Cuối đời Minh, Lý Tự Thành nổi lên làm phản chống lại Minh triều. Lợi dụng cơ hội này, Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn nhà Thanh (Mãn Châu) liền phò vua Thuận Trị đưa quân vượt biên giới đánh vào Trung Quốc. Nhưng quân Thanh đã bị tướng Minh là Ngô Tam Quế chận đứng ở Sơn Hải Quan. Trong khi đó, Lý Tự Thành đã tiến về vây Yên kinh, vua Minh chống không nổi phải tự tử. Lý Tự Thành bèn xưng đế và đối quốc hiệu là Đại Thuận.
Tự Thành chiếm được ngôi vua rồi, đắc chí cướp luôn người thiếp của Ngô Tam Quế là Trần Viên Viên làm Ngô Tam Quế vô cùng tức giận. Tự Thành thấy vậy lại giết luôn cả người cha của Tam Quế. Để trả thù, Tam Quế bèn mở cửa ải cho quân Thanh tiến vào Trung Quốc đồng thời giúp quân Thanh đánh Lý Tự Thành. Tự Thành thua chạy, quân Thanh thừa thắng chiếm trọn Trung Quốc. Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn thấy người Thanh quá ít, muốn cai trị Trung Quốc phải dùng nhiều quan lại bản xứ nên cho dán những thông cáo chiêu dụ người Trung Quốc ra giúp tân triều khắp Yên kinh.
Đọc xong những yết thị chiêu hàng đó, vị cựu đại thần Minh triều Tôn Chi Hải đã có một quyết định hết sức quan trọng. Ông lập tức cho người đi mời hai vị đồng liêu Phùng Thuyên, Phan Chuẩn đến nhà mình uống trà nhân tiện cùng nhau bàn chước tiến thoái.
Sau vài lời thăm hỏi chúc tụng nhau, Tôn Chi Hải trịnh trọng nói:
- Tôi mời nhị vị đại nhân đến đây chỉ có mục đích muốn chúng ta cùng bàn luận để quyết định cho tương lai chính chúng ta. Giờ đây khí số nhà Minh đã hết, mình có thủ tiết cũng chẳng ích lợi gì, vả lại, nhà Thanh tuy là ngoại tộc, nhưng họ đang thời thịnh, quyết chống lại họ chỉ rước lấy thiệt thân. Xin nhị vị nhân huynh cho biết chúng ta nên ứng xử như thế nào cho hợp lẽ?
Phùng Thuyên hớn hở góp lời:
- Tôi thấy nhận xét của Tôn huynh quả thật sáng suốt. Khí thế người ta đang lên mình khó làm gì nổi! Tôi chỉ sợ người Thanh không chịu dùng mình mà thôi. Trong trường hợp đó ta đành rút lui trong câm lặng để đợi thời. Biết đâu có người hùng nào khôi phục lại đất Hán ta lại nhảy ra. Làm chính trị cũng như con bạc, cứ ăn có theo người đang đỏ vẫn chắc ăn hơn mà lại khỏi chịu trách nhiệm gì hết. Nhưng bây giờ người Thanh đã không bắt tội mà lại còn dùng mình nữa sao ta không nắm lấy cơ hội chứ? Theo thiển ý của tôi, ngày mai chúng ta nên ra mắt Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn kẻo nếu chậm trễ lại có kẻ khác tranh đầu hàng trước, có thể mình sẽ mất ưu thế trọng dụng. Ý nhị vị nhân huynh thế nào?
