THƠ YẾT HẬU LÀ GÌ?

HỒ NGUYỄN

       Theo định nghĩa, THƠ YẾT HẬU là thể thơ 4 câu, mỗi câu 5 chữ (Ngũ ngôn) hoặc 7 chữ (Thất ngôn). Riêng câu thứ 4 lại rút gọn chỉ còn một hoặc hai chữ, nhưng cực kỳ hàm súc ý nghĩa. Thông thường, thơ Yết Hậu thiên về vui nhộn, đùa tếu, trào phúng một cách thông minh, tài hoa.
Nguồn gốc: Thơ Yết Hậu đã biến tấu từ thể cổ phong và đường luật.
* Thơ Cổ Phong (cổ thể) là thể thơ tương đối tự do gồm những câu thơ 5 chữ hay 7 chữ (ngũ ngôn cổ phong hay thất ngôn cổ phong), không hạn chế số câu.
*Thơ Đường Luật hay Luật Thi (cận thể) là loại thơ ngũ ngôn hay thất ngôn (bát cú và tứ tuyệt hay tuyệt cú) được làm theo luật thơ rất có quy củ đặt ra.
Cách gieo vần:
-*Cổ phong thì tự do.
-*Đường luật: Nhắc lại tổng quát như sau:
– Vận (cách gieo vần): chỉ dùng vần bằng và luôn là độc vận (cả bài 1 vần).
– Đối (đặt hai câu đi sóng đôi với nhau sao cho ý và chữ trong hai câu ấy cân xứng với nhau, gồm cả đối ý lẫn đối chữ).
– Luật (cách sắp đặt tiếng bằng, trắc trong từng câu của một bài thơ).Theo quy tắc

“ Nhất, tam, ngũ (chữ thứ 1, 3, 5) bất luận: (đều được không gò bó vần T hay B).

“ Nhị, tứ, lục (chữ thứ 2, 4, 6) phân minh: (nghĩa là phải theo đúng luật B &T).

Ví dụThu điếu (Nguyễn Khuyến)
Ao thu (B) lạnh lẽo (T) nước trong (B) veo,
Một chiếc (T) thuyền câu (B) bé tẻo (T) teo.
Sóng biếc (T) theo làn (B) hơi gợn (T) tí
Lá vàng (B) trước gió (T) sẻ đưa (B) vèo
Tầng mây (B) lơ lững (T) trời xanh (B) ngắt
Ngõ trúc (T) quanh co (B) khách vắng (T) teo
Tựa gối (T) ôm cần (B) lâu chẳng (T) được
Cá đâu (B) đớp động (T) dưới chân(B) bèo
Hay:
Vụng khéo (T) nào ai (B) chẳng có(T) chi,
Khó khăn (B) phải lụy (T) đến thê (B) nhi.
Được thời (B), thân thích(T) chen chân (B) đến,
Thất thế (T), huơng lân (B) ngoảnh mặt (T) đi.
Thớt có (T) tanh tao(B), ruồi mới (T) đậu,
Chảo không (B) mật mỡ (T), kiến bò (B) chi?
Đời nay (B) những trọng (T) người nhiều (B) vị,
Bằng đến (T) tay không (B) mấy kẻ (T) vì.
       Niêm (nghĩa là dính) tức là sự liên lạc về âm luật của hai câu thơ trong bài Thơ Đường Luật. Hai câu thơ gọi là niêm với nhau khi nào chữ thứ 2 và chữ thứ 6 của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc.
– Bố cục (cấu trúc bài thơ phải làm theo một trật tự bắt buộc):
* Đề: câu 1-2 (nhập bài, mở đầu).
* Trạng hay Thực: câu 3-4 (giải thích).
* Luận: câu 5-6 (bình luận, bàn bạc).
* Kết: câu 7-8 (tóm tắt toàn bài).

Chuyển qua thơ YẾT HẬU như:
Sống ở dương gian đánh chén chè,
Chết về âm phủ cắp kè kè.
Diêm vương phán hỏi rằng: chi đó?
Be! 
()
(
Be: loại bình thường được dùng để đựng rượu.

