Tony Nguyễn
(Chuyển thành văn vần từ tác phẩm cùng tên của Phạm Tín An Ninh.
N.Y.C. July 25, 2011)
(Văn Xuôi – Đọc tại đây => Ở Cuối Hai Con Đường)

Những ngày “cải tạo” ở miền Bắc,
tôi vẫn thường chuyển đổi trại hoài.
Lúc đầu ở mút tận Lào Cai,
sau Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh.
Đến Hoàng Liên Sơn, tôi được chuyển
về trại Hang Dơi, trong núi sâu.
Vùng nước độc nên hai năm sau,
hơn hai chục bạn tù nằm lại
bên sườn đồi vùi chôn mãi mãi.
Sau thời gian đó, tôi chuyển về
trại Sáu, Nghĩa Lộ nằm gần kề
với Ban chỉ huy của Tổng trại –
cách một hàng rào và mấy cái
hồ nuôi cá sát với trại Năm,
nơi giam ba chục tướng miền Nam.
Ban ngày, khi đi làm ngoài trời,
chúng tôi đã gặp lại vài người
trước đây từng là chỉ huy cũ,
nay tha hồ chuyện trò đủ thứ.
Ngày nhập trại, khi “biên chế” xong,
cán bộ trại liền dẫn vào trong
một chiếc lán nền đất, lợp nứa.
Chúng tôi gồm hơn năm chục đứa
chờ gặp “cán bộ quản giáo” mình.
Vài phút sau có một thương binh,
cánh tay cụt, mang lon Thượng uý.
Nhìn anh ta, chúng tôi suy nghĩ:
– Đây là dịp đòi nợ máu đây,
biết trả sao cho đủ vụ này?
Nhưng bất ngờ khi vừa bước đến,
thấy anh nở nụ cười trên miệng
và nét mặt có vẻ hiền khô,
lòng chúng tôi cảm thấy bớt lo.
Bằng giọng nói Nghệ Tĩnh đặc sệt,
anh quản giáo giới thiệu cho biết
tên của anh là Nguyễn Văn Thà.
Anh giải thích nội quy đề ra,
xong yêu cầu khai tờ lý lịch.
Những điều này chúng tôi thuộc hết,
nên cầm lên ai nấy viết liền.
Bỗng tiếng anh quản giáo vang lên:
– Trong này ai Sư đoàn 23?
Tôi thoáng sợ nhưng phải nói ra:
– Thưa cán bộ tôi Sư đoàn ấy.
– Vậy hồi đó anh Trung đoàn mấy?
– Tôi thuộc Trung đoàn Bốn mươi tư.(44).
– Trận đánh Trung Nghĩa anh về chưa?
Ở Kontum mùa Hè rực lửa,
một chín bảy hai, chắc anh nhớ?
– Vâng, tôi từng tham dự trận này.
Anh quản giáo vừa nghe đến đây,
liền giơ cánh tay cụt một nửa:
– Tôi đã bị thương trong trận đó.
Các anh em trong trại mọi người
ai cũng quay mặt về phía tôi.
Để cố sức lấy lại bình tĩnh,
tôi hỏi đại một cách liều lĩnh:
– Lúc ấy cán bộ đơn vị nào?
Nghe tôi hỏi cả trại nhìn nhau,
họ e rằng tôi bị kiểm điểm,
nhưng anh quản giáo cười thân thiện.
Nhìn mọi người, anh trả lời rằng:
– Tôi đang ở Trung đoàn Xe tăng,
Sư đoàn Ba Hai Mươi (320), Bắc Việt.
Anh lại nhìn một vòng rồi tiếp:
– Trận ấy đơn vị thua tả tơi.
Nguyên tiểu đoàn xe tăng của tôi,
chỉ còn lại hai xe thoát mạng.
Chiếc T54 tôi hỏng nặng,
đạn trong xe nổ, tôi bị thương;
kịp thoát ra vội trốn vô rừng,
đang chờ chết, không may bị bắt.
Các anh băng bó sau chở gấp,
về quân y viện Pleiku;
nhờ vậy tôi còn sống đến giờ .
Sau Hiệp định 1973,
trao trả tù binh, tôi được ra.
…
Dạo đó, miền Bắc, Hoàng Liên Sơn,
trời lạnh buốt, gió rít từng cơn;
mỗi lán đào một hầm ở giữa,
cứ mỗi tối đốt lên đống lửa,
chúng tôi ngồi sưởi ấm bên nhau.