Phan Chuẩn chậm rãi cất giọng:
- Thưa quí nhân huynh, người Thanh sở dĩ chiêu hàng và hứa trọng dụng chúng ta chẳng qua là muốn chóng thu phục được lòng dân. Họ biết rằng tầng lớp trí thức có ảnh hưởng rất lớn trong quần chúng. Dân tộc nào cũng coi lớp trí thức là trí tuệ của quần chúng. Hễ lớp trí thức hướng về đâu là quần chúng cũng hướng về đó. Chúng ta dù sao cũng là hạng khoa bảng cả, vậy chúng ta phải thận trọng mới được. Chính mỗi chúng ta cũng còn có cái nhân cách riêng nữa. Từ nhà vua cho tới tên dân cùng có ai không mong muốn con cháu mình làm người trung quân ái quốc? Có ai không hỗ thẹn khi con cháu mình làm kẻ vong ơn bội nghĩa? Sách thánh hiền dạy ta những gì còn văng vẳng bên tai. Nếu như không chịu hợp tác với người Thanh, họ sẽ giết mình thì còn có chút lý do để bào chữa cho thái độ xu thời phụ thế của mình. Đằng này không hợp tác thì còn về cày ruộng được, tôi sợ quyết định của Phùng huynh là vội vã quá đi chăng?
Tôn Chi Hải cười:
- Tôi không đồng ý với Phan huynh, công lao sách đèn bao nhiêu năm bây giờ bỏ đi cày ruộng thì đáng tiếc lắm. Bản thân đã khổ mà gia đình họ hàng cũng chẳng lợi ích chi. Cứ như lời Phùng huynh nói, làm chính trị như chơi trong canh bạc, cứ ké với nguời đang đỏ vẫn chắc ăn hơn hết. Tôi cũng có nỗi lo như Phùng huynh, nếu mình quyết định muộn có kẻ sẽ tranh cảm tình với chân chúa trước ta. Tôn Chí Hải này đâu có dại gì! Tôi đã cho gọi sẵn mấy người thợ may và thợ hớt tóc khéo. Nếu quí huynh đồng ý, có thợ sẵn đó, khiến họ đo may áo tay hẹp, cạo đầu phần trước, phần sau thắt bím giống người Mãn thì sáng mai không có tên người Hán nào tranh ưu tiên được với chúng ta hết!
Phùng Thuyên cười hớn hở:
- Quả thật Tôn huynh mưu tính không thua gì Gia Cát Lượng, Trương Lương. Xin cho thợ ra ngay để lo việc cho sớm. Anh hùng gặp hội phong vân mà!
Phan Chuẩn lắc đầu ngao ngán:
- Quí huynh tính sao tùy ý. Tuy nhiên, vì tình đồng liêu cũ, tôi xin góp ít lời. Mình vốn là đại thần của một nước lớn, đáng lẽ mình có chút khí tiết để dân bắt chước. Bất đắc dĩ phải đầu hàng cường địch đã quá lắm rồi. Có ai buộc mình phải cạo đầu kết tóc bím hay mặc áo tay hẹp như người Mãn đâu? Tổ tiên ta thường nói thân thể da tóc nhận từ cha mẹ, không thể hủy họai và làm tổn thương. Quí huynh nỡ nào lại cạo đầu trước để làm gương? Người Thanh sẽ khinh mình mà dân mình cũng coi thường mình nữa. Làm như thế đã nặng tội với tổ tiên mà tiếng xấu ngàn đời cũng khó tẩy rửa.
