẽ chàng phải thông cảm cho tôi mới đúng chứ! Phải chăng sự mất mát một phần thân thể đã gây ảnh hưởng đến tánh tình con người? Hay cuộc sống thiếu thốn, nhân phẩm bị chà đạp, tâm hồn bị cô đơn quá lâu ngày đã làm lòng chàng trở nên xơ cứng?
Bao nhiêu tháng đợi năm chờ giờ gặp nhau lại như thế này ư? Tôi cố ghìm lòng tự ái, cố ngăn nước mắt, gượng làm nhiều cử chỉ tỏ dấu thân ái với Thành nhưng anh vẫn lặng lẽ giữ thái độ thụ động. Tôi sờ vào chiếc lưng nhớp nháp mồ hôi của anh, đề nghị:
- Em đưa anh đi tắm nhé!
Việc này tôi tự lo được. Tôi đã nhờ thằng Tí gánh nước rồi! – Thành lắc đầu.
Thật chán ngán hết sức! Câu đầu tiên tôi muốn hỏi chàng là vụ gặp Kiều Duyên ở bến xe Nha Trang vẫn chưa hỏi được. Rõ ràng đầu óc chàng giữa lúc này đang căng quá. Muốn khơi sáng vấn đề không thể gấp gáp được. Tôi buồn bã rút lui:
- Vậy anh nghỉ một lát rồi đi tắm rửa. Em đi thay đồ rồi lo cơm nước.
Thằng Tí giúp chàng tắm rửa xong thì tôi cũng đã dọn cơm nước sẵn. Cả nhà quây quần quanh mâm cơm nhưng không mấy ai vui. Chàng chỉ hỏi mấy đứa nhỏ về bà nội trong những ngày cuối đời rồi chăm chú nghe chúng trả lời. Trí nhớ lũ nhỏ không đến nỗi tệ, chúng tường thuật khá chính xác về công việc trong những ngày đám tang bà nội. Nhưng khi nghe lũ con thuật lại sự cố gắng to lớn của tôi như thế mà chàng vẫn dửng dưng không một lời cảm thán làm tôi thấy đau lòng hết sức. Tôi chỉ tiếc một câu nói rất quan trọng của bà nội lúc sinh thời mà lũ trẻ lại quên mất: “Mẹ bây chỉ là con dâu của nội mà mẹ bây luôn lo cho nội hết mình, dẫu đến con ruột cũng không bằng! Nội rất vui mừng mình tốt phước mới có được một đứa con dâu như rứa. Một gia đình mà mẹ chồng con dâu ăn ở với nhau không hề có một sự xóc xáo không phải dễ có mô! Sau ni bây phải nói lại cho cha bây biết điều đó!”. Muốn nhắc khéo chúng, tôi xen vào:
- Bà nội hay dặn với tụi con câu gì nói lại cho ba nghe đi!
Chàng nói như tạt nước lạnh vào mặt tôi:
- Ừ, dạy chúng nói chuyện tốt đi!
Thế là tôi câm miệng. Một điều đáng buồn nữa là việc làm ăn của tôi chàng tuyệt nhiên không hỏi tới. Tôi nghĩ đầu óc chàng đang căng nên kiên nhẫn chờ đợi…
Đáng lẽ vợ chồng lâu ngày gặp lại nhau có thể bên nhau nói chuyện suốt đêm chưa thỏa, nhưng chúng tôi thì không. Vừa ăn xong, chàng bảo thằng Tí dọn chỗ cho chàng nghỉ. Tôi nghe chàng sai con bèn đi lấy mùng để treo. Chàng lại bảo chàng cần ngủ một mình. Tôi cũng chiều ý dọn riêng cho chàng một chỗ. Thấy cái ba lô hành trang của chàng treo bên vách, tôi định lấy mở xem thì chàng ngăn lại:
- Áo quần rách thôi có gì mà coi!
Mùng treo xong thì chàng lấy chiếc ba lô vào kê làm gối ngủ.