Cán bộ quản giáo đến đổi trao
không phải bàn chuyện gì to lớn,
anh chỉ nhắc mấy điều đơn giản:
– Rán giữ gìn sức khỏe mỗi ngày,
đừng làm gì vi phạm không hay
để vệ binh nặng lời mắng nhiếc.
Sĩ quan miền Nam, theo tôi biết,
là những người đều có học hành.
Tôi đau lòng khi thấy các anh
bị đối xử cộc cằn, thô lỗ.
Mùa Đông, thường hoa màu chẳng có;
bụng chúng tôi ai nấy đói meo;
một mẩu bánh mì bé tẻo teo,
lưng chén bắp cứng như đá sỏi.
Ở mất vệ sinh, nhà chật chội,
nhiều trại viên kiết lỵ kéo dài.
Một chiều Đông mưa gió bên ngoài,
chúng tôi ngồi co ro trong lán,
miệng nhai bắp, lòng buồn ngao ngán;
nhìn ra xa cánh đồng mưa rơi,
có bóng người đang mặc áo tơi,
cúi lom khom bước lui, bước tới,
cứ quẩn quanh đến khi trời tối.
Đêm hôm đó, cũng như mọi hôm,
quản giáo Thà xuống lán bình thường;
anh ghé tai nói cùng đội trưởng:
– Có giỏ cá để sau mé ruộng;
trước khi ngủ, anh nhớ mang vào
nấu cháo bồi dưỡng những người đau.
Nhớ giữ kín đừng cho ai biết!
Bây giờ anh em đều hiểu hết,
kẻ đặt lờ ngoài ruộng là ai.
Chính người tìm bắt cá chiều nay,
là quản giáo Thà. Thật cảm động!
Nhớ buổi sáng mùa Xuân, gió lộng,
quản giáo Thà đưa cả đội đi
lên ngọn đồi phủ kín khoai mì.
Sắn đầu mùa, củ tuy còn nhỏ,
anh chỉ chúng tôi cách đào củ,
làm thế nào giữ sống phần thân.
Rồi chỉ cách đào bếp “Hoàng Cầm”,
luộc chín sắn mà không thấy khói.
Lần duy nhất, chúng tôi hết đói.
Anh đích thân đứng gác đằng xa
phòng có bóng người lạ ghé qua
sẽ báo động mọi người đối phó.
Chúng tôi không biết cuối ngày đó,
anh đã lấy gì báo cáo lên,
thành quả công tác với cấp trên?!
Thường thì những ngày đi lao động,
anh luôn dặn chúng tôi cách sống:
– Anh em làm việc vừa sức thôi,
khi nào mệt thì hãy nghỉ ngơi.
Nhớ sức khỏe phải luôn gìn giữ,
thời gian cải tạo còn lâu nữa.
Một kỳ Tết, giấy phép trong tay,
anh không về, ở lại trại này.
Số tiền lương cuối năm lãnh được,
anh mua kẹo và cả thuốc hút,
biếu anh em có một Tết vui.
Anh ngồi tâm sự với chúng tôi:
– Lần bị thương bảy hai (1972) năm ấy,
vết thương tôi sưng tấy, đau nhừ.
Một mình trong rừng rậm âm u,
không có chút đồ ăn, thức uống.
Trong phút giây mong chờ tuyệt vọng,
một đơn vị Sư đoàn 23,
đang trên đường truy đuổi ngang qua,
phát giác ra tôi và băng bó,
cho ăn uống như người của họ.
Các anh luân phiên cáng tôi ra,
từ rừng rậm đến chỗ khá xa,
rồi dọn bãi đáp chờ cấp cứu.
Trời tối, máy bay tìm chỗ đậu,
bị lộ mục tiêu, pháo nả vào,
may là mọi người đều không sao.
Sau đó đoàn quân phải di chuyển,
vào trong rừng tránh cơn nguy hiểm.
Quanh đây có khe núi an toàn,
các anh ưu tiên cho tôi nằm,
rồi phân tán tìm nơi trú ẩn.
Hai y tá săn sóc cẩn thận,
suốt cả đêm túc trực kề bên.
Người chỉ huy, tôi chẳng biết tên,
anh trung úy, mặt còn rất trẻ,
mấy lần đến bên tôi, nhỏ nhẹ,
chỉ hỏi thăm sức khỏe, khuyên lơn;
bảo tôi cần cố gắng nhiều hơn,
hôm sau sẽ đưa đi cứu chữa.