Phùng Thuyên cãi lại:
- Người phi thường làm những việc phi thường, Hạng tiểu nhân làm sao hiểu được? Phan huynh nên nghe câu chuyện này: Tào Tháo trong một cuộc hành quân lớn qua một cánh đồng lúa đang chín. Để lấy lòng dân, Tào Tháo ra lệnh cho tất cả toàn quân, bất cứ giới chức nào, hễ dẫm hư một bụi lúa của dân thì phải thường lại bằng chính mạng mình. Không may chính Tháo trên đường đi, gặp một con chim lớn ẩn trong đám lúa hoảng hốt bay ra thình lình, làm con ngựa Tháo cỡi cũng hoảng hốt nhảy chồm lên dẫm hư cả một khoảnh lúa. Tháo vừa nhìn đám thuộc hạ thân tín, vừa chậm rãi tuyên bố: “Đã ra hiệu lệnh thì phải thi hành! Vậy ba quân hãy lấy việc này làm gương!”. Rồi Tháo từ từ đưa mũi gươm lên cổ. Bình thường, Tháo vốn rất cẩn thận trong việc chọn lựa vệ sĩ. Lúc bấy giờ Tháo đang dùng hai tên Lý Nghĩa, Lý Tín là những tay võ nghệ rất cao cường. Cả Nghĩa lẫn Tín đều rất thật thà, trung hậu, tuyệt đối không bao giờ dám trái lệnh Tháo. Khi Tháo toan tự xử, chỉ có Nghĩa và Tín đứng gần Tháo. Cả hai hoảng sợ trố mắt nhìn mà không dám can thiệp. Tháo nhìn hai gã vệ sĩ quá thật thà của mình mà đâm ra lúng túng. Nhưng rồi mắt Tháo sáng lên, Tháo dừng tay vẫy tay gọi Tào Hồng, em họ Tháo, đang từ xa phóng ngựa lại mà nói với Hồng: “Sau khi ta chết, ngươi phải trọng dụng hai tráng sĩ này nhé!”. Rồi Tháo lại đưa mũi gươm lên cổ. Tào Hồng bấy giờ đã xuống ngựa, liền dằn gươm của Tháo lại và can: “Nếu Thừa Tướng chết thì ba quân trông cậy vào đâu?”. Tháo nói: “Được rồi, ta vì đang mang trọng trách lớn của nhà nước, lại nể tình các ngươi, thôi, cũng tạm chừa cái mạng già này lại. Người xưa cho rằng tóc da là của cha mẹ, nay ta tạm lấy búi tóc này thế mạng vậy!”. Nói xong, Tháo lẹ làng cắt búi tóc mình ném đi… Sau này, cháu của Tháo là Tào Hưu, cũng gặp lại một vụ cắt tóc nữa. Lúc bấy giờ Hưu đang có nhiệm vụ trấn giữ mặt biên giới Đông Ngô. Một hôm, có tướng Đông Ngô là Chu Phường tới trình bày việc mình bị chúa Đông Ngô bạc đãi và xin hàng. Hưu vạch ra mấy điểm khả nghi mà không nhận. Chu Phường cũng nhân danh tóc là do thân thể cha mẹ mà có, ông ta cắt búi tóc đi mà thề. Bấy giờ Tào Hưu mới tin, liền theo lời xúi giục của Phường, đưa quân vào trọng địa của Đông Ngô. Kết quả, quân Hưu bị phục kích một trận tả tơi mười phần chết hết chín. Chu Phường thì được vua Đông Ngô phong hầu. Đấy, người anh hùng biết dùng cái búi tóc như vậy, tại sao ta không chịu dùng cái búi tóc mà tạo công danh? Vua Thanh chiếm Trung Quốc, ta chưa góp được chút công trạng nào, dịp này tại sao không tự mình đổi y phục, cạo đầu kết bím cho giống người Mãn làm gương cho dân, đó cũng là cách góp công lớn mà ít tốn sức nhất vậy!
