Suốt thời gian mới trở về làng, ngày nào cũng có một vài người hàng xóm đến thăm tôi. Khi nghe tôi nói phải bỏ ngang cái việc buôn bán đang phát đạt ở Đà Lạt ai cũng lắc đầu tiếc rẻ. Đặc biệt có bà Nhiêu hay đến chơi nhất. Gần như lần nào bà cũng đến nhằm vào khoảng bữa ăn. Cứ vào nhà là bà cười cười nói nói bước lại dòm tận nồi hoặc giở đồ đậy thức ăn ra xem. Lối kiểm soát vừa ấu trĩ vừa lố bịch đó làm tôi rất khó chịu! Lúc này tôi mới tin hẳn lời của bà nội và chị Hiền. Nhưng tôi vẫn giả vờ như chẳng hề biết đến hành vi có dụng ý của bà ta.
Những người khác, khi đến thăm đều khuyên tôi chuẩn bị tinh thần để nhập cuộc. Chỉ nghe nói sơ qua tình trạng làm ăn ở đây tôi đã phát sợ. Từ công việc, giờ giấc đến tiêu chuẩn được thụ hưởng, tôi có cảm tưởng như người ta nói để hù dọa mình. Thực tế có thể trái ngược với những lời tán dương sự làm ăn thịnh lợi qua đài phát thanh, qua báo chí và những cán bộ cách mạng nói đến thế sao? Một số người không hiểu hoàn cảnh đặc biệt của tôi trách tôi sao đã được đi xa còn trở về cho khổ? Tôi càng nghe lòng càng hoang mang. Xưa nay tôi có hề biết việc trồng trọt cày cấy bao giờ đâu! Trong tình trạng này liệu tôi có đủ sức để theo kịp mọi người, để nuôi đủ năm miệng ăn trong nhà không? Bà nội tuy được hưởng chế độ mua lúa điều hòa nhưng tiền đâu? Chính tôi vẫn phải chạy ra tiền bà nội mới mua được chứ đâu phải tiền ai cho?
Quả thật tôi sắp phải gánh một gánh nặng! Tôi rất hối hận đã bỏ mất cái việc buôn bán ở chợ Hòa Bình Đà Lạt. Dù sao việc buôn bán vẫn hợp với khả năng của tôi hơn việc đồng áng quá xa lạ này! Nhưng lỡ rồi, giờ đây tôi chỉ còn biết phó mặc cho con tạo đưa đẩy…
Trong khi chờ đợi tập đoàn gọi đi làm việc, tôi tất bật lo dọn dẹp, sắp xếp mọi thứ trong ngoài ở nhà. Trong nhà từ cái bàn thờ đến cái phản ngủ, giường ngủ, bàn ghế, chạn bếp… chỗ nào cũng bụi đọng với mạng nhện giăng đầy. Các góc nhà, dưới chân bàn thờ, dưới gầm giường… bất cứ chỗ nào cũng có rác. Chung quanh nhà thì rựa cùn, dao rỉ, cuốc mẻ rải rác mỗi nơi một cái. Ngoài vườn thì ngập lá khô lá mục, đó đây vài đống phân người mối đụn còn bốc mùi, lội quanh một lát thấy lợm cả chân. Bà nội đã già yếu, tai điếc mắt kém, đâu có thể trách gì bà được! Nhưng suy từ sự việc này tôi bỗng đau nhói trong lòng. Tôi làm sao khỏi lo sợ khi nghĩ đến ngày trở về của chồng tôi? Trước đây cả gia đình chúng tôi vẫn quen giải quyết vấn đề vệ sinh bằng cách ra “cồn mồ”. Bây giờ bà nội đã khá già, chồng tôi lại thành kẻ tàn phế, việc đó đâu còn đơn giản nữa? Phát xuất từ nỗi lo này, tôi đã bất chấp thể chất yếu đuối của mình, liều lĩnh thực hiện một cái cầu tiêu ngay trong vườn.
Số là xã Thiện Trường có một khu mồ mả khá lớn, ước chừng bảy tám mẫu tây, ba mặt đều giáp rẫy bái của dân làng, mặt bên ngoài giáp đường xe lửa Xuyên Việt. Dân địa phương vẫn quen gọi khu ấy là khu “quần mồ” hay “cồn mồ”.
