Tứ đại phú hộ Sài Gòn xưa : Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa

 

Nhất Sỹ

Nhân vật này chính là ông ngoại của Hoàng hậu cuối cùng của đất An Nam – Nam Phương hoàng hậu. Ông xuất thân trong một gia đình công giáo tại Sài Gòn và là con chiên ngoan đạo, chính vì vậy khi ở tuổi thiếu thời ông Lê Nhứt Sỹ (1841 – 1900) được các tu sỹ người Pháp đưa sang Malaysia để học tập và sau này khi về lại quê hương, ông đổi tên thành Lê Phát Đạt do tên thật trùng với một người thầy trong tu viện.

Tượng điêu khắc ông Huyện Sỹ tại Giáo xứ Chợ Đũi

Có học vấn cao và biết nhiều ngôn ngữ, ông được bổ nhiệm làm thông ngôn rồi tiếp sau đó là Ủy viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Dân chúng gọi ông là Huyện Sỹ bởi tên họ chỉ thay trên giấy tờ, còn xưng hô ngoài đời thì người quen vẫn quen gọi bằng tên cũ.

Có nhiều giai thoại về sự giàu có của ông Huyện Sỹ, người thì bảo rằng do ngôi nhà gốc của Huyện Sỹ ở đất Tân An (Long An) được xây trên đất hàm rồng nên phong thủy tốt, đường tài danh cả dòng họ phất lên. Nhưng theo một số tài liệu ghi lại thì Huyện Sỹ giàu lên là do may mắn “trúng đất”.

Giáo Xứ Chợ Đũi, Quận 1

Khi Pháp chiếm Nam Kỳ, dân di tản tứ phương, ruộng không nhà trống đầy rẫy. Thế nhưng, chính quyền khi ấy bắt ép ông phải mua ruộng đất, bất đắc dĩ ông chạy vạy khắp nơi để mua đất tứ phương. Nhưng số trời đã định, ông Huyện Sỹ phải giàu, đất ông mua liên tiếp trúng mùa, lúa thóc bạt ngàn khiến ông phất lên không tưởng.

Ông Huyện Sỹ dùng sự giàu có của mình để xây dựng các công trình tôn giáo vì nhờ đạo mà ông được đi học và có nhiều cơ hội để thay đổi cuộc đời. Quy mô nhất phải kể đến là Nhà thờ Huyện Sỹ – hay còn biết đến tên Giáo xứ chợ Đũi, công trình kiến trúc quy mô nhất tốn hơn 1/7 gia sản của ông.

Nơi an nghỉ của Huyện Sỹ và vợ tại Giáo Xứ Chợ Đũi, Quận 1

Về phần đất đai rộng lớn, để dễ hình dung hãy thử chạy xe từ Nhà thờ Huyện Sỹ (quận 1) đến nhà thờ Chí Hòa (quận 10) rồi nhà thờ Hạnh Thông Tây (Gò Vấp), bạn sẽ thấy sự trải dài đất đai của phú hộ giàu nhất Nam Kỳ thời bấy giờ này. Tất cả các nhà thờ đều được xây dựng trên đất của ông.

Nơi an nghỉ của Huyện Sỹ và vợ tại Giáo Xứ Chợ Đũi, Quận 1

Huyện Sỹ qua đời năm 1900 còn vợ ông là bà Huỳnh Thị Tài mất sau đó 20 năm. Thi thể 2 người được chôn ở gian sau cung thánh nhà thờ Huyện Sỹ. Tại đây, 2 bên là 2 tượng bán thân của 2 ông bà, bằng thạch cao. Ở giữa là 2 phần mộ bằng đá cẩm thạch, bên trên mộ là 2 bức tượng toàn thân của 2 ông bà, cũng đều bằng đá cẩm thạch với hoa văn tinh xảo. Đây có thể xem là ngôi mộ đẹp nhất và còn bảo toàn trọn vẹn nhất trong các ngôi mộ của tứ đại phú hào.

Nhì Phương

Nhì Phương là tên gọi của Đỗ Hữu Phương (1841 – 1914), con trai đại địa chủ Nam Kỳ thời bấy giờ là Bá Hộ Khiêm. Ông Đỗ Hữu Phương thuộc vận mệnh sinh ra đã ngậm thìa vàng, cuộc sống nhung lụa giàu sang và địa vị khủng hiếm địa chủ nào cùng thời có được.