       Từ thể cổ phong và thể Đường luật, các thi sĩ Trung Hoa và Việt Nam trước kia từng sáng tạo thêm một số thể thơ đặc biệt quái chiêu như “song điệp”, “tập danh”, “khoán thủ”, “hồi văn”, “triệt hạ”, và… “yết hậu”, “liên ngâm”, “thủ vĩ ngâm”… Ở đây chỉ đề cập về thơ Yết Hậu.
       Yết Hậu, nghĩa nôm na là “cụt ở sau”. Hán Việt Tự Điển của Đào Duy Anh định nghĩa: “Yết Hậu thi là thể thơ tuyệt cú khôi hài, câu sau chót chỉ có một, hai chữ“. Như thế, thơ Yết Hậu là thể thơ 4 câu, mỗi câu 5 chữ (ngũ ngôn) hoặc 7 chữ (thất ngôn). Riêng câu thứ 4 lại chỉ rút gọn một hoặc hai chữ nhưng cực kỳ hàm súc. Thông thường, thơ Yết Hậu thiên về vui nhộn, đùa tếu, trào phúng một cách thông minh, tài hoa.
Nức tiếng về thơ Yết hậu ở nước ta, có lẽ là Phạm Thái (1777-1813). Nhà thơ nổi tiếng “lãng mạn, phóng túng, độc đáo” này còn có tên là Phạm Phượng Sinh, tự Đan Phượng, đạo hiệu Phổ Chiêu Thiền sư, tục gọi là Chiêu Lỳ. Tác phẩm của ông thường được lưu truyền là: “Chiến tụng Tây Hồ phú”, truyện Nôm “Sơ kính tân trang” và nhiều áng thơ nổi tiếng – mà các bài Yết hậu đến nay mọi người vẫn hay nhắc đến. Ví dụ bài thất ngôn tuyệt cú:
Điển hình vài bài thơ dạng YẾT HẬU:
Anh nghiện rượu:
Sống ở dương gian đánh chén chè,
Chết về âm phủ cắp kè kè.
Diêm vương phán hỏi rằng: chi đó?
Be! 

Cảnh cha con rượu chè, bài bạc:
Ác lặn xăm xăm tới,
Gà kêu lẻn lẻn về.
Quan ngắn hết, quan dài hết,
Ghê!

Hay là:
Một năm mười hai tháng,
Một tháng ba mươi ngày.
Hũ lớn cạn, hũ bé cạn,
Say!
Hoặc là:
Trông lên nhà đổ đoạn,
Trông xuống vách tan rồi.
Cha thế ấy, con thế ấy,
Thôi!
        Nhà thơ lừng danh tài hoa phong nhã là cụ Nguyễn Công Trứ (1778-1858), đồng thời với Chiêu Lỳ, cũng rất giỏi thơ Yết Hậu. Tương truyền, thuở còn hàn nho, một đêm rằm nọ, Nguyễn tiên sinh mò vào miếu Long thần, ung dung lấy rượu thịt thiên hạ bày cúng mà tì tì đánh chén. Khi say xỉn, ông nâng ly mời Long thần… “dzô 100%” ! Thấy pho tượng chẳng nhúc nhích, Nguyễn Công Trứ bực mình, quật ngửa tượng ra, đổ rượu vào mồm rồi giáng cho mấy tát, xong chân nam đá chân chiêu về nhà… Sáng mai tỉnh dậy, nhớ chuyện, lấy làm hối hận, ông bèn viết ngay một bài Yết Hậu đem dán ngay trước cửa Long miếu:
Tạ lỗi Long thần:
Hôm qua trời tối đến chơi đây,
Đánh phải Long thần mấy cẳng tay.
Khi tỉnh thì nào ai có dám!
Say!
       Lại một hôm nhác thấy có bà lớn trong làng cùng đám tùy tùng đang đi dạo, ông buông ngay một bài Yết Hậu cốt ý để bà lớn nghe thấy:
Buổi chiều gió dịu êm,
Có bà lớn dạo xem.
Phong tư nhường chị Nguyệt,
Đâm thèm!
Thoạt nghe 3 câu đầu, phu nhân khoái lắm. Nhưng khi nghe đến 2 chữ kết, bà nổi giận, quay gót vào nội phủ, kể cho chồng là quan tri phủ, hiệu là Tây Pha, nghe…
Nghe xong, quan tri phủ cũng rất cáu giận, nhưng để bụng, đợi gặp dịp sẽ trị thằng ranh con lếu láo. Và dịp ấy xảy ra…
Số là suốt mấy tháng ròng, phủ nhà hạn hán. Quan tri phủ cho lập đàn cầu đảo liên tục mấy ngày mấy đêm vẫn chẳng thấy mưa rơi. Cậu học trò thấy chuyện bày vẽ quá tốn kém mà không hiệu quả gì, bèn viết một bài Yết hậu, đem dán ngay chỗ thiết đàn.
Bài thơ như sau:
Tri phủ cầu mưa rơi,
Dân chúng sướng mê tơi.
Nửa đêm mở cửa thấy,
Trăng soi!
(Nguyễn công Trứ)