Không biết bắt đầu từ thuở nào, có thể đã lâu lắm rồi, phần lớn dân hai thôn 2 và 3 vẫn quen thói giải quyết vấn đề vệ sinh hằng ngày ở khu vực đó. Hồi ấy ở vùng quê rất ít ai xây cầu tiêu trong nhà hoặc đào cầu tiêu trong vườn. Mỗi buổi sáng khi nhìn ra đường người ta sẽ thấy không biết bao nhiêu người, từ ông già bà lão đến các cô các cậu, đến cả lũ trẻ con, người nào cũng tay cầm một nắm lá chuối khô, một nắm giẻ rách hay một mảnh giấy báo, giấy học trò, lũ lượt kéo nhau ra khu cồn mồ. Những chỗ trống giữa đám mồ mả gần đường rày và gần mép hai con đường vào rẫy đều bị dân làng mặc nhiên coi như đất tự do phóng uế. Chịu trận đậm đà nhất là khu vực giáp đường rày. Những lăng mộ cao thấp cùng những lùm cây dại trong khu đã trở thành những tấm phên che chắn tự nhiên, dù chỉ tượng trưng. Chúng đã giúp người ta yên tâm, thoải mái “hành sự”. Việc ấy đã thành một sinh hoạt quen thuộc. Các bà các cô còn trẻ cũng không thoát ra ngoài lệ ấy. Chỉ có khác là họ thường rủ nhau đi từng tốp năm ba người để… canh chừng cho nhau. Cứ đến chỗ, thấy đâu vắng người là họ sà tới đấy. Khi đang ngồi, lỡ thấy có ai lò mò đến thì lên giọng “đằng hắng” làm hiệu để người ta tránh ra là xong.
Nhưng thỉnh thoảng vẫn có người gặp những pha khốn đốn tức cười! Đang lúc đau cấp thiết mà nhìn chỗ nào cũng có người phục kích, phải nghiến răng ôm bụng chạy quanh tìm bãi đáp, thử hỏi còn gì khổ hơn? Còn có cả những pha hai người khác phái trong lúc đau bụng quýnh quáng đến ngồi “xả xấu” bên nhau mà không hay, khi phát giác ra nhau đành chỉ biết cười trừ.
Quanh đấy có cả hàng chục con chó lúc nào hờm sẵn. Cứ thấy người dớm bước là chúng nhảy ra thu dọn chiến trường. Nhờ thế nên những vết tích dơ dáy vẫn ít tồn tại rõ rệt ngoại trừ mùi hôi và đồ lau chùi. Chó ở đây không phải chó hoang mà là những con chó có chủ đàng hoàng. Ban đêm chúng canh nhà cho chủ nhưng ban ngày lại quần tụ về đây. Chúng coi đây như vùng đất thiên nhiên ưu đãi, vừa có thể rong chơi đàn đúm vừa có thể cải thiện đời sống no đủ hơn.
Ngày nay, sau cuộc đổi đời, đa số dân làng phải thức dậy đi làm sớm nên cảnh sinh hoạt giải quyết vấn đề vệ sinh ở đây cũng bớt phần rộn ràng. Thế nhưng khu cồn mồ lại trở nên dơ dáy hơn trước rất nhiều. Đố ai biết vì sao không? Chính vì những con chó hay rong chơi “cải thiện” đời sống trước kia lúc này đã bị ăn thịt hết! Bây giờ bước vào đó muốn tìm một chỗ tương đối ít dơ cũng rất khó. Thế nhưng muốn giải quyết chuyện đó thì phải vào nơi đó chứ biết đi đâu? Tội nghiệp mấy đứa con tôi chỉ lội qua mấy lần mà đêm về đã kêu ngứa chân…
Vì thương bà nội già yếu, vì nghĩ đến ngày anh Thành trở về, tôi nhất quyết đào cho được một cái cầu tiêu trong vườn. Nhưng sức tôi không được dẻo dai, cứ đào một hồi là thấy nản. Đã nhiều lần tôi tưởng phải bỏ cuộc. Nản rồi lại gắng! Gắng rồi lại nản! Cuối cùng, hì hục mất gần ba ngày tôi cũng đào được một hầm cầu khá rộng và sâu.
Để bảo đảm an toàn cho bà nội và lũ nhỏ, tôi phải hi sinh luôn mấy tấm ván còn khá tốt để lót miệng cầu. Tôi che chắn chung quanh cầu bằng những lá chuối khô. Sự cố gắng của tôi đã không đến nỗi vô ích. Từ đó gia đình tôi không còn vất vả vì vấn đề vệ sinh nữa!