Hình ông Tổng đốc Phương in trên con tem Đông Dương

Không những gia sản ruộng vườn rộng lớn, bá hộ Khiêm – cha ông Phương là một trong những người thức thời, khi biết làm ăn buôn bán với người ngoại quốc từ sớm.. Chính lẽ đó, tài sản gia đình ông Phương ngày một tăng lên, người ta còn nói vui rằng, của cải nhà ông có khi đếm cả đời chẳng hết.

Bá hộ Khiêm dạy con khá nghiêm khắc, ông Phương được cha cho học tiếng Hán từ nhỏ, sau này biết thêm cả tiếng Pháp và là một thanh niên có tầm hiểu biết, giỏi ngoại ngữ, có kiến thức văn hóa, chứ không phải chỉ biết tiêu tiền như những công tử con nhà bá hộ khác. Sau khi cha mình qua đời, ông Phương được thừa hưởng khối tài sản khổng lồ và cũng từ đó người ta gọi ông bằng cái tên Bá hộ Phương.

Năm 1861, Sài Gòn – Chợ Lớn được chia làm 20 hộ, ông Phương qua lời giới thiệu của cai tổng Đỗ Kiến Phước, được người Pháp trọng dụng cho làm hộ trưởng, rồi từ đó ngày càng thăng tiến với nhiều chức vụ khác nhau. Ông gia nhập quốc tịch Pháp năm 1881, đưa các con sang Pháp du học. Gia đình ông có 8 người con, 5 trai 3 gái.

Tam Xường

Tam Xường tên thật là Lý Tường Quan (1842-1896), tên tự là Phước Trai. Được biết đến là một người giàu có, nhưng cuộc đời và sự nghiệp của Bá hộ Xường – Lý Tường Quan được ghi chép lại rất ít. Theo đó, Lý Tường Quan là người Minh Hương (Hoa Kiều trung thành với nhà Minh) chống lại nhà Thanh nên đến lánh nạn ở miền Nam Việt Nam.

Lý Tường Quan trở thành thông ngôn cho Pháp nhờ thông thạo cả tiếng Hoa lẫn tiếng Pháp, và được tin tưởng, trọng dụng. Tuy nhiên, trong lòng ông luôn muốn trở thành người có dấu ấn đậm nét hơn việc chỉ làm một viên thông ngôn quen, chính vì vậy ông đã tham dự thương trường, tập tành buôn bán kinh doanh.

Căn nhà thờ của Lý Tường Quan hiện tại ở Quận 5

Lý Tường Quan chọn buôn bán lương thực, thực phẩm cho Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Bằng sự khéo léo cùng với huyết quản vốn nhạy cảm với thương trường, chẳng mấy chốc ông phất lên trông thấy. Bên cạnh đó, ông còn biết cách đi cửa sau, lấy lòng quan Tây, quan ta nên việc làm ăn cứ xuôi chèo mát mái. Do Tường Quan còn có tên khác là Xường, lại rất giàu có, nên người dân thường gọi ông là Bá hộ Xường.

Bá hộ Xường bắt đầu mua đất xây cất biệt thự tại vùng Chợ Lớn để cho thuê và bán, càng ngày càng trở nên giàu có. Dinh thự của Bá hộ Xường rất bề thế, ngày nay tọa lạc trên đường Hải Thượng Lãn Ông, được nhà nước xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố.

Không giỏi dạy con như Bá hộ Khiêm, thành thử khi ông qua đời vào năm 1896, tất cả sản nghiệp cả đời ông gầy dựng chẳng mấy chốc tiêu tan do con cháu ăn xài phung phí.

Tứ Hỏa

Một trong những cái tên được người dân biết nhiều nhất chính là Hứa Bổn Hỏa, hay còn gọi là Chú Hỏa. Tên tiếng nước ngoài của ông là Hui Bon Hoa (1845 – 1901), chú Hỏa là người gốc Hoa và cũng theo đạo Công Giáo giống Huyện Sỹ – Lê Phát Đạt.

Tượng Chú Hỏa

Chú Hỏa nổi tiếng bởi các công trình kiến trúc mà ông xây dựng cùng giai thoại về người con gái chết trẻ của mình (chuyện này là sự đồn thổi dân gian không rõ thực hư). Một trong các dinh thự lớn nhất Sài Gòn thời bấy giờ chính là tòa nhà có 99 cánh cửa nay là Bảo tàng Mỹ Thuật Hồ Chí Minh ngụ trên đường Phó Đức Chính, và khách sạn có vị trí đẹp bậc nhất Sài Gòn – Majestic.