Một lát sau có mấy người hàng xóm đến thăm hỏi. Chàng vẫn nằm yên trong mùng. Tôi biết Thành còn thức nhưng không chịu dậy. Tôi phải nói đỡ với họ là chàng bị mệt, đã ngủ rồi. Kẻ ra người vào thăm viếng kể cũng đến mười mấy người nhưng không ai gặp được Thành. Khi khách ra về hết, nỗi bực bội trong tôi nổi lên. Bấy lâu nay tôi đã chịu bao nhiêu cay đắng, tủi nhục để sống, để lo hương khói cho tổ tiên chàng, để nuôi dưỡng mẹ chàng, để bảo vệ ngôi nhà hương hỏa cho giòng họ chàng, giờ này chàng đối xử với tôi như vậy làm sao tôi chịu nổi? Tôi đã nghiến răng để chịu nhục lần ấy cũng chỉ vì nghĩ đến sự sinh tồn của chàng, của lũ con chàng mà thôi! Sao chàng tàn nhẫn đến vậy? Tôi muốn gọi chàng dậy để nói một trận cho đã rồi giao nhà cửa, con cái lại cho chàng mà đi khuất mắt. Nhưng rồi tôi lại dằn lòng. Bây giờ chàng làm sao bảo bọc chúng được? Giao con cái cho chàng ư? Chàng lấy gì để nuôi chúng? Như thế chẳng khác gì đẩy chúng vào vòng khốn đốn? Buộc chúng đi làm nô lệ cho bọn người thiếu nhân tính! Chúng sẽ bị đày đọa cực khổ, có sống mà lớn lên được tương lai chúng cũng không ra gì. Không, tôi không thể phó mặc lũ con tôi vào tay người khác!
Sau một hồi suy nghĩ, tôi quyết phải làm lành với chàng bằng mọi giá. Tôi tắt đèn và len lén tới vén mùng chàng, chun vào. Chàng không phản ứng, lại nhếch sang một bên nhường chỗ cho tôi. Tôi mừng lắm, nghĩ chắc chàng đã có phần hồi tâm. Tôi dè dặt vuốt ve mơn trớn chàng một hồi. Ban đầu chàng chỉ giữ thái độ thụ động, nhưng rốt cục chúng tôi cũng đi đến chỗ ân ái nhau. Thật tình tôi cũng chỉ cố gắng để xóa đi cái mặc cảm nào đó của chàng chứ trong lòng tôi cũng chẳng còn chút hào hứng nào. Sau khi ân ái, tôi bắt đầu kể những chuyện gian truân của mình từ khi xa chàng. Chàng không phản ứng, không phụ họa, chỉ im lặng. Tôi cứ kể chuyện của mình, chẳng cần biết chàng còn thức hay đã ngủ. Cho tới khi nghe tiếng ngáy đều của chàng tôi mới chịu ngưng. Nghĩ rằng chuyện nhà đã có cơ yên ổn, lại mệt người sẵn, tôi làm một giấc tới sáng…
Khi tôi thức dậy lũ trẻ vẫn còn ngủ cả. Nhìn quanh chẳng thấy Thành đâu cả, tôi hơi ngạc nhiên. Tôi chạy ra vườn sau, tìm đến cầu tiêu cũng chẳng thấy chàng. Chẳng lẽ chàng sang nhà hàng xóm? Thấy chị Hiền sửa soạn đi làm tôi hỏi:
- Chị có thấy anh Thành tôi đâu không?
Đâu có thấy! Hồi hôm tôi sang thăm thì anh ấy đi ngủ rồi. Chị nói với anh tối này tôi sẽ sang thăm lại. Giờ tôi phải đi làm đã!
Anh ấy đi ngả nào nhỉ? Tôi trở lại giường ngủ mới hay cái ba lô hành trang của Thành cũng không còn. Tôi tìm kỹ trên gối anh thì thấy một mảnh giấy ghi mấy hàng chữ kèm mấy tờ giấy bạc để lại đó. Tôi giở ra đọc:
“Tôi nhận thấy nghệ thuật ái ân của Diệu Ngọc bây giờ đã đến mức thượng thặng rồi đấy. Nghề dạy nghề như vậy mà lại hay! Tôi thành thật cám ơn cô vì chút tình cố cựu cô đã ban cho tôi những giây phút thần tiên tuyệt diệu. Số tiền này coi như phần thưởng khách hàng tặng cô. Xin chào cô. Thành”.
Thế này thì quá lắm rồi! Anh ấy đã coi tôi như một con đĩ! Tôi bủn rủn cả chân tay. Trong phút chốc tôi ngồi rũ xuống nền nhà. Hình như trong một thời gian nào đó, sự xúc động nó dâng cao tột độ khiến nhiều cơ quan trong người tôi bị tê liệt. Nước mắt tôi không chảy được một giọt, miệng tôi không thốt được một lời. Ngay cả nỗi buồn cao ngất trong lòng cũng biến mất. Chung quanh tôi mọi vật đều thành trống không…
- Ba đâu rồi mẹ?