Vào một buổi chiều, lúc tôi đang lo cơm nước thì anh Sự cùng một người đàn ông lạ đến chơi. Anh Sự vốn là một hạ sĩ quan của chế độ cũ, cũng là bạn thuở nhỏ của chồng tôi. Vừa rồi tôi đã đến gặp anh để báo việc trở về làng làm ăn của mình, anh bảo tôi cứ về nhà đợi, tập đoàn sẽ sắp xếp sau. Người đàn ông cùng đi với anh Sự dáng tầm thước, có vẻ nhanh nhẹn, tuổi khoảng năm mươi. Anh Sự giới thiệu:
– Đây là anh Phước, tập đoàn trưởng tập đoàn 9 sản xuất tức tập đoàn của mình. Anh Phước cũng người làng mình, tập kết ra Bắc năm 1954 mới trở về.
Tôi chưa kịp chào ông Phước đã mau mắn nở một nụ cười thân thiện:
– Chào cô Ngọc, tôi nghe nói hoàn cảnh của cô cũng hơi khó khăn. Nhưng cô đừng lo, nhà nước xã hội chủ nghĩa lúc nào cũng lo cho dân như con đỏ. Cô cứ gắng lao động sản xuất thật tốt thì không ai bỏ rơi cô cả. Nếu chồng cô còn sống trước sau anh ấy cũng sẽ trở về với cô. Người ta đánh người chạy đi chứ không đánh người chạy lại bao giờ! Cô cứ vui vẻ tham gia làm việc với tập đoàn để nuôi con. Có chúng tôi bên cạnh, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ cô. Mấy cháu nay mai sẽ đến trường, sẽ được đào tạo để trở thành những công dân tốt của một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa độc lập phú cường.
Tôi hơi lấn cấn về cách xưng hô với ông ta. Có lẽ tôi kém ông ta đến hai mươi tuổi. Ngẫm nghĩ một lát tôi nói đại:
– Thưa ông tập đoàn trưởng, tất nhiên tôi sẽ cố gắng làm việc để nuôi con. Tuy thế, trước đây tôi chỉ biết dạy học, chưa biết gì về việc đồng áng. Trong bước đầu chưa quen công việc, xin tập đoàn châm chước chỉ vẽ thì may cho tôi lắm.
Ông Phước tỏ vẻ sốt sắng:
– Cô Ngọc cứ gọi tôi là anh Phước cho tiện. Từ nay chúng ta thành người nhà cả, xưng hô tập đoàn trưởng tập đoàn phó làm gì cho phiền! Chúng tôi có nhiệm vụ giúp cô ổn định cuộc sống. Khi có việc gì cần cô Ngọc cứ tự nhiên cho tôi biết nhé!
Vừa nói ông Phước vừa bước ra phía sau vườn nhìn ngắm quanh quất. Anh Sự và tôi cũng bước theo ông ta. Một lát ông Phước nói:
– Chà, cô Ngọc mới về mấy ngày mà dọn dẹp trong nhà ngoài vườn sạch sẽ thế này là giỏi lắm đấy! Thế khi nào cô Ngọc bắt đầu đi làm việc với tập đoàn được?
– Dạ, thưa tập đoàn trưởng… à, thưa anh Phước gọi tôi lúc nào cũng được!
– Vậy cô cứ nghỉ thêm một hai ngày nữa để thu xếp những việc còn lại trong nhà. Ngày kia bắt đầu được chưa?
– Dạ được, nhưng tôi muốn đi làm chung toán với chị Lâm chị Hiền để các chị ấy bày vẽ công việc dần dần cho tôi được không?
Anh Sự cười nói:
– Ừ, làm chung với tụi tôi chứ với ai nữa! Cái gì cũng đầu khó sau dễ, chị đừng lo quá mà ốm người! À, mà thế này nữa, bây giờ tập đoàn đang gặt lúa địa phương, chị phải sắm một cái vằng như người ta mới được!
Chưa biết cái vằng ra sao, tôi hỏi lại:
– Vằng có phải là cái liềm đó không?
– Không phải, vằng khác liềm khác chứ!
– Thế sao trước đây tôi thấy một số người đi gặt họ lại cầm liềm?
