LƯU THANH BÌNH
Sau năm 1975, có một vài sử gia đưa ra sửa đổi nhận thức về lịch sử Việt Nam. Vương triều Nguyễn (1802-1945) bị lên án nặng nề, tội nặng nhất là làm đất nước rơi vào tay thực dân Pháp khiến nhân dân trở thành nô lệ trên chính đất nước của mình. Vua Gia Long bị xem là kẻ mở đường cho giặc Pháp, “cõng rắn cắn gà nhà”. Một trong những hệ lụy là các chúa Nguyễn, các Hoàng đế nhà Nguyễn và toàn bộ những công thần khai quốc; khai sáng, mở cõi (phần lớn là người miền Nam, cái nôi trung hưng của triều Nguyễn) đều bị đưa ra khỏi sách giáo khoa, bảng tên đường phố, và ít khi được nhắc tới, hoặc có buộc phải nhắc tới thì đầy định kiến và nhận xét một chiều. Sự phủ định sạch trơn ấy kéo dài mãi cho tới thời đổi mới về kinh tế (thập niên 90) nhưng vẫn không hề đổi mới về quan điểm lịch sử. Năm 1996, một cuộc hội thảo về vua Gia Long nhân kỷ niệm Sài Gòn 300 năm (1698-1998) định tổ chức mà cuối cùng không thực hiện được là một minh chứng.
Người viết bài không hề có ý biện minh sai lầm hay đề cao công trạng các chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn, nhất là cá nhân vua Gia Long. Chỉ mong góp một phần nhỏ nhoi làm thay đổi những ngộ nhận, những nhận xét cực đoan, những tư tưởng cục bộ vùng miền, những hằn thù truyền đời, trả về cho lịch sử những sự thật như nó vốn có. Bởi vì xét cho cùng, chính những giá trị lịch sử là một phần thành hình nên Tổ quốc, và hậu thế có quyền biết rõ toàn bộ sự thật đã diễn ra một cách đầy đủ và toàn diện, không ai có quyền bưng bít, xuyên tạc.
VUA GIA LONG CÓ BÁN NƯỚC ?
Tháng 11năm 1787, Giám mục Bá-Đa-Lộc (Pigneau de Behaine) thay mặt chúa Nguyễn Ánh ký thỏa ước Versailles với đại diện vua Louis XVI , nội dung đại lược có những khoản như sau : Pháp hứa giúp Nguyễn vương 4 chiếc tàu đồng, 1200 lính bộ binh, 200 pháo binh, 250 mọi Cafres (?). Đổi lại, Nguyễn vương nhường luôn cảng cửa Hàn (Đà Nẵng), đảo Côn Lôn và người Pháp được toàn quyền tự do đi lại đề buôn bán và giảng đạo trên đất Nam Hà của chúa Nguyễn. Rất may là bản Hiệp ước chỉ là thỏa thuận trên giấy (một loại bản ghi nhớ) chứ không có hiệu lực bắt buộc thi hành. Nguyên nhân là Pháp đánh giá thực lực chúa Nguyễn quá thấp, triều đình Pháp đang bất ổn nội bộ, kiệt quệ tài chánh và sự cản trở của viên toàn quyền Pháp De Conway tại Pondichéry (Ấn Độ).
Ba mươi năm sau, khi cuộc nội chiến chấm dứt, nước Pháp cử sứ giả sang đòi thi hành hiệp ước thì vua Gia Long đã cự tuyệt một cách dứt khoát. Việt Nam Sử Lược [Cận kim thời đại, Nhà Nguyễn, Chương I, Thế Tổ (1802-1819)] viết về sự kiện này như sau: “Năm 1817, chiếc tàu binh tên là Cybèle của nước Pháp vào cửa Đà Nẵng. Quan thuyền trưởng là Bá tước De Kergarion nói rằng Pháp hoàng Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước của ông Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa”. Dù vậy, một số luận điểm “chính thống” cũng kết tội rằng với việc ủy nhiệm cho Bá-Đa-Lộc ký kết Thỏa ước với quá nhiều nhượng quyền, vua Gia Long đã mở đường cho thực dân nhòm ngó nước ta.