Bao thuốc lá chỉ còn phân nửa,
anh bảo tôi hút để quên đau.
Máy bay cứu thương sáng hôm sau,
đến rất sớm đưa tôi về kịp
quân y viện Pleiku thật tuyệt.
Các bác sĩ rất đỗi tận tình,
dù tôi nằm ở một khu riêng,
ai cũng coi như người đồng đội.
Có lần phái đoàn vào thăm hỏi,
ủy lạo quà, an ủi chân thành.
Khi vết thương tôi đã đủ lành,
lệnh trao trả tù binh cũng lúc.
Ngày chia tay, tôi nhiều cảm xúc,
bệnh viện cấp thuốc lẫn đồ dùng.
Tôi nghẹn ngào không thể hình dung,
tình con người, tình người chung nước,
các anh dành cho tôi quá mực.
Tình cảm ấy tôi dễ nào quên,
nhưng làm sao miệng dám nói lên
vì vợ con, mẹ già còn đó,
tôi mong ngày trở về với họ.
Anh cố giữ giọng mình bình tĩnh
nhưng có gì nghèn nghẹn giấu kín.
Một bạn tù hỏi: “Về quê xong,
rồi mọi người tin tưởng anh không?”
– Ngay sau ngày tôi được trao trả,
thứ các anh cho, tôi vứt cả;
chỉ giấu một ít thuốc trụ sinh,
phòng sau này chữa bệnh gia đình;
nhưng thấy họ lục tìm ráo riết,
tôi đành tìm cách vứt đi hết.
Trước khi đưa về đây tận nơi,
chúng tôi học tập hơn tháng trời;
làm thu hoạch, kiểm tra, kiểm điểm,
và lên án âm mưu nguy hiểm,
tàn ác, thâm độc của các anh.
Nói điều ngược lại thật chẳng đành,
nhưng rồi ai cũng làm như máy;
điều này làm tôi luôn áy náy,
lương tâm dằn vặt mãi tới nay.
Thời gian vàng son tựa gang tay,
sáu tháng ở trại Sáu, Nghĩa Lộ.
Một sớm mai trời chưa sáng rõ,
có bóng người xe đạp đàng xa,
từ ban chỉ huy trại bước ra,
sau xe chiếc rương bằng gỗ nhỏ,
túi đeo vai bộ đội trên đó.
Vài anh em nhận rõ anh Thà,
vừa thức dậy, cả đội ùa ra,
mọi người đưa tay lên vẫy vẫy.
Anh Thà không dám quay người lại,
chỉ đưa lên trời nửa cánh tay,
vẫy chào, đạp xe rời trại ngay.
…
Chuyến vượt biển trên con thuyền nhỏ,
trong số ba chục người năm đó,
tôi và ba tù Nghĩa Lộ xưa.
đến hải phận quốc tế cũng vừa,
cơn bão dữ bất ngờ ập đến.
May mắn thay trong giờ nguy biến,
một tàu dầu Vương quốc Na-uy,
hải trình từ Nhật Bản đang đi,
về Singapore gặp, cứu kịp.
Hai ngày đêm trên tàu thật tuyệt,
tưởng như đang gặp được thiên đường.
Mọi người rất tử tế, dễ thương,
từ bác sĩ, nhân viên, thủy thủ.
Hôm rời tàu vào trại tạm trú,
ở đảo quốc đẹp Singapore,
biết mình đã đến xứ tự do,
cả thủy thủ đoàn ra đưa tiễn,
xếp hai hàng trên con tàu biển,
họ ôm chúng tôi khóc ngọt ngào.
Ân tình này quên được dễ sao?!
Rồi tới những ngày trong trại nữa,
các thầy cô và ông đại sứ,
nước Na-uy thường đến chăm lo,
chúng tôi trong xúc động đắn đo:
Mình bị người anh em bạc đãi,
trong cùng cực liều thân trốn chạy,
cái chết rình kẻ tóc, chân tơ;
những người xa lạ kia ai ngờ,
lại hết lòng cưu mang, đùm bọc.
Ân nghĩa ấy ghi trong tim óc.
Chúng tôi từ đó sống Na-uy.
Bốn bạn tù Nghĩa Lộ xưa kia,
được sắp xếp ở gần khu vực.
Mỗi lần gặp nhau gợi ký ức
những tháng năm tù tội trải qua.