Ông Phước giải thích:
– Cô Ngọc chưa từng làm ruộng nên chưa hiểu là phải. Vằng hay liềm đều là dụng cụ gặt lúa cả nhưng mỗi thứ dùng để gặt một loại lúa chứ không phải dùng lẫn lộn được đâu! Các giống lúa địa phương thân cao nhánh lớn phải dùng vằng vì dùng liềm gặt rất bất tiện. Ngược lại, các giống lúa thần nông cây nhỏ thấp lại chỉ dùng liềm chứ dùng vằng kềnh càng cũng bất tiện. Thế trước đây bác trai cũng làm ruộng trong nhà không còn cái vằng nào à?
Bà nội đang ở dưới bếp lên tiếng:
– À, nhà mình còn có hai cái vằng đây, con vô lấy ra mấy chú coi thử còn dùng được không để dùng khỏi sắm!
Tôi vội đi vào bếp. Bà nội chỉ cho tôi hai cái vật treo sát phên vách chái.
– Coi chừng đứt tay! – bà nội nói.
Thì ra lâu nay nó vẫn nằm đấy mà tôi không để ý. Cả hai cái đều bị mồ hóng bao phủ lâu ngày nên trông đen điu bẩn thỉu lắm. Tôi lấy cả hai cái đem ra.
Ông Phước tiếp lời:
– Cô đem rửa sạch đi! Cẩn thận, trông vậy chứ nó sắc lắm!
Tôi đi rửa rồi đem trở lại. Ông Phước cầm một cái vằng chỉ cho tôi xem từng phần và giải thích:
– Cô thấy đây, thân vằng làm bằng gỗ nhẹ hay bằng tre cũng được. Người ta thường lựa nó từ những nhánh cây tự nhiên, đầu này là cán để cầm, còn đầu này có cái cù ngoéo này để móc gom thân lúa lại từng nắm. Phía đối nghịch với cái cù ngoéo được gắn một lưỡi thép có khía răng cưa, thường rất bén để cắt lúa. Nhưng cái vằng này cùn quá rồi, không thể dùng được nữa. May ra còn dùng được cái cán.
Thế rồi ông cầm cái thứ hai lên xem:
– Cái vằng này còn tốt lắm, cô dùng được đấy! Nhân tiện đây để tôi chỉ sơ cho cô cách dùng vằng luôn!
Sau khi chỉ cho tôi cách sử dụng vằng, ông Phước nói tiếp:
– Cô Ngọc phải nhớ là vằng chỉ dùng khi gặt lúa dài ngày. Khi gặt lúa thần nông cô phải dùng liềm mới được!
Tôi định hỏi cho biết khi nào sẽ gặt giống lúa nào thì anh Sự đã hiểu ý nói:
– Có thể bây giờ chị Ngọc chưa phân biệt nổi hai loại lúa đó khác nhau ra sao. Lần lần sẽ quen thôi. Mình không biết cứ hỏi người chung quanh. Người ta làm sao mình làm vậy là chắc ăn nhất. Thường thường lúa dài ngày vẫn phải cấy trước lúa ngắn ngày đến cả tháng nhưng rồi cũng gặt một lượt cả…
Bà nội nói theo:
– Tôi là con nhà mần ruộng cả đời mà tới chừ cũng không phân biệt được loại lúa mô nữa huống chi hắn. Ngọc ơi, mình không biết thì người ta mần chi mình mần nấy cũng xong!
Thế rồi bà nội lại hỏi một cách ngớ ngẩn:
– Tại răng người ta lại dùng nhiều loại lúa mần chi cho phiền rứa hè?
Ông Phước cười:
– Dạ, lúa thần nông ngắn ngày đã đỡ mất công chăm sóc, lại cấy được dày gốc hơn nên cho năng suất cao. Bây giờ nhà nước đang có khuynh hướng chuyển sang cấy lúa ngắn ngày cả đấy. Nhưng hiện tại nhà nước chưa kế hoạch hóa toàn bộ số ruộng sâu được. Cây mạ giống thần nông thấp cấy ruộng sâu có thể bị chết vì úng ngập, phải tạm thời duy trì các giống lúa địa phương. Nhưng có thể sang năm toàn cánh đồng Thiện Trường sẽ chỉ cấy toàn giống thần nông.
Trước khi ra về ông Phước lại nói:
– Luôn tiện tối mai có cuộc họp “mạn đàm đắc cử” toàn thôn tại nhà ông Sơn, cô Ngọc tuy mới về chưa có tên trong danh sách cử tri nhưng cũng nên đến dự cho nó quen với không khí sinh hoạt chính trị ở đây. Cô gắng hăng hái sinh hoạt chính trị chừng nào chồng cô sẽ được nhờ chừng nấy. Tám giờ tối, đừng quên nghe!