Phan Chuẩn thấy những sự suy nghĩ tính toán của các cựu đồng liêu thật khó đường cứu vãn. Cái thói a dua theo thời để giữ cái sống, vì miếng cơm manh áo của đám dân cùng thì còn dễ thông cảm. Nhưng đây là những người mang danh kẻ sĩ, từng chịu ơn dày của tổ quốc, chỉ vì chút danh lợi đành cúi đầu làm tay sai cho kẻ thù của dân tộc, lại còn sốt sắng giúp kẻ thù hủy hoại những tập quán, phong tục của dân tộc mình, Phan Chuẩn thấy đau lòng lắm. Ông thấy không cần nhân nhượng nể nang gì họ nữa, bèn nói:
- Quí huynh đã cho nghe chuyện Tào Tháo, Chu Phường, giờ đệ cũng xin kể hầu quí huynh câu chuyện về giống dơi. Ngày xưa, có một cuộc chiến tranh dai dẵng giữa hai loài, loài chim và loài thú. Khi loài thú thắng thì giống dơi cũng coi như đó là chiến thắng của mình. Dơi chúa tuyên bố: “Sức mạnh của loài bốn chân ta là sức mạnh vô địch, tình đoàn kết các giống cọp, voi, dơi, chuột đời đời bất diệt!”. Nhưng sau đó loài chim lại phản công và thắng lợi lớn. Giống dơi lúc ấy cũng không ngượng ngùng bay theo loài chim. Dơi chúa tuyên bố: “Sức mạnh của loài hai cánh là sức mạnh vá trời, vũ trụ này không gì có thể cản nổi bước tiến của ta! Tình hữu nghị các giống phượng hoàng, quạ, dơi đời đời bền vững!”. Nhưng chuyện chưa hết, loài thú lại vùng lên. Cuối cùng cả hai bên đều kiệt quệ và phải thương thảo để sống hòa bình với nhau. Lúc bấy giờ cả hai loài chim cũng như thú mới nhận ra được cái dã tâm của giống dơi và đều tẩy chay chúng. Kết quả là giống dơi ban ngày phải trốn trong hang hốc, về đêm mới dám thui thủi ló mặt đi kiếm ăn. Câu chuyện giống dơi đệ kể coi như chấm dứt. Bây giờ thì đệ xin cáo từ để quí huynh tính toan công việc.
Nói xong, Phan Chuẩn ra về không thèm để ý đến thái độ, nét mặt của người nghe.
*
Những người thợ khéo đã cố gắng làm việc cho đến gần nửa đêm để hoàn toàn biến cải bề ngoài con nguời của hai vị cựu thần nhà Minh thành hai viên quan người Mãn. Tôn Chi Hải và Phùng Thuyên vô cùng mừng rỡ, xúc động nhìn nhau. Họ lại bày tiệc và cố luyện đi luyện lại những kiểu cách sinh hoạt tiệc tùng của người Mãn. Hai ngài cứ khen nhau, tự đắc về sự khôn lanh độc đáo của mình.
Hôm sau là ngày vua Thanh lâm triều. Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn cho chia các đại thần người Mãn với các đại thần người Hán đứng hai dãy riêng biệt. Những viên quan người Hán ngạc nhiên trố mắt nhìn sự biến đổi đột ngột của hai cựu đồng liêu. Tôn Chi Hải và Phùng Thuyên thì hãnh diện cười hớn hở quay nhìn những người bạn cũ với ánh mắt thương hại. Hai ông vênh váo bước lại đứng chung với đám đại thần người Mãn. Những viên quan người Mãn cũng ngạc nhiên trố mắt nhìn hai ông. Hai ông đang cười hề hề thân thiện với những người trong hàng ngũ mới bỗng nghe tiếng thét to:
- Cút về hàng kia!
Tôn Chi Hải bị đám người Mãn đẩy ra khỏi hàng cùng với nhiều tiếng thét khác:
- Cút về hàng kia!
Tiếp đó, Phùng Thuyên cũng bị đẩy ra khỏi hàng.
Hai vị Tiến sĩ cựu thần nhà Minh sững sờ chốc lát rồi lủi thủi bước về hàng những viên quan người Hán. Một điều ngoạn mục bất ngờ nữa lại xảy ra: Đám quan người Hán cũng nhao nhao lên:
- Cút về hàng kia ngay!
Đám người Hán lại càng xô đẩy hai vi Tiến sĩ phản bội mạnh tay không thương tiếc hơn nữa khiến hai ông ngã chúi nhủi xuống sân triều. Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn thấy vậy phải ra tay dàn xếp việc mới ổn. Phùng Thuyên tức giận nói với Tôn Chi Hải:
- Mồm mép lão già Phan Chuẩn độc địa thật! Bây giờ chúng ta có khác gì giống dơi mà lão ta nói đâu? Huynh có kế gì giải tỏa được tình trạng này chăng?
-
Huynh cứ yên chí, đệ không bằng được Khổng Minh thì cũng phải bằng Bàng Thống, Chu Du chứ!