ĐÔI BÀI THƠ YẾT HẬU:

Sáng sớm hôm nay mới cạo râu,
Soi gương tóc rối ở trên đầu.
Tiện tay keo vuốt…”đi” gần lọ,
Ngầu! (Thanh Kiệt)

Hay:

Sống ở trên đời khéo điểm trang,
Chết xuống âm phủ hãy còn mang.
Diêm Vương phán hỏi rằng chi đó?
Hoang! (Đồ Nghệ)

Hay: Vài bài của Vô Danh

Vợ Chồng Tâm Sự:

Vai năm tấc rộng để làm chi,
Tối đến ăn no cứ ngủ khì.
Mình ơi thức dậy chiều em tí,
Đi!!!

* Suốt ngày bận rộn với văn bài,
Mỏi cả xương sườn mỏi cả vai.
Chuyện ấy đêm nay xin gác lại,
Mai!!!

Hoặc thơ hơi tếu chút:

Xe anh không thắng nên lỡ tông,
Đây…đây….dầu gió tí là xong.
Em đau chỗ nào anh xoa giúp,
Mô…ng !!!
(Hoang bao)

MAI

Ngoài hiên gió thở điệu phong trần,
Bất chợt sương òa vỡ giọng ngân.
Thức tỉnh Mai rùng mình bật dậy,
Xuân…

CƠ HÀN

Lạnh lẽo đang trùm góc thảo lư,
Tuềnh toàng phên liếp buốt cầm thư.
Cơ hàn khốn quẫn chờm tê tái,
Đừ…!!
(Như Thị)

CÁC BÀI YẾT HẬU CỦA HỒ NGUYỄN (2016):

TỨ HOA:

ĐÀO:
Tết đến lòng xuân thắm dạt dào,
Ngắm nhìn hoa nở dạ nôn nao.
Vui mừng em hé môi cười thẹn,
Đào!

LAN:
Gió rét đông về lạnh xốn xang,
Nàng đưa môi đón nắng mơ màng.
Thế gian như thoảng hương mầu nhiệm,
Lan!

CÚC:
Xuân đáo nàng vươn tươi lộc phúc,
Hoa tình thanh thản say lòng tục.
Nắng hạnh phơi thân giục sáng ngời.
Cúc!

TRÚC:
Bão gió mưa giông thân chẳng gục,
Yêu đời trụ vững vui từng phút.
Hiên ngang gương sáng giục thương đời.
Trúc!……
               HỒ NGUYỄN (2016) 

Tài liệu HX sưu tầm nhiều nguồn________________________

Trở về=> Văn GS Hồ Xưa (Hồ Nguyễn)  *   HOME

Đọc thêm >>> Thơ Thầy Hồ Xưa (Hồ Nguyễn)   

Leave a comment