Không có lý do để từ chối, tôi đáp:
– Dạ, tối mai tôi sẽ đi họp!
Khi ông Phước và anh Sự đã ra về, bà nội nói:
– Tối mai con đi họp hả? Phải đó, nhà mình hai người cũng nên đi họp một người. Vài bữa mẹ cũng đi bầu cử. Không đi người ta nghĩ mình chống đối, có thể ảnh hưởng đến thằng Thành con ạ!
*
Hôm sau tôi đến nhà ông Sơn đúng giờ như đã hẹn. Thật tình tôi còn bỡ ngỡ với không khí họp hành này lắm. Nhất là khi nghe một vài người nói về chuyện bầu cử tôi càng thấy mình mù tịt. Tôi đâm ra lo ngại, đang định kiếm một chỗ nào khuất khuất để ngồi thì ông Phước gọi:
– Này cô Ngọc, cô mới về nhiều người chưa biết, hãy ngồi phía trước để chốc nữa tôi giới thiệu với mọi người mới được.
Tôi bất đắc dĩ phải bước ra ngồi hàng thứ hai. Trước khi phiên họp mở màn, ông Phước giới thiệu tôi một cách ngắn gọn với những người của tập đoàn 9. Tôi nghe nhiều tiếng thì thầm nhưng không hiểu họ thương ghét mình ra sao.
Cuộc họp bắt đầu. Ông thôn trưởng Lê Hành giới thiệu ông Đặng Văn Chấn, trưởng tổ đảng thôn 3 là người sẽ chủ tọa cuộc họp “mạn đàm đắc cử”. Ông Chấn lúc ấy đã ngồi sẵn ở ghế chủ tọa đứng dậy gật nhẹ đầu chào mọi người. Trong khi đó bên dưới có những lời rầm rì:
– Anh hùng Trường Sơn đó!
– Người hùng bách chiến bách thắng đấy!
Những lời rầm rì đó đã khiến tôi nẩy sinh lòng kính nể người cán bộ này. Ông Chấn khoảng ngoài năm mươi, vẻ mặt nghiêm nghị, nói giọng Nghệ Tĩnh. Ông cho biết đây là một cuộc bầu cử bổ túc một số viên chức cấp cao. Ông giải thích về mức quan trọng của việc sử dụng lá phiếu. Ông cũng trực tiếp giới thiệu sơ về những người đáng được chọn bầu.
Từ khi nghe ông Phước bảo đi dự cuộc họp “mạn đàm đắc cử”, tôi vẫn chưa hiểu ý nghĩa chính thức của nhóm chữ này. Phân biệt ra từng cặp từ như mạn đàm là gì, đắc cử là gì dĩ nhiên tôi hiểu, nhưng bốn từ ấy đi chung tôi thật tình chưa rõ. Mãi tới khi ông Chấn nói chuyện tôi mới vỡ lẽ. Hóa ra “mạn đàm đắc cử” là hướng dẫn cử tri nên bầu cho ứng cử viên nào, nên loại bỏ ứng cử viên nào. Nói là mạn đàm, tức là có sự trao đổi ý kiến một cách nhỏ nhẹ, thân mật, nhưng thật tình ở đây chẳng có sự trao đổi nào cả mà chỉ có lãnh đạo (tổ đảng) chỉ thị cho cử tri “phải” bầu ai.
Trong dịp “mạn đàm đắc cử” này đã xảy ra một việc mà suốt đời tôi không quên được. Theo chương trình, ông thôn trưởng phải lần lượt đọc lý lịch các ứng cử viên cho cử tri nghe trước khi thảo luận. Khi đọc lý lịch một ứng cử viên hiện đang tại chức ở hàng ủy viên cấp tỉnh, đến đoạn trình độ học vấn, ông Hành vừa đọc tiếng “lớp ba” thì nhiều người không hẹn cùng phá lên cười. Có lẽ người ta cười vì quá ngạc nhiên khi thấy một vị lãnh đạo cao cấp lại chỉ có trình độ học vấn lớp ba! Ông Chấn nghe cười đâm ra mất cả bình tĩnh, quên cả việc mình đang “mạn đàm”. Ông ta nhìn thẳng vào mặt tôi nạt lớn:
– Đồ dân vô ý thức, cười cái gì? Đã mấy chục năm qua rồi chứ mới mẻ gì nữa? Hồi ấy trình độ lớp ba nhưng bây giờ là trình độ đại học! Cô nghĩ cô học cao hả? Học cao để làm tay sai cho đế quốc thì chỉ hại nước hại dân chứ được việc gì?