Không có nhiều tài liệu ghi chép về Hứa Bổn Hỏa, chính vì thế có khá nhiều lời đồn đoán về sự giàu có của ông. Nổi tiếng hơn cả là giai thoại chú Hỏa vốn dĩ chỉ là anh “đồng nát”, trong một lần đi nhặt nhạnh, may mắn tìm ra túi vàng nằm trong một chiếc ghế nệm cũ và dùng số vàng đó làm ăn rồi giàu lên nhanh chóng. Các phiên bản khác của giai thoại này thay túi vằng bằng bức tượng đúc đồng nhưng bên trong đầy vàng, hoặc những thứ đồ cực kỳ quý hiếm trong những món đồ vứt đi. Và giai thoại vẫn mãi là giai thoại, chuyện vì sao chú Hỏa giàu đến vậy, hiện vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng.

Căn biệt thự 99 cánh cửa nổi tiếng với giai thoại “con ma nhà họ Hứa”

Bảo sanh viện Đông Dương – Maternité Indochinoise (nay là Bệnh viện Từ Dũ)

Khách sạn Majestic đắc địa Sài Gòn

Năm 1901, Chú Hỏa trở về Trung Quốc với vợ và mất ở đây, được chôn cất tại Tuyền Châu ở tỉnh Phúc Kiến. Chú Hỏa có tổng cộng 3 người con trai và họ đều là những nhân vật kiệt xuất, xây dựng và phát triển sự nghiệp sau khi cha hạ thế, cũng như giữ gìn sản nghiệp còn nguyên vẹn đến không ngờ. Từ năm 1951, các thành viên gia đình và con cái của dòng họ Hui Bon Hoa đã dần dần chuyển sang các nước khác: Pháp, Mỹ… Trước ngày 30-4-1975, tất cả thành viên của dòng họ Hứa Bổn Hỏa đã rời Việt Nam.

Chú Hỏa và gia tộc là những người có tấm lòng bác ái, khi tự bỏ tiền xây dựng khá nhiều các công trình công cộng để phục vụ nhân dân như: Bảo sanh viện Đông Dương – Maternité Indochinoise (nay là Bệnh viện Từ Dũ), Thành Chí học hiệu (nay là trường THCS Minh Đức – Q1), Bệnh viện đa khoa Sài Gòn (đối diện chợ Bến Thành)…

 

GIA ĐÌNH TỔNG ĐỐC PHƯƠNG

 

BẬT MÍ GIA SẢN TỶ PHÚ GIÀU THỨ 2 SÀI GÒN MỘT THỜI

Tổng đốc Phương tên thật Đỗ Hữu Phương, từng được xem là tỷ phú giàu thứ hai tại Sài Gòn trong tứ đại phú “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Trạch”.
Ở quận 3, phía sau BV Mắt Saint Paul có một ngôi từ đường cổ hơn 100 tuổi. Người ta gọi là Đỗ Hữu Từ đường, là nơi thờ tự dòng họ Đỗ Hữu, còn gọi là đền Tổng đốc Phương nhưng người dân từ xưa quen gọi là đền Bà Lớn, vì cũng là nơi thờ người vợ của Tổng đốc Phương, do bà vốn có nhiều công đức với dân chúng quanh vùng.

Không tạo ân oán

Biết tiếng Hán và tiếng Pháp nhưng Đỗ Hữu Phương lại rất chuộng văn hóa Pháp nên tìm cách ra làm việc với Pháp. Sau khi chiếm được thành Chí Hòa năm 1861, Pháp mở cửa thương mại và mở rộng mối quan hệ với người Hoa trong vùng để phát triển buôn bán. Ông Phương nhờ người quen giới thiệu với tham biện hạt Chợ Lớn lúc này là Đại úy Francis Garnier và được Garnier tuyển dụng. Đến năm 25 tuổi được phong làm hộ trưởng ở Chợ Lớn.
Dù làm việc cho Pháp nhưng chủ trương của ông Phương là không gây thù chuốc oán,
alt
cho nên ngay cả trong trường hợp không dụ hàng được mà phải đưa quân đánh dẹp, sau đó Đỗ Hữu Phương lại đứng ra che chở và xin chính phủ Pháp ân xá cho những người Việt tham gia khởi nghĩa.
Trong tài liệu của Pháp mang ký hiệu SL. 312 ở Cục Lưu trữ Nhà nước II, có đoạn khen ngợi Đỗ Hữu Phương: “Ông ta cố gắng tránh đổ máu trong lúc dập tắt nhiều cuộc nổi loạn gần đây. Ông ta đã xin chính phủ Pháp ân xá cho một số đông những đồng bào của ông đã cầm vũ khí chống lại chúng ta…”.
Nhờ cách hành xử như vậy cho nên dù bị ghét vì theo Pháp nhưng nhiều người vẫn cho rằng Đỗ Hữu Phương là người hiền.