Ba đi đâu rồi mẹ?
Hai đứa con vừa thức dậy hỏi đồng loạt làm tôi chợt tỉnh người.
- Ba về thăm nhà xong ba đi chứ ba đâu có định ở đây làm gì!
Tôi cũng không hiểu sao lúc đó tôi lại trả lời một cách tự nhiên như thế.
- Sao mẹ không giữ ba lại?
Ba đi vậy rồi ai nuôi ba?
Lúc đó bé Hoa cũng vừa lồm cồm bò dậy, nó ré lên:
- Sao mẹ lại đuổi ba đi?
Những câu hỏi dồn dập của ba đứa trẻ đã kéo tôi trở lại con người bình thường, tôi nổi cáu hét lớn:
- Có im đi không? Tao sắp thành mụ điên bây giờ bây có biết không? Ông không thích ở nhà này thì ông đi chứ tao giữ ông làm sao được?
Thế rồi tôi ôm mặt khóc nức nở. Lũ trẻ ngơ ngác nhìn nhau một lát rồi tản đi lo việc vệ sinh cá nhân. Tôi vẫn tiếp tục ngồi khóc. Lát sau bé Hoa trở lại vịn vai tôi:
- Đừng khóc nữa mẹ ơi. Mai mốt con với mẹ đi tìm ba về nhé. Sáng nay mẹ ở nhà à? Mẹ vá lại mấy cái áo cho con nhé!
Nghe tiếng đứa con gái thỏ thẻ lòng tôi tự nhiên se thắt lại. Nó vừa sinh ra đã khổ rồi. Mới bốn năm tuổi đã nhiều lần bé Hoa phải thui thủi một mình trong nhà suốt ngày. Gởi nhà trẻ thì tốn kém, dắt nó theo thì bất tiện cho công việc, biết làm sao? Cũng may trời thương, không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra. Giờ đây tình trạng gia đình tôi lại đổ vỡ tan hoang thế này, không biết nó sẽ còn khổ tới mức nào nữa! Nhìn thấy gương mặt buồn chảy, tấm thân gầy như con chàng hiu của nó, nước mắt tôi càng ứa ra thêm. Tôi bồng nó đặt lên giường rồi nằm xuống bên cạnh, vỗ về:
- Sao con tôi khổ thế này? Mẹ thương con lắm, con biết không? Nhưng đời ác nghiệt với mẹ quá, không biết mẹ có sống nổi với con không đây!
Bé Hoa choàng tay qua thân tôi, rúc mặt vào ngực tôi. Một lát sau nó ngủ trở lại.
Thằng Tí thằng Sửu đã lục cơm nguội ăn và cắp sách đến trường rồi. Tuổi trẻ vô tư quá! Có thể vài hôm nữa chúng sẽ quên hẳn chuyện cha chúng đột ngột trở về rồi lại đột ngột ra đi! Đáng trách mà cũng đáng ganh tị? Nếu mình được như chúng sẽ đỡ khổ biết bao! Khổ quá, có thể chỉ lát nữa thôi sẽ có bao nhiêu người đến thăm! Tôi biết trả lời sao với họ đây? Rồi tối nay, rồi ngày mai, rồi nhiều ngày nữa, tôi sẽ khổ dài dài. Người ta sẽ hỏi móc méo, người ta sẽ nói hành nói tỏi, người ta sẽ phỏng đoán nọ kia. Mọi lẽ phải của tôi sẽ bị tước đoạt sạch! Hành động của chồng tôi đã chứng tỏ chuyện tôi bị lường gạt không còn che giấu ai được nữa! Ở địa phương này tôi có biết bao nhiêu kẻ hiềm thù, liệu tôi có chịu nổi với những miệng lằn lưỡi mối ấy không? Nhất định tôi phải ra đi! Trước kia vì sự ràng buộc bởi ngôi nhà hương hỏa của chồng, tôi vẫn có hi vọng một ngày nào đó sẽ đoàn tụ với chồng. Nhưng bây giờ thì hết cả rồi! Chính chồng tôi đã lạnh lùng từ bỏ căn nhà ấy, tôi còn bám víu nó làm gì? Tôi nhất định phải ra đi!