Oan ơi là oan! Thật tình tôi có cười đâu? Mà giả như tôi có cười đi nữa tại sao ông ta chỉ mắng một mình tôi trong khi tiếng cười vang rân cả phòng? Không ngờ ông ấy lại hồ đồ đến thế! Tôi cố ngăn nước mắt, cắn răng mà chịu. Thế nhưng nỗi uất giận đã làm đầu óc tôi rối tung, chẳng còn nghe ngóng gì được. Tôi chỉ còn biết nôn nóng ngồi chờ cuộc họp chấm dứt!
Khi ông Chấn ra về rồi, ông Phước liền đến gặp tôi và nói:
– Ông ấy hơi nóng nảy một chút, nhưng cô đừng để tâm làm gì! Thấy có vẻ sấm sét vậy chứ thật tình ông ấy vô tư lắm!
– Nhưng tôi nào có cười mà chịu cho cam!
– Thôi cứ coi như gặp rủi ro đi!
Suốt cuộc họp ấy tôi chẳng thâu nhận được gì ngoài câu chuyện kể trên!
Khi ra về được một đoạn, chị Lâm cười nói đùa:
– Không ngờ cô Ngọc mới đi họp lần đầu đã gặp sao quả tạ chiếu! Nhưng đó cũng là điều đáng mừng cho bọn tôi. Bây giờ tôi mới biết trình độ học vấn của con người cũng sẽ tự nhiên cao dần theo tuổi đời! Như vậy một thời gian sau nữa tôi cũng sẽ có trình độ học vấn đại học như ai!
Chị Hiền lại phụ họa:
– Như vậy mới đúng trường đời cũng là một trường đại học chứ!
Thấy mấy bà nói tiếu lâm sâu sắc, tôi cũng nguôi ngoai được phần nào nỗi bực tức:
– May chưa có thẻ cử tri chứ bây giờ bắt tôi đi bầu cử tôi cũng chẳng biết bầu ai?
Chị Lâm cười khảy:
– Họp hành cho rộn đám vậy chứ vị nào chức nấy người ta định sẵn cả rồi, mình bầu hay không cũng thế thôi! Cô Ngọc không nghe ông trưởng tổ đảng nói dự kiến ông này làm bí thư tỉnh ủy, ông kia làm ủy viên tài chánh, ông nọ làm ủy viên thường vụ… đó sao?
– Nhưng đến phòng phiếu mình cũng phải biết biết một tí chứ chẳng lẽ ngơ ngơ ngáo ngáo coi sao được?
– Cô khỏi lo điều đó. Biết bao nhiêu dân trí thức đến phòng phiếu cũng nhờ mấy người giữ thùng phiếu bầu giùm có ai nói gì đâu?
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
– Thật không đó chị Lâm?
Chị Lâm chưa kịp trả lời chị Hiền đã đáp thay:
– Thật đó chị Ngọc ơi! Ở đây việc bầu cử dễ dãi lắm! Mình muốn nhờ ai bầu thế cũng được! Cứ đưa thẻ cử tri và thẻ chứng minh nhân dân cho người ta là xong! Một nhà có bốn năm cử tri chỉ cần một người đi bầu cũng đủ! Ai trúng ai trật đâu ăn nhập gì tới mình! Mình chỉ cần cái thẻ cử tri được đóng cái dấu “đã bầu cử” để đi đâu khỏi bị ai làm khó làm dễ là tốt rồi.
– Nếu quả vậy cũng tốt!
Khi tôi về tới nhà, bà nội hỏi:
– Con đi họp thấy răng? Người ta bảo bầu cho ai?
Thật tình tôi nào nhớ được gì đâu? Tôi đánh trống lảng:
– Thế trước đây mẹ đã đi bầu lần nào chưa?
– Đi rồi chứ không đi mô được?
– Mẹ tự tay bỏ lá phiếu vào thùng phiếu à?
– Mẹ biết chi mà bỏ! Cứ nhờ mấy người giữ thùng phiếu bỏ giùm thôi! Người ta ai cũng mần rứa cả chứ mô phải một mình mình!
Tôi cười thầm: Ít ra mình cũng có được cái quyền tự do nhờ người khác bầu cử thế!
Đọc tiếp Chương 8