Nhạc Lam Phương

 

Bạch-Yến / Tình Ca Lam-Phương

===========

Tuyển Tập Những Sáng Tác Bất Hủ Của Nhạc Sĩ Lam Phương

Album Tình Ca Lam Phương 5

 

Chuyện tình đẹp như thơ, buồn như nước mắt của nhạc sĩ Lam Phương – ca sĩ Túy Hồng

Túy Hồng đóng kịch thời trẻ.
Đối với nhiều người, Lam Phương là nhạc sĩ tài hoa bậc nhất Sài Gòn trước năm 1975 với những tác phẩm để đời như Khúc ca ngày mùa, Kiếp nghèo, Phút cuối, Tình bơ vơ, Thành phố buồn… Còn Túy Hồng cũng là nữ nghệ sĩ đa năng bậc nhất Sài Gòn khi ấy, khi bà vừa là ca sĩ, kịch sĩ…
Trai miền Tây gặp gái miền Đông
Lam Phương tên thật là Lâm Đình Phùng, sinh năm 1937, tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Tuổi thơ của Lam Phương là một chuỗi ngày dài buồn đau và bất hạnh. Nhà nghèo, cha của ông đi theo tiếng gọi của tình yêu mới, bỏ 6 người con tuổi còn thơ dại cho người vợ không nghề nghiệp ổn định, một mình tảo tần hôm sớm nuôi con. Năm ông mười tuổi, mẹ gửi ông lên Sài Gòn, ở nhà của người bác ruột để ông được học hành, nhờ đó mà lịch sử tân nhạc nước nhà có được một nhạc sĩ Lam Phương. 
Lên Sài Gòn, Lâm Đình Phùng học ở trường Les Lauriers. Ngoài giờ học văn hóa, ông còn học thêm nhạc. Ông tự học guitare bằng các tài liệu tiếng Pháp do lúc đó ở Việt Nam chưa có sách dạy nhạc tiếng Việt. Thấy ông là một học trò nghèo nhưng chăm chỉ, các thầy dạy nhạc (nhạc sĩ Hoàng Lang, nhạc sĩ Lê Thương) tận tình chỉ dạy cho ông mà không nhận tiền thù lao. Năm 1952, sáng tác đầu tay của ông, nhạc phẩm Chiều thu ấy ký tên Lam Phương ra đời. Ông vay tiền của bạn bè để mướn nhà in in nhạc, sau đó thuê xe chở nhạc đi bán lẻ khắp Sài Gòn. Năm ấy, ông mới 15 tuổi.
Thành công với tác phẩm đầu tay, Lam Phương càng miệt mài sáng tác.  Ba năm sau, Lam Phương tung ra hàng loạt ca khúc viết về quê hương, trong đó nổi tiếng nhất là Trăng thanh bình, Nắng đẹp miền Nam, Nhạc rừng khuya, Khúc ca ngày mùa… Đặc biệt, nhạc phẩm Khúc ca ngày mùa thành công vượt bậc hơn cả. Bản nhạc được viết theo thể loại nhạc đồng quê, nhịp điệu Mambo, với âm giai bằng cung rê thứ. Các hãng đĩa nhựa như Dư âm, Sóng nhạc, Asia… tranh nhau ký hợp đồng với Lam Phương để được thu âm bài hát Khúc ca ngày mùa này, tiếng tăm của bản nhạc mới thật sự bùng nổ. Với tiếng hát điêu luyện của đôi song ca tài danh Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết, lúc hợp, lúc bè, lúc đuổi như càng đưa bài hát lên chín tầng mây. Khúc ca ngày mùa còn được hầu hết các trường học ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long chọn để dạy cho học trò ca múa. Lam Phương đã thật sự thành danh khi ông mới 18 tuổi.
Túy Hồng tên thật Trương Ánh Tuyết, bà sinh ra tại Bình Dương và lớn lên tại Sài Gòn. Túy Hồng có người anh trai là bạn thân của Lam Phương, những ngày thứ bảy và chủ nhật, Lam Phương thường đến nhà bạn để hòa nhạc và dạy hát cho Túy Hồng. Túy Hồng rất ngưỡng mộ Lam Phương vì mới 15 tuổi mà đã sáng tác được bài Chiều thu ấy. Về phía Lam Phương, nhạc sĩ trẻ này cảm thấy chưa có cô gái nào hát nhạc mình hay bằng Túy Hồng. Thời điểm này, Lam Phương lại đang hợp tác với ban nhạc kịch lớn Dân Nam nên đề nghị Túy Hồng cùng với mình đầu quân về đoàn. Kể từ đó, Túy Hồng bắt đầu trình diễn các ca khúc của Lam Phương và rất thành công với các ca khúc: Đèn khuya, Kiếp nghèo, Kiếp ve sầu, Tiễn người đi, nhất là hai bản Chiều tàn và Phút cuối.
Đưa nhau lên đỉnh vinh quang
Lam Phương -Túy Hồng cưới nhau năm 1959. Lúc đó, ngoài phần phụ trách nhạc cho ban kịch Dân Nam, Lam Phương còn viết nhạc nền cho các ban kịch lừng danh thời đó như: Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng. Đến năm 1968, với sự động viên của chồng, Túy Hồng đứng ra thành lập riêng một đoàn kịch – Đoàn kịch “Sống -Túy Hồng”. Chính đoàn kịch này đã đưa tên tuổi của Lam Phương và Túy Hồng lên tột đỉnh vinh quang. Đoàn kịch Sống -Túy Hồng còn có một lợi thế mà ít ban kịch nào có được, đó là ban kịch đưa các bài tình ca vào các vở diễn thành công nhất, nhờ phần lớn các bài hát tuyệt vời của người nhạc sĩ tài hoa Lam Phương, thời điểm đó là đức phu quân của Túy Hồng. Kịch do Sống -Túy Hồng dựng không quá bi thảm, kết thúc luôn dành chỗ đứng cho một niềm hạnh phúc nào đó, khán giả xem kịch Sống -Túy Hồng thường ra về với một tâm trạng nhẹ nhõm.
Tất cả những vở kịch của ban kịch Sống -Túy Hồng (do Túy Hồng đóng chính) đều ghép nhạc của Lam Phương vào phần ngoại cảnh, làm cho vở kịch sống động hơn, truyền cảm hơn, thu hút người xem nhiều hơn. Ngược lại, mỗi nhạc phẩm của Lam Phương vừa ra đời đều được “giới thiệu” trong một vở kịch của Túy Hồng. Thời ấy, cứ mỗi tối thứ năm hàng tuần, Đài truyền hình Sài Gòn có tiết mục “thoại kịch” và những vở kịch của ban kịch “Sống -Túy Hồng” bao giờ cũng thu hút nhiều người xem. Thời ấy truyền hình còn hiếm, người ta kéo nhau đến những nhà có tivi để xem kịch “Sống -Túy Hồng”, trong nhà, cửa ra vào, ô cửa sổ… đều chật cứng người xem. Tôi còn nhớ, khi bài hát Thành phố buồn của Lam Phương được hát dìu dặt trong suốt một vở kịch của Túy Hồng phát trên truyền hình, sáng hôm sau bài hát ấy bán đắt như tôm tươi, chàng học sinh, sinh viên nào cũng muốn mua bài Thành phố buồn về để trên kệ sách. 
Trong khoảng thời gian này, sức sáng tác của Lam Phương càng dàn trải trên nhiều thể loại phong phú, hầu hết các ca khúc ông đưa ra đều in đậm dấu ấn trong đời sống âm nhạc miền Nam, điển hình như Chờ người, Tình bơ vơ, Duyên kiếp, Thành phố buồn, Tình chết theo mùa đông…
Ông bước lên vị trí một nhạc sĩ thành công nhất miền Nam về mặt tài chánh. Còn bà Túy Hồng cũng sánh ngang với những Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng trên sân khấu kịch nghệ. Vợ chồng Lam Phương – Túy Hồng cất nhà lầu, sắm xe hơi, trở thành đôi vợ chồng nghệ sĩ giàu có bậc nhất lúc bấy giờ. Sáng 30.4.1975, vào phút chót Lam Phương – Túy Hồng đã nghe theo người bạn đem gia đình lên tàu Trường Xuân ra khơi. Vì trước đó không có ý định ra đi, nên Lam Phương xuống tàu với 2 bàn tay trắng, bỏ lại hai căn nhà lầu, chiếc xe hơi mới toanh và khoảng 30 triệu đồng trong ngân hàng (lúc đó vàng 9999 chỉ khoảng 36.000 đồng/lượng).
Buồn như nước mắt
Đến định cư ở Mỹ, để có tiền nuôi vợ con, Lam Phương phải làm đủ thứ nghề, từ lau sàn nhà, dọn dẹp cho hãng Sears, đến những việc nặng nhọc như thợ mài, thợ tiện… Sau khi cuộc sống nơi xứ người dần ổn định, cứ mỗi cuối tuần ông cố gắng thu xếp thuê một quán ăn làm sân khấu ca nhạc kịch để bạn văn nghệ gặp nhau, để Túy Hồng và ông có cơ hội sống lại với nhạc kịch.
ảnh 1
Túy Hồng hiện nay. 
ảnh 2
Lam Phương hiện nay. 
Chính trong khoảng thời gian này, một điều mà Lam Phương không bao giờ ngờ tới đã xảy đến: Túy Hồng không còn chung thủy với ông nữa, bà đã “ôm cầm sang thuyền khác”. Trong tâm trạng đau khổ, uất hận, Lam Phương lại cho ra đời một tuyệt phẩm mang tên Lầm, với những câu từ chua xót: “Anh đã lầm đưa em sang đây. Để đêm thường nghe tiếng thở dài/Thà cuộc đời yên trong lòng đất. Được trở về tiếng khóc ban sơ/Hơn là mang kiếp mong chờ. Anh đã lầm đưa em về đây. Cho tâm hồn tan nát từng ngày. Cùng điệu nhạc lâm ly huyền bí. Dìu lòng người sang chốn đam mê. Đưa anh vào khổ lụy hôm nay…”.
Lam Phương rời Mỹ để trốn chạy niềm đau, ông sang Paris làm công cho một tiệm tạp hóa, quét dọn, đóng gói, khuân vác… Cho đến một ngày, ông gặp được một tình yêu mới và ông đã kết hôn với người đàn bà này. Lam Phương như cây khô được hồi sinh, ông lại sáng tác các ca khúc ngợi ca tình yêu, như: Mùa thu yêu đương, Tình hồng Paris, Tình đẹp như mơ, Bài tango cho em… Thế nhưng, chỉ được vài năm, người phụ nữ từng tạo cho ông niềm say mê để viết nên câu ca “Từ ngày có em về, nhà mình tràn ánh trăng thề”,  rồi cũng bỏ ông mà theo người khác.
Năm 1995, Lam Phương trở về Mỹ và kết hôn với một phụ nữ khác. Định mệnh khiến xui thế nào ông lại sáng tác bài Một mình. Tháng 3.1999, ông bị tai biến mạch máu não, liệt nửa bên người, giọng nói không được bình thường. Rồi người đàn bà thứ ba cũng lẳng lặng rời xa ông. Giờ đây, ông sống một mình với chiếc xe lăn trong căn nhà hiu quạnh. Hơn 50 năm sáng tác với khoảng 200 ca khúc để cuối cùng bài hát Một mình đã vận đúng vào đoạn cuối đời ông!

 

 

 

Tóm tắt tiểu sử Nhạc sĩ Lam Phương

Tên thật là Lâm Đình Phùng, sinh ngày 20 tháng 3 năm 1937, làng Vĩnh Thanh Vân, quận Châu Thành, tỉnh Rạch Giá (ngày nay là phường Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang).

  Hiện nay ông đang sinh sống tại khu Little Saigon, Quận Cam, California.

E:\00-2018\IMG_1793_.jpg

Nghe tôi gọi điện thoại: “Chú ơi, con qua phỏng vấn chú để viết bài cho báo Tết, nha chú”. Nhạc sĩ Lam Phương nói liền: “Ừ, ghé qua chơi đi cháu!”. Khi nghe tôi nhấn thêm câu, “Kể về những cuộc tình đã qua đời Lam Phương nha!” thì tác giả thêm luôn “suốt đêm thao thức vì em” bật cười lớn “Giờ này kể lạng quạng người ta uýnh cho, chạy không kịp”.

Cười vậy, nói vậy, nhưng ông vẫn kể, mà còn kể “mỗi người có một chuyện nhỏ nhỏ vui vui để làm bài viết của cháu lạ hơn.”

Nhìn ông ngồi trên chiếc xe lăn, cười nói một cách vui vẻ, thỉnh thoảng lại pha trò một cách rất duyên để rồi bật cười thoải mái, tôi thầm nghĩ “ông vầy mà không nhiều người mê mới lạ.” Mà, ngược lại, nghe cách ông gọi điện thoại hỏi thăm về cô bạn đồng nghiệp đi cùng tôi đến thăm ông, tôi cũng chợt nhớ câu “Chém cha cái kiếp đào hoa, mở ra rồi lại trói vào như chơi” của Nguyễn Du.

Máu đào hoa thật sự chảy trong ông thấm vào từng thớ thịt, cho nên, ông còn thở, là còn bật lên những câu đại loại: “Cô đó đẹp quá hén!” cho dù sau đó ông tủm tỉm “chống chế”: “Trời cho mình tâm hồn như vậy chứ đâu phải mình muốn đâu”.

Phỏng vấn ai mà biết rằng họ sẵn lòng giãi bày, là tôi hỏi thẳng liền vấn đề, chứ không cần lượn lượn dẫn dắt. Cũng vậy, khi nghe ông nói “bốn người mà ông Nguyễn Ngọc Ngạn nhắc đến trong bài viết của ổng hồi mấy năm trước là bốn người chánh đó,” tôi hỏi liền, “Còn những người phụ đâu?”. “Quên hết rồi, sao nhớ nổi”. Người nhạc sĩ ở ngoài tuổi 80 trả lời một cách tỉnh bơ, gọn bâng và cười xòa.

Bốn mối tình sâu đậm

Bốn người, hay đúng hơn là bốn mối tình sâu đậm, đi qua cuộc đời của người nhạc sĩ tài hoa (lẫn đào hoa) này chính là

ca sĩ Bạch Yến, ca sĩ Minh Hiếu, ca sĩ Hạnh Dung và người đẹp Cẩm Hường.

“Và mối tình với kịch sĩ Túy Hồng nữa là năm, phải không chú?” – “Không, đó là vợ”. “Trời, vợ không phải là tình sao!” Tiếng kêu của tôi chỉ được trả lời bằng một nụ cười nhẹ của người từng viết nỗi lòng “Tôi đã lầm khi đưa em sang đây”.

“Thế còn lời đồn về Họa Mi?” – “Họa Mi không có đâu, chỉ là bạn thôi”, ông lắc đầu.

Và ông bắt đầu, như thể có đoạn phim đang chiếu chậm qua dòng hồi ức của ông: “Cô Cẩm Hường đẹp lắm, đẹp số một đó, từng là hoa hậu bên Pháp mà. Chú viết cho ‘bà’ đó mấy chục bài lận, ‘Từ Ngày Có Em Về’, ‘Anh muốn đôi ta mãi như người tình’… trong bài ‘Mùa Thu Yêu Thương’ đó, ‘Bài Tango Cho Em’, nhiều lắm…

Tôi cũng không hiểu sao ông lại bắt đầu kể về những mối tình của mình bằng “mối tình chánh cuối cùng”, không biết có phải vì cô Cẩm Hường đã qua đời, nên nói dễ hơn chăng?

“Chú quen ‘bà’ này 10 năm ở Pháp. Quen cô ấy khi cô ấy đang có chồng, lúc chú từ Mỹ mới qua, gặp bà một cái là bà bỏ chồng luôn.. Mà cổ đẹp lắm,” ông cười nhớ lại.

Người em rể vẫn ở bên cạnh chăm sóc nhạc sĩ Lam Phương suốt thời gian, từ lúc ông đổ bệnh đến nay, kể thêm, “Cô Cẩm Hường đẹp lắm, nói chuyện dễ thương lắm, mà chỉ nụ cười thôi là thấy chết rồi.”

“Lúc đó cô Khánh Ly qua Pháp nhìn thấy, cô này chạy về ‘méc’ cô Túy Hồng. Cô Túy Hồng mua vé máy bay qua coi mặt liền,” người em rể ‘tiết lộ’ chuyện xưa.

“Chàng Lam Phương im lặng nghe em mình kể, rồi thêm vào: “Nhưng qua làm được gì nữa, vì lỗi bà trước, không phải lỗi chú. Mà lúc đó cũng thôi rồi.”

Một khoảng im lặng để ông nhớ lại một thời mê đắm, trước khi tôi tiếp: “Đây là mối tình dài nhất, đúng không chú?” – “Không, có người kéo dài đến 20 năm lận?” – “Ai?” Tôi bỗng nghệch ra. “Bà Tống Hùy” – “Là ai?” Tôi thật sự ngạc nhiên. “Là Túy Hồng đó”. Úi trời, tôi bật cười lắc đầu, trong khi ông ngồi cười khoái chí. Ông vẫn giữ được sự hài hước, tếu táo đến vậy ở tuổi bát thập thì quả là tôi cũng nể ông luôn.

“Có khi nào cùng lúc chú quen nhiều người không? – “Cũng có, mấy cô nữ sinh đó. Nói nói chứ đừng viết ra nghen,” ông bảo. Tôi trêu, “Sao lại không viết, không viết uổng à.”

“Trong thời gian sống với những người này vẫn có vô số những cuộc tình phụ bao quanh. Ăn cơm còn kiếm cháo là vậy đó. Toàn là người ta tìm tới thôi.” – Ông ‘ta thán’ về ông, mà như thể ‘kể tội’ ai đó.

“Là một nhạc sĩ, việc quen nhiều người tạo cho chú nhiều cảm hứng viết bài là sự thật, nhưng có khi nào chú cảm thấy có điều gì làm cho chú khó chịu, áy náy không?” Tôi tò mò.

“Khó chịu là khi họ đụng nhau đó” – Ha ha ha. Tôi không ngăn được tiếng cười lớn. Không có câu trả lời nào thật hơn thế.

“Vậy giờ này chú còn quen nhiều người không?” – “Giờ hết rồi,” ông trả lời ngay. “Hết người này đến người khác thôi, chứ không đến một lượt.” Tôi phải mất hai giây để hiểu hết câu trả lời “quỷ quái” mà thoạt nghe, tôi ngỡ ông đã thực sự “rửa tay gác kiếm.”

Ông trầm ngâm trước khi “biện hộ” cho chính mình, “Chắc tại số mình thôi, mình không muốn mà họ cứ tới,… mà mình từ chối thì sợ người ta buồn.”

“Chú không tìm ai hết vì mình biết thân phận mình mà; lúc nhỏ thì nhà nghèo, có thương cũng không dám tỏ tình với ai hết. Giờ thì mình bệnh vầy, họ có đến với mình thì cũng vì hiếu kỳ, ai biết dăm ba bữa đuổi mình đi sao,” ông nói cùng nụ cười muôn thuở.

Bạch Yến, mối tình đầu?

Ông bảo ông không tìm ai, nhưng lại là người biết tỏ tình sớm. Và người đầu tiên nghe được những lời tình tứ đó là Bạch Yến.

“Nhớ năm đó ở khu Bàn Cờ có vụ cháy nhà lớn lắm, chú cùng bạn bè đi làm thiện nguyện ở đó.. Nhà Bạch Yến cũng trong khu xóm đó, nên gặp, làm quen. Gặp nhiều lần thì tình cảm phát sinh,” ông kể về tình yêu đầu đời.

Ông cho biết “Bài hát đầu tiên viết cho Bạch Yến hình như là bài ‘Nghẹn Ngào.’” – “Tại sao lại là ‘Nghẹn Ngào?’” – “Vì chú có lỗi, làm bạn mình buồn nên bạn mình đuổi mình về. Đó là chú tưởng tượng ra thôi… chứ không có ai đuổi đâu. Đó như lời thú tội vậy mà, ‘Thôi anh đi về đi, xa xôi rồi thăm nhau làm chi…’”

“Mà chú làm khổ cổ lắm. Lúc quen cổ rồi, chú còn trẻ cũng bay bướm làm cho cổ buồn, cổ khổ lắm, phải bỏ đi Pháp, rồi đi Mỹ cả 10 năm mới quay trở về. Khi về chú có gặp lại cổ, khi đó cổ chưa có chồng. Nhưng chú thì có gia đình rồi. Cổ lại đi tiếp,” tác giả “Tình Bơ Vơ” kể.

“Có một kỷ niệm vui với Bạch Yến… đó là quen cổ khi còn là học trò mới lớn lên. Khi đó ‘bả’ đi về quê của ‘bả’,… tình còn mới nên chú thấy nhớ nhớ, mới đón xe đò về quê gặp ‘bả’.. Xe đò chạy từ chiều đến 4 giờ sáng mới tới; mà lúc giờ đó người ta còn ngủ hết, mình còn ở ngoài lộ… phải ngồi trên băng ghế ngoài đường ngủ chờ trời sáng mới gặp được. Đó là kỷ niệm mà chưa từng kể ai nghe,” ông cười với hồi ức… cũng chừng có hơn 60 năm.

Xấu nên phải kiếm người đẹp

Một điểm chung của những người phụ nữ từng làm chàng trai bước đi từ “Kiếp Nghèo” rung động, là, họ đều là những người phụ nữ đẹp. Câu nào nhắc đến “người xưa” của ông đều phải có dính đến chữ “đẹp.” “Vì mình xấu nên phải kiếm người đẹp,” ông bảo thế, nhưng tin hay không là ở người nghe.

“Cô ca sĩ Hạnh Dung thì không nổi tiếng nhưng đẹp,” ông kể tiếp. “Nhớ có lần đi công tác ở Phù Cát. Sau khi biểu diễn xong rồi thì về phòng ngủ. Nói là phòng, chứ chỗ nhà binh thì chỉ trải chiếu ra nằm ngủ. Giữa đêm bị pháo kích, ù té chạy tán loạn… Nhớ cổ cũng chạy thấy mình thì kêu ‘Em ở đây nè, em ở đây nè.’”

Ca sĩ Hạnh Dung ở Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương, chuyên đi hát cho lính nghe. Cô không là người nổi tiếng, nhưng những bài hát ông viết trong giai đoạn quen cô là ngững bài hát để đời, từ “Giọt Lệ Sầu,” “Tình Nghĩa Đôi Ta Chỉ Thế Thôi,” đến “Phút Cuối” và đặc biệt là bài hát làm “điên đảo” nhiều thanh niên trai tráng một thời: “Thành Phố Buồn.”

Với ca sĩ Minh Hiếu,người ông cho rằng “tình nghệ sĩ thôi chứ không phải đậm đà,” ông cũng mơ màng nhớ kỷ niệm xưa. “Hồi mới quen, có lần cổ rủ về nhà ăn cơm. Cổ làm đĩa gỏi, trên đó một bên cổ xếp sợi dây leo thành hình chữ MH, bên kia thì chữ LP”.

Minh Hiếu chính là nguồn cảm hứng để ông viết bài “Biển Tình” mà một người bạn tôi từng nhận xét “Trong tất cả những bài hát của Lam Phương, ‘Biển Tình’ là bài hát có giai điệu lạ nhất, nghe nhạc mà cảm giác như từng đợt sóng từ ngoài khơi vô thẳng vào lòng mình.”

Mối tình nghệ sĩ không đậm đà với Minh Hiếu cũng ghi dấu bằng những giai phẩm thật đẹp như “Biết Đến Bao Giờ” mà lứa chúng tôi, những đứa trẻ lớn lên sau năm 1975, khi bắt đầu biết nghêu ngao những bản nhạc vàng thì đó lại là những câu, “Đời là vạn ngày sầu, biết tìm vui chốn nào…” Ông kể thêm, “Chú viết bài ‘Em ơi suốt đêm thao thức vì em” (Em Là Tất Cả) là lúc chú lên nhà cổ chơi, khi ra về, cổ nói ‘nhớ mai lại nghe’. Chỉ một câu đó mà chú có ý tưởng viết bài hát đó trong một đêm.”

Khi tôi hỏi, “Với chú, mối tình nào sâu nặng nhất, khiến chú cảm kích người đó nhất?” Ông đã trả lời rất khéo, “Khó nói được lắm, vì mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau.”

Hỏi ông khi nhìn lại hết những người phụ nữ mà ông từng có tình cảm với, ông thấy đó là những tình cảm đẹp để nghĩ về hay có gì hối tiếc, ông cho rằng, “Thường là đẹp, ít người nào làm mình hối tiếc lắm. Vì khi mình thương người ta là mình thương cái đẹp của người ta. Nhưng sau khi tan vỡ thì những kỷ niệm đẹp làm mình nhớ.

Vừa viết vừa khóc

Theo ông, những sáng tác ông viết ra rất ít sự tưởng tượng, mà hầu hết đều thoát thai từ chính những gì ông trải nghiệm, liên quan đến cuộc đời ông, mặc dù có thể đó chỉ là những cảm xúc thoáng qua, nhưng đó là của ông, không vay mượn.

“Có bài hát nào chú vừa viết vừa khóc không?” Tôi tiếp tục cuộc chuyện trò, đôi khi tưởng chừng lạc ra ngoài đề tài đã định.

“Có chứ. Đời chú có hai lần vừa khóc vừa viết: một lần là khi viết bài ‘Kiếp Nghèo’; lần khác là khi viết bài ‘Một Mình’. Viết mà khóc vì đó là viết cho chính thân phận mình, ông trả lời.

Để phá vỡ không khí có phần trầm lại, tôi đưa luôn câu “Vậy có bài nào chú vừa viết vừa cười không?” Ông cười hiền lành, và trả lời, “Không.”

Cuộc đời chưa cười được. Ngay cả khi viết bài ‘Mùa Thu Yêu Thương’ lúc gặp bà Cẩm Hường, giai điệu nhạc vui tươi vậy nhưng nghe kỹ cũng sẽ thấy chứa trong đó nỗi buồn bàng bạc, ông tâm sự.

“Vậy thì điều gì có thể làm chú cười vui?” – “Là những gì không làm mình buồn.” – “Thế những gì làm chú buồn?” – “Cũng không biết. Thật ra lòng mình giờ dường như lắng đọng, không gì làm mình vui cũng như buồn. Muốn vui mà không vui được, vì phải có người tạo cho mình vui, mà mình đâu có ai đâu.”

Ông lại như rơi vào ‘khoảng lặng’ sau vài câu ứng đáp thật nhanh.

Và ông lại như nói, dường như không phải để cho tôi, mà là cho hết những người thương quý ông hiểu, “Đào hoa là do hoàn cảnh đưa tới thôi, chứ mình có muốn cũng không được, mà không muốn cũng không được. Hoàn cảnh thôi. Trời cho mình tâm hồn như vậy. Hoàn cảnh đưa tới mọi thứ. Trời cho đào hoa quá và giờ cũng cho luôn chiếc xe lăn ngồi một mình.”

Tôi nhìn người nhạc sĩ ngồi đó, đôi tay đan vào nhau, mắt lạc về một nơi nào, xa lắm. Không tấm hình nào chụp ông lúc ngồi xe lăn mà lại thiếu nụ cười, một nụ cười chưa bao giờ xuất hiện lúc ông còn trai trẻ. Nhưng, cả khi ông cười tươi lẫn lúc ông cười mỉm, đôi mắt ông cũng đều buồn,… nỗi buồn định mệnh của người đào hoa.

Bài viết: Ngọc Lan

Hình: Ngọc Lan & Trúc Linh, NV

E:\00-2018\IMG_1794_.jpg