Xin viết thêm là thời điểm năm 1817 đó, nước ta đã thống nhất từ Nam chí Bắc với tên nước là Việt Nam, có đầy đủ chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nghĩa là diện tích trên đất liền và trên biển lớn hơn bây giờ (2018) nhiều. Còn những người Pháp đi theo chúa Nguyễn thì chỉ giữ những chức vụ nhỏ, không có tầm ảnh hưởng đến đại cuộc và cũng mai một dần. Nếu định nghĩa “bán nước” nghĩa là hy sinh đất đai, tài nguyên cho ngoại nhân để đánh đổi lấy quyền lợi cho bản thân hay giòng họ thì nhiều trường hợp còn tệ hơn vua Gia Long nhiều.
VUA GIA LONG TRẢ THÙ TÀN ĐỘC :
Thuở cắp sách đến trường, người viết cũng rất bất bình và trách hận vua Gia Long sao quá độc ác, tiểu nhân khi đối xử cạn tàu ráo máng trước di thể của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cũng như vua quan Tây Sơn bại trận năm 1802. Bỏ qua việc tranh luận ai đúng ai sai trong cuộc nội chiến khốc liệt 1768-1802, việc trả thù “hèn hạ” người đã chết của vua Gia Long, càng làm tôn thêm ánh hào quang của Hoàng đế Quang Trung, với chiến công đại thắng quân Thanh vang dội cho đến tận ngày nay. Sau này có dịp nghiên cứu Sử Việt từ nhiều nguồn, nhất là khi tự đặt mình vào hoàn cảnh bao phen thập tử nhất sinh của vua Gia Long, khi hãy còn là một cậu bé 13 tuổi cho đến khi trung hưng vương triều Nguyễn và thống nhất đất nước, thì mới hiểu một phần nào việc làm của ông, dĩ nhiên hiểu không phải là đồng tình; càng không thể dùng thế giới quan, nhân sinh quan ngày hôm nay để phê phán việc làm của tiền nhân hơn 200 năm trước.
Năm 1786, sau khi đã đánh bại quân Trịnh, chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Huệ đã cho người khai quật lăng mộ của 8 vị chúa Nguyễn, lấy hài cốt vứt xuống vực. Phần mộ của hoàng thân Nguyễn Phúc Côn (cha Nguyễn Ánh ) cũng chịu chung số phận. [ Đại Nam Thực lục -chính biên- Quyển XV]. Trước đó, năm 1777, Nguyễn Huệ đã bắt và hành hình những người thân của Nguyễn Ánh gồm có : Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (chú ruột), Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương (anh em chú bác) và Nguyễn Phúc Đồng (anh ruột) tại Gia Định. Năm 1783, hai người em ruột của Nguyễn Ánh là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc Thiển (Điển) cũng bị Tây Sơn giết chết. Một cuộc hủy diệt mồ mã người chết và “đuổi tận, giết tuyệt” người sống kéo dài suốt chiều dài cuộc nội chiến. Những tổn thất này, nếu ta đặt mình vào địa vị của Nguyễn Ánh, thì sẽ hiểu được phần nào tâm trạng của ông ta.
Tháng 11 năm Nhâm Tuất (1802), tại Phú Xuân, vua Gia Long làm lễ Hiến phù (dâng tù binh báo công) trước Thái miếu. Chiếu bố cáo mở đầu bằng câu :“ Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu…”. [Thực lục-quyển 19]. Như vậy việc trả thù của vua Gia Long ứng với đạo lý Khổng giáo và Luật gieo nhân-gặt quả của nhà Phật. Những thêu dệt của đời sau trong vụ hành hình vua tôi Tây Sơn, xin không được nhắc đến vì có quá nhiều dị bản, chỉ xin nhắc một điều là vua Gia Long chỉ dự Lễ Hiến phù chứ không dự khán buổi hành hình sau đó. Trước khi lớn tiếng mạt sát vua Gia Long, tưởng nên xem xét lại hành trạng của ông ta như việc khoan dung Nguyễn Thiếp, lục dụng Lê thần, cấp ruộng hương hỏa họ Trịnh, làm lễ tế trận vong tướng sĩ bên bờ sông Nhị, cho hồi táng hài cốt Lê Chiêu Thống, xây Khuê Văn Các …đều không phải việc làm của một ông vua hiếu sát.