*
Trận đòn tinh thần trong buổi triều kiến vua Thanh lần đầu vẫn không làm Tôn Chi Hải với Phùng Thuyên nản lòng. Hai vị vẫn cố tìm cách xin yết kiến riêng vua Thanh để dâng kế sách cai trị. Khi được bái kiến, hai vị cùng hô lớn:
- Hoàng đế vạn tuế, vạn vạn tuế!
Vị vua nhà Thanh còn quá nhỏ chỉ biết thích thú nhìn hai viên quan đang cúí đầu sát đất. Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn tỏ vẻ rất hài lòng:
- Hoàng thượng cho các khanh bình thân!
Rồi Nhiếp chính vương nói tiếp:
- Thừa lệnh Thánh hoàng, ta thành thật khen ngợi việc bỏ chỗ tối tìm chỗ sáng của các khanh. Ta sẽ xét để ban chức tước cho xứng đáng với lòng trung và tài năng của hai khanh. Bây giờ ta cho phép hai khanh tâu bày lên những việc gì có thể làm để giúp triều đình sớm ổn định tình hình đất nước. Hai khanh cứ thành thật nói ra. Cho dù nói sai, Thánh hoàng cũng chẳng bắt lỗi đâu mà sợ!
Tôn Chi Hải tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ có cho phép thần mới dám nói. Như nay vạn sự đã đổi mới, thế mà áo mão và cách để tóc của các quan người Hán và thần dân vẫn giữ theo nếp cũ, thần e thiên hạ sẽ nghĩ người Hán đã khuất phục bệ hạ chứ không phải bệ hạ đã khuất phục được nguời Hán vậy!
Nhiếp chính vương ngẫm nghĩ rồi khen:
- Lời khanh nói chí phải. Thánh hoàng sẽ ban hành lệnh cạo đầu và đổi y phục trong nay mai. Các khanh dù là cựu thần Minh triều nhưng quả thật đã trung thành với Thanh triều hơn cả người Mãn. Nếu Thanh triều có thêm đuợc một số bày tôi như các khanh thì Trung Quốc lo gì không sớm đại định?
Ngô Viết Trọng
TRẦN KHẮC CHUNG của Ngô Viết Trọng
Tác giả: Uyên Hạnh
| Chúa Nhật, 24 Tháng 5 Năm 2009 15:20 | |||
| Trần Khắc Chung được sách nói đến như một viên tướng oai hùng tài giỏi của nhà Trần nước Đại Việt và mối tình ngang trái của ông với Công chúa Huyền Trân. Nàng công chúa diễm kiều con gái út Vua Trần Nhân Tông, một tuyệt thế giai nhân với sắc đẹp rực rỡ qúy phái, vợ của Quốc vương Chiêm Thành Chế Mân.
Vua Trần Nhân Tông là một vị vua nhân đức và rất từ ái trong việc trị dân. Vì hạnh phúc và sự yên bình của Đại Việt, tránh cảnh chiến tranh với nạn binh lửa giữa hai nước, nhà vua gả Công chúa Trần Huyền Trân sang Chiêm Quốc làm vợ Chế Mân, một ông vua khá lớn tuổi so với tuổi của nàng. Chế Mân yêu mến sắc đẹp tuyệt vời của Huyền Trân Công Chúa và trong sính lễ dâng lên Quốc Vương Đại Việt để xin cưới nàng, Chế Mân đã trao lại hai miền đất châu Ô, châu Rí. Cuộc hôn nhân của Huyền Trân không những giúp Đại Việt lấy lại được những vùng đất đai đã mất, còn tạo được tình hòa hiếu giữa Đại Việt và Chiêm Quốc. Chỉ tiếc là triều đình nước Chiêm không thiếu kẻ phản phúc và bọn sứ đoàn nhà Nguyên không khoanh tay ngồi nhìn hai nước Chiêm – Việt kết thân. Đó cũng là nguyên do tạo cái chết cho Vua Chế Mân. Kết hôn năm 1306, nhưng chỉ gần một năm sau Huyền Trân Công chúa đã thành góa phụ. Vua Chế Mân chết, Trần Khắc Chung rất lo lắng và xót xa