Đặc biệt khi nói tới anh Thà,
mỗi chúng tôi ngậm ngùi nghĩ đến:
Một người lính không cùng chiến tuyến
có tấm lòng nhân ái tuyệt vời.
Sau lần “hạ tầng công tác” rồi,
rời Nghĩa Lộ, anh về đâu đó
hẳn bây giờ đang nhiều khốn khó.
Sau hai năm theo học chuyên môn,
tôi vào làm Bưu điện trung ương
quen Kenneth Hansen còn trẻ,
bạn đồng nghiệp – nhà anh gần kế.
Sau này chúng tôi rất thân nhau.
Anh đang học kinh tế cấp cao,
Bưu điện ngân hàng là việc nhỏ.
Làm chung gần nửa năm, sau đó,
anh chuyển qua Ấn Độ làm luôn,
trong chi nhánh công ty lớn hơn.
Bẵng vài năm, một hôm anh gọi,
báo tin sẽ đến thăm sắp tới,
hứa mang theo một sự bất ngờ.
Hôm anh đến, quả đúng y như,
cùng theo anh là cô gái Việt.
Anh giới thiệu vợ chồng tôi biết,
đó là vị hôn thê của mình.
Cô gái tên Đoan, người khá xinh,
giọng Hà Nội, tính nết đằm thắm.
Gặp đồng hương cô vui mừng lắm,
nhưng khi nhìn tấm ảnh trên bàn,
thấy tôi mang quân phục sĩ quan,
của Việt Nam Cộng Hòa thời đó,
ánh mắt cô e dè thấy rõ;
biết vậy, tôi cố tạo tự nhiên.
Cô cho biết hồi còn sinh viên,
bạn ca sĩ Ái Vân, Hà Nội;
cuộc đời cô cũng nhiều biến đổi,
học Đông Đức, Liên Xô sáu năm,
rồi sau qua Ấn Độ tập làm –
chính nơi đây quen chàng ngoại quốc,
người hiện đang là chồng chính thức.
Thật ra trước cô đã có chồng,
và có một con trai đầu lòng.
Chồng cùng qua Liên Xô học tập,
sau này thành cán bộ cao cấp,
trong ngành dầu khí ở thủ đô.
Theo lời kể từ chính miệng cô,
sau khi trở về từ Ấn Độ,
bạn bè và người thân thổ lộ,
thấy anh chồng bồ bịch nhiều lần,
khi cô qua Ấn Độ vài tuần.
Cô đem việc trình bày phải trái,
anh không nghe mà còn ngược lại,
đánh đập và chửi bới tục tằn.
Cô buồn, bỏ chồng, trở ngược sang
học tiếp Tiến sĩ bên Đông Đức.
Từ sau khi bức tường ô nhục,
bị nhân dân Đức phá sập xong,
nước Đông Đức bỗng chốc không còn;
cô vội trốn qua bên Tây Đức.
Sau một thời gian mất tin tức,
cô liên lạc Kenneth Hansen.
Cũng nhờ trước đó đã thân quen,
cô qua Na-uy đường bảo lãnh.
Tôi biết cô gia đình gốc mạnh,
đảng cấp cao, học nhiều nơi rồi
chỉ trong các nước cộng sản thôi;
nhưng không hỏi vì e cô ngại.
Sau Kenneth Hansen kể lại,
bố cô làm đại sứ Liên Xô;
sau này sụp đổ khối Đông Âu,
ông nhận ra một điều gì đó.
Về nước, đảng “vắt chanh bỏ vỏ”
ông thành người bất mãn cô đơn,
chỉ ra vào khung cửa, góc vườn.
Sau khi Na-uy cấp quốc tịch,
cô Đoan trở về thăm nước Việt.
Đặc biệt là ông bố bệnh nguy;
sẵn mang con trai qua Na-uy.
Việc cô Đoan trở về Hà Nội,
gợi trong tôi những ngày tù tội;
nhớ đến anh quản giáo tên Thà,
bốn chúng tôi góp ít tiền quà
nhờ cô Đoan chuyển về Nghệ Tĩnh
gọi là chút ân tình nghĩ đến,
một đóa sen đẹp giữa bùn nhơ.
Tin về anh chỉ rất đơn sơ:
“Nguyễn Văn Thà, gốc người Nghệ Tĩnh
vào khoảng năm 1979,
là Thượng Úy quản giáo trại giam
trại 6, Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn.”