Câu chuyện lạ lùng về tình bạn

Nguyễn Hữu Huân đỗ đầu thi hương năm Nhâm Tý nên được gọi là Thủ Khoa Huân. Ông vốn là bạn thân với Đỗ Hữu Phương từ nhỏ. Sau này lớn lên hai người hai ngả đường. Năm 1864, Nguyễn Hữu Huân bị bắt ở An Giang, Pháp xử án 10 năm tù, đày sang Guyan rồi Cayenne – là thuộc địa của Pháp ở Nam Mỹ.
Sau khi ông thọ án năm năm, Đỗ Hữu Phương đứng ra bảo lãnh để xin chính phủ Pháp ân xá cho Thủ Khoa Huân. Ngoài ra ông Phương xin đưa Thủ Khoa Huân về an trí ngay ở nhà của mình và phục chức giáo thụ là chức cũ trước đây để dạy học cho sinh đồ ở vùng Chợ Lớn.
Lợi dụng việc cho dạy học, Thủ Khoa Huân bí mật liên lạc với nhiều sĩ phu yêu nước và hội kín của Hoa kiều để mua vũ khí chuẩn bị khởi nghĩa.
alt
Thủ Khoa Huân bỏ trốn khỏi nhà Đỗ Hữu Phương rút về Mỹ Tho cùng với Âu Dương Lân để hội quân khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa lần thứ ba này được rất nhiều nông dân và địa chủ ủng hộ nên thanh thế rất mạnh.
Phải hai năm sau, Pháp đưa quân bất ngờ tấn công thẳng vào căn cứ Bình Cách mới đánh dẹp được. Thủ Khoa Huân chạy thoát nhưng sang năm khi đi huy động quân binh khởi nghĩa thì bị Pháp phục kích bắt. Sau khi bị giam ở Mỹ Tho và được Tỉnh trưởng Gailland chiêu dụ hàng nhưng Thủ Khoa Huân vẫn từ chối, Pháp quyết định xử tử ông.
Vươn lên ngôi thứ hai của tứ đại phú
Trong quá trình làm việc, Đỗ Hữu Phương được thăng làm đốc phủ sứ Vĩnh Long, tổng đốc danh dự, rồi làm phụ tá Xã Tây Chợ Lớn, dân gian quen gọi là Tổng đốc Phương. Đây là chức vụ không quá lớn nhưng thiên hạ đồn rằng chức vụ này giúp ông Phương trở thành trung gian cho các thương gia Hoa kiều hối lộ viên chức Pháp, nhờ vậy thu rất nhiều tiền của trong các phi vụ làm ăn này.
Tuy nhiên, nguồn tin khác cho rằng nhờ giao thiệp rộng, lại nhanh nhạy với việc làm ăn buôn bán nên ông Phương đã gầy dựng, mở mang các mối làm ăn thông qua các chuỗi cửa hiệu trong vùng Chợ Lớn.
Ông Phương có người vợ họ Trần (không rõ tên) là con của một viên tri phủ miền Trung. Bà là người rất giỏi giang trong việc quán xuyến nhà cửa và buôn bán. Nhà có hơn 2.000 mẫu ruộng do Toàn quyền Doumer cho khẩn trưng ruộng đất, bà vợ không chỉ lo việc cai quản, thu hoa lợi từ ruộng đất mà còn điều hành hệ thống buôn bán, phân phối hàng hóa cả ngàn cửa hiệu trong vùng. Hai vợ chồng “song kiếm hợp bích”, chồng ngoại giao mở mang, vợ tề gia, tiền đẻ ra tiền,
alt
đến mức thiên hạ đồn gia đình có gia nhân chuyên cho việc đếm tiền vì tiền thu vào nhiều quá, bà vợ không thể đếm xuể.
Nhớ đến nguồn gốc Minh Hương của mình, Đỗ Hữu Phương đã xây dựng nên Nghĩa Nhuận hội quán trên đường Gò Công. Ông Phương cũng đã bỏ tiền xây dựng Trường Collège de Jeunes Filles Indigènes tức Trường nữ Trung học Sài Gòn, sau này gọi là Trường Áo Tím, Gia Long, nay là Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai.
Ngoài ra ông ta cũng bỏ nhiều tiền tu bổ rất nhiều chùa chiền miếu mạo quanh vùng nên được dân chúng ghi công. Dọc theo kinh Chợ Lớn có một cây cầu gọi là cầu Ông Lớn. Ông Lớn đây chính là Đỗ Hữu Phương, theo lý giải của nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển. Hồi đó người dân không gọi bằng tên thật. Cũng như sau này ngôi từ đường thờ người vợ rồi trở thành từ đường của dòng họ, được gọi là đền Bà Lớn.

Phong lưu cuối đời

Danh vọng và tiền bạc đều có đủ, Đỗ Hữu Phương sống phong lưu, thụ hưởng. Ông nhiều lần sang Pháp du ngoạn, đi thăm thú thủ đô nhiều nước châu Âu và đi vòng quanh thế giới..
alt
Trong danh sách các hành khách đi tàu Anadyr từ Sài Gòn đến Marseille ngày 29-4-1889 có tên ông cùng với hai người con. Điều này chứng tỏ ông tham dự Hội chợ kỷ niệm 100 năm cách mạng Pháp và sau này góp phần tổ chức khu triển lãm Đông Dương ở Hội chợ quốc tế Paris năm 1900.
Đỗ Hữu Phương sống trong một tòa nhà được xem là to nhất nhì Sài Gòn, nằm trên bờ kênh Xếp (sau này lấp thành đường gọi là đường Tổng đốc Phương, nay là Châu Văn Liêm). Bề ngoài nhà kiểu Tây nhưng bên trong nội thất theo kiểu Việt và Trung Hoa.
Bá tước Pierre Barthélemy kể lại khi được viếng thăm : “Nhà ông là một sự pha trộn lạ kỳ giữa Âu và Á. Sân trong thiết kế theo kiểu Trung Hoa, chung quanh sân là các phòng kiểu An Nam mà một phòng salon ở tận trong rất đáng chú ý. Đối diện với salon này là một biệt thự kiểu Âu. Bàn thờ trong phòng salon An Nam này là một công trình tuyệt diệu nổi tiếng, bàn thờ được cẩn xà cừ. Những cột nhà làm bằng gỗ teck rất quý, trụ mái nhà của phòng salon này trông rất thanh tao và trên một bàn làm bằng gỗ quý là những chai rượu absinthe, amer Picon và những sản phẩm của Pháp khác. Ông Phủ thích đãi khách các đồ ăn đặc biệt và ông ta cũng biết thưởng thức các loại rượu của chúng ta. Nếu phải diễn tả hết tất cả sự giàu sang của nội thất An
Nam alt
này thì phải viết rất nhiều trang giấy…”.
Bá tước Pierre Barthélemy cũng kể về bữa ăn đặc biệt với những món ăn Tây, Việt và Trung Hoa, trong đó ông được đãi món đuông dừa vô cùng ấn tượng.

Đỗ Hữu Phương còn được biết đến như một người giao thiệp rộng, hiếu khách, hào phóng và sành điệu mà chính Toàn quyền Paul Doumer cũng phải kể lại trong hồi ký về Đông Dương : “Ông Phủ ở Chợ Lớn tiếp khách người Âu trong nhà ông, mời uống rượu Champagne và bánh petits beurres de Nantes, cho khách xem một vài sản phẩm đặc thù lạ kỳ của người An Nam và tổ chức theo sự đòi hỏi, ước muốn của khách, xem một tuồng hát của người bản xứ (hát bội)…”.

Trong nhà mình, ông Phương có xây cả một rạp hát bội nhỏ để chiêu đãi khách khứa. Ông thường đến nhà hàng, khách sạn Continental ở Sài Gòn và Café de la Paix, nơi gặp gỡ của các bạn bè Pháp-Việt thượng lưu trí thức để giao lưu. (theo Dân Việt)