cho Công chúa Huyền Trân phải sống cảnh đơn chiếc tại cung đình ở một xứ sở xa xôi giữa những người xa lạ với nỗi uất ức vì mất hai châu Ô và Rí (và mối hận cả ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính vua Chiêm Chế Củ dâng vua Lý hai trăm năm trước) sẽ khiến nàng phải trải qua lắm cảnh đọa đày đau khổ về sau, kể cả sự nguy hiểm cho bản thân nàng, qua kinh nghiệm ngày Công chúa về Chiêm Quốc được tấn phong Hòang Hậu đã súyt chết vì chén trà có độc của bà Hòang Hậu đương thời vợ trước Vua Chế Mân. Trần Khắc Chung đã tâu với Vua Anh Tông về phong tục hỏa thiêu của Bà La Môn và mối lo sợ rằng Công chúa Huyền Trân sẽ bị đưa lên giàn hỏa thiêu chết theo Vua Chế Mân. Được sự chấp thuận của Vua Anh Tông, Trần Khắc Chung lập kế vào Chiêm Quốc cướp Công chúa Huyền Trân đưa về Đại Việt. Trên đường về, theo sử sách, trong ba tháng thuyền trôi lênh đênh trên sóng nước, hai người đã yêu thương và gần gủi nhau. Ngòi bút của Ngô Viết Trọng cho chúng ta thấy rõ, ngay từ ngày còn ở tại nước nhà, thời gian Công chúa Huyền Trân được Vua Anh Tông chuẩn bị cho nàng trước khi được đón về làm Hòang Hậu Chiêm Quốc, Huyền Trân phải học tiếng Chiêm và phong tục tập quán của Chiêm Quốc. Trần Khắc Chung đã là người phụ giúp trong việc dạy dỗ Công chúa Huyền Trân về những học hỏi nêu trên. Vẻ đẹp khuynh quốc của Huyền Trân, tính nết dịu dàng đoan thục của nàng công chúa ở tuổi cập kê, sự thông minh xuất chúng cùng cái nhìn thấy rõ mọi việc qua đôi mắt và tấm lòng nhân hậu trong sáng của nàng đã chinh phục trái tim Quan Hành Khiển Đại thần Trần Khắc Chung. Trần Khắc Chung đã yêu nàng và vô hình chung là người lo lắng cho an nguy của Công chúa. Ngô Viết Trọng đã tạo cho người đọc cảm giác trung thực hơn về một nhân vật Trần Khắc Chung lừng lẫy qua những dữ kiện lịch sử được kể lại trong lời văn không bóng bẩy trau chuốt. TRẦN KHẮC CHUNG so với những áng văn chương lãng mạn trử tình có thể được gọi là thiếu âm hưởng của thiên nhiên và chất vị thơ mộng của cảnh vật, cho ta cảm giác đọc một quyển sách sử hơn là một quyển tiểu thuyết lịch sử. Nhưng không vì thế mà ngòi bút ông mất đi lực lôi cuốn do bố cục chặt chẽ của sách và phối hợp của một sở học phong phú cùng công trình nghiên cứu dồi dào, thế nên, những dữ kiện lịch sử được ông viết, mang cái sâu sắc có được như khi đọc Tam Quốc Chí. Sách cũng cho ta một nhận thức có phần khác biệt hơn những nhận thức đã có trước đây, đặc biệt về mối tình giữa Trần Khắc Chung và Trần Huyền Trân. Đó là việc người đọc có được một cái nhìn khách quan và thi vị hơn. Trần Khắc Chung và Huyền Trân Công chúa là một mối tình đã được các thi nhân văn sĩ thi vị hóa, bi kịch hóa hay lãng mạn hóa làm cho người đọc khó thấy rõ một điều đó là tình yêu chân thật. Có thể ảnh hưởng văn hóa trong nếp sống của xã hội ngày xưa đã làm ngòi bút các sử gia thời Trung Đại mang tính khe khắt lên án hơn là cho người đọc cơ hội thấy được cái đẹp của một mối tình không trọn. Mỗi thời đại có một lối nhìn, bằng cách phát biểu khe khắt hay phóng khóang, đã vô tình, nhiều hay ít, làm nặng ngòi bút của người viết khi chuyển đạt một sự kiện lịch sử đến người đọc. Sách cho thấy Trần Khắc Chung là người đa tài, ông rất tài hoa và ông đã đào luyện Huyền Trân Công Chúa thành vị Hòang hậu Chiêm Quốc thông rõ ngôn ngữ và phong tục tập quán của xứ nầy. Nếu là tình yêu vị kỷ ông đã không dốc hết sức mình ngày đêm đào luyện một Công chúa Huyền Trân có thể sống thỏai mái nhờ biết ngôn ngữ của Chiêm Quốc lại được kính nể khi thông rõ tập quán phong tục của nước đó. Ông đã dốc lòng chỉ dạy và lo lắng không những về những vấn đề trên mà ông còn là người đã động viên tinh thần Công chúa làm nàng hăng hái học hỏi và có được kết quả tốt đẹp, nếu không nói là quá bất ngờ, ngòai cả dự tính của nhà vua. Thời gian từ ngày Trần Khắc Chung dẫn phái đòan sang Chiêm Quốc để giải cứu Công chúa Huyền Trân cho đến khi đưa được Công chúa về lại nước là một năm. Chính sự chậm trể nầy đã tạo lời thị phi. Những diễn tiến tại Chiêm Quốc, những tai nạn xảy ra cho ông, cả đến giờ phút ông thuyết phục được Vua Chiêm là Chế Chí lập đàn chiêu hồn bên bờ sông, để ông thừa cơ cướp Công chúa đem xuống thuyền nhẹ đậu bên sông và những tháng ngày chạy trốn trôi nổi trên sông theo giòng nước xuôi về Đại Việt là những sự kiện linh động nhờ tài trí và sự ứng phó tài giỏi của ông. Phần Huyền Trân Công chúa, nàng có rung động hay không trước một vị tể tướng oai phong tài giỏi. Thời gian gần gủi qua bao tháng ngày được Trần Khắc Chung làm thầy giảng dạy, có thể Công chúa đã rung động. Và trên hành trình dài xa thẳm khi Trần Khắc Chung hộ tống đưa nàng sang Chiêm Quốc. Rồi một năm sau đó trên con thuyền trôi theo sông nước từ Chiêm Quốc trở về Đại Việt trong ba tháng trời, nàng có cảm nghĩa cử khí khái và sự can đảm của Trần Khắc Chung, người đã không quản nguy hiểm lập kế cứu nàng đem về Đại Việt sau khi Chế Mân chết. Sự rung động giữa trang quốc sắc thiên hương và người hùng xứ Đại Việt có hay không. Nếu không, hóa ra hai người là gỗ đá. Nếu có, thì mối tình nầy đi đến đâu. Chữ «tư thông» các sử gia đã dùng thật quá khe khắt. Huyền Trân vì yêu qúy Cha là một vị anh quân, một người cha tòan thiện sẽ không có thái độ «bôi nhọ» như thế. Huyền Trân trong trái tim của Trần Khắc Chung là hình ảnh của một người tình trong sáng ngây thơ, ông yêu Huyền Trân không phải với ý đồ chiếm giữ, mà ông yêu Huyền Trân với ý tưởng tôn thờ vì lòng ông đầy nỗi rung cảm lẫn kính trọng nàng. Dĩ nhiên khi đã yêu nàng, ông sẽ mơ tưởng được gần gủi được ôm ấp nàng trong vòng tay ấm áp của ông, nhưng không vì thế mà ông có ý định cưỡng đọat. Nghĩa là cưỡng chiếm lòng ông và cả lòng nàng, để cùng đưa nhau vui hưởng lạc thú xác thịt. Vậy thì, ở đây ta thấy được nỗi lòng của cả hai. Một mối tình không trọn nhưng tòan hảo và tuyệt đẹp. Không trọn vì không đạt được sự nồng ấm của ái ân chồng vợ trong niềm tha thiết muốn được gần nhau. Đẹp và toàn hảo vì đích thực đó là tình yêu. Trở về lại Đại Việt, chỉ một thời gian ngắn, và sau khi vua cha từ trần, Huyền Trân đi tu tại một ngôi chùa trên núi. Danh phận Công chúa Huyền Trân hay Hòang Hậu Chiêm Quốc đã không còn hiện hữu trên cõi trần tục, nàng đã thí phát quy y. Sau khi thọ Bồ Tát Giới, Huyền Trân Công chúa mang pháp danh Hương Tràng và tu ở chùa Quảng Nghiêm (Nam Định). Nàng công chúa đoan thục con gái yêu qúy của vua Trần Nhân Tông, vị vua lỗi lạc của nhà Trần, đã theo bước chân giải thóat của vua cha. Vị vua nước Đại Việt đã từ bỏ ngai vàng đi tu trở thành Trúc Lâm Đầu Đà trên Yên Tử Sơn. Trúc Lâm Đại Sĩ chính là Vua Trần Nhân Tông, là Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm, người đã khai sáng tông phái Thiền Trúc Lâm của Việt Nam. Đọc TRẦN KHẮC CHUNG của Ngô Viết Trọng ta có thể thấy được rằng Trần Khắc Chung thật sự yêu Huyền Trân Công Chúa, và Tể Tướng Trần Khắc Chung thực sự yêu đất nước Đại Việt. Trần Khắc Chung đã làm quan lớn qua bốn triều đại các vua Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông trong những chức vụ quan trọng như Đại hành khiển, Tể tướng, Thượng thư, Ngự Sử đại phu, Đại an phủ kinh sư, Quan nội hầu, Sư bảo. Trần Khắc Chung là một người văn tài tuyệt giỏi, và đến cuối đời ông đã đạt được địa vị cực phẩm. Những tranh chấp dưới trướng vua không tránh khỏi. Huệ Vũ Vương chết vì hành động thái độ của chính ông ta. Việc Trần Khắc Chung bị bôi nhọ khi mồ mả của ông bị kẻ gian đập phá là một việc khá đau lòng. Việc đục tên ông ra khỏi Văn Miếu là một việc khá khe khắt. Trong phần Lời Ngỏ tác gỉa Ngô Viết Trọng viết rằng : «Mong muốn gợi được chút cảm hứng cho những người vẫn thắc mắc mối tình giữa Trần Khắc Chung và Huyền Trân công chúa là chuyện có thật hay chỉ là chuyện hoang đường. Tập trung một số tài liệu thu thập được từ nhiều phía, gạn lọc lại để xây dựng nên tập tiểu thuyết TRẦN KHẮC CHUNG, ước mong của người viết là làm sao phác họa lại chân dung nhân vật lịch sử này được gần với sự thật hơn!». Ngô Viết Trọng đã đạt được mong ước của mình một cách trung thực nhờ đi sát những dữ kiện lịch sử và hấp lực của ngòi bút qua sở học của ông. Viết về Trần Khắc Chung và Huyền Trân Công chúa có thể các sử gia đã đúng khi cho rằng hai người yêu nhau. Và nếu thực sự họ đã yêu nhau thì đây là một mối tình tuyệt đẹp của lòai người. Ngòi bút của Ngô Viết Trọng đã phác họa cho người đọc những dữ kiện của thời gian và không gian, cùng hai nhân vật, một Trần Khắc Chung tài hoa oai hùng, và một Công chúa Huyền Trân thánh thiện với sắc đẹp tươi mát rực rỡ. Ngô Viết Trọng đã dành cho độc gỉa cơ hội dùng tư tưởng và nhận xét của riêng mình để vẽ nên một mối tình, trên 700 năm rồi vẫn còn là một nguồn cảm hứng phong phú, làm đẹp đời sống của chúng ta.
Nguồn : tác giả Trở về tập truyện Vết Hằn Mùa Xuân Trở về Trang Ngô Viết Trọng |