Cô Đoan hứa tìm hộ việc đó
và cho biết có ông chú họ
làm chức cao ở Bộ quốc phòng;
khi về nước sẽ đến nhờ ông.
Về lại Na-uy một tháng sau,
cô báo tìm chẳng thấy chỗ nào
tên Nguyễn Văn Thà trong danh sách.
Ông chú cô đoán đã bị gạch,
có thể do phục viên lâu rồi.
Cô từng vào Nghệ Tĩnh xa xôi,
hỏi khắp không cơ quan nào biết.
Cuối cùng nhờ báo địa phương viết,
nhờ nhắn tin về điện thoại tôi.
Cô nói đã làm mọi cách rồi,
nhưng hy vọng vẫn là rất nhỏ;
vì dân chúng ở vùng nghèo đó,
số người đọc báo thật hiếm thôi.
Dòng thời gian vẫn tiếp tục trôi,
việc làm ăn, việc học con cái
để hội nhập quê hương hiện tại,
chúng tôi dần ít nhắc anh Thà.
Rồi một lần vào khoảng cảnh ba,
điện thoại reo buộc tôi tỉnh giấc.
Giờ khuya sớm châu Âu vùng Bắc,
nhiệt độ âm hai mươi bên ngoài. (-20 độ C)
Tôi ái ngại, người gọi giờ này,
chắc phải có chuyện gì gấp lắm?!
Bốc ống nghe, tiếng ai rất nặng,
cô gái Việt Nam đang gọi tôi,
giọng hối hả, lễ phép mở lời:
– Cháu là Nguyễn Thị Hà đây. Dạ,
cháu đang ở Ba Lan bác ạ.
Tôi lục trong ký ức một hồi.
Chắc cô ta gọi lộn số rồi!
Bên kia đầu giây cô vẫn nói,
nhắc đúng tên tôi hai lần gọi:
– Bác có nhớ ông Nguyễn Văn Thà?
Hồi trước làm quản giáo đó mà.
– À, ông Thà, bác còn nhớ rõ,
nhưng cháu là gì của ông đó
và tại sao đang ở Ba Lan?
Cô gái sụt sùi giọng thở than:
– Cháu là con của bố Thà ạ,
cháu và em trai qua đây cả.
Chúng cháu đang khổ quá bác à!
– Thôi để bác sẽ gọi ngược qua,
cháu cho số phôn rồi cúp máy!
Tôi gọi lại và nghe cô gái,
kể ra bao tâm sự não nề:
Cô và em trai,Tĩnh, ở quê,
được bố mẹ chạy xuôi, chạy ngược,
bán luôn chiếc xe đạp Trung Quốc,
thứ quý như gia bảo bố cô,
vay mượn thêm tìm đủ cách lo,
cho hai chị em đi lao động
qua Ba Lan với nhiều hy vọng.
Khi cộng sản sụp đổ nhiều nơi,
chị em cô cũng như mọi người,
không về nước tìm cách sống lậu.
Vì mưu sinh họ thành người xấu,
lập đảng băng, cướp bóc, tống tiền;
thành mối bận tâm của chính quyền,
số người Việt Đông Âu đáng sợ.
Chị em cô thuê gác nhỏ ở,
vùng Warsaw kiếm sống qua ngày,
quấn thuốc lá, mua bán sang tay.
Tiền dành dụm từng đồng cắc một,
chưa kịp gửi về, bị trấn lột.
Một hôm em trai bán đồ gian,
thứ ăn cắp cửa tiệm Ba Lan;
cậu đã lọt vào tay cảnh sát,
bị nhốt vô tù ngay tức khắc.
Riêng cô Hà đang bị nã truy,
việc xảy ra một ngày trước khi,
cô Hà gọi cho tôi điện thoại.
– Cháu đang ở đâu ngay hiện tại?
– Dạ trốn nhà đứa bạn vùng bên,
nhưng nó bảo cháu phải đi liền.
Cháu chẳng biết cách gì xoay xở,
chợt nhớ lại lá thư của bố
đã gửi qua vài tháng trước đây.
Bố bảo gặp trường hợp thế nầy,
mới nhờ bác chỉ đường, mách lối.
– Ba cháu đang làm gì? Xin lỗi!.
– Bị ốm hai năm rồi bác ơi,
vỡ mạch máu não, liệt nửa người;
hiện ông chỉ nằm yên một chỗ.
Chúng cháu trốn lại đây xoay xở,
kiếm tiền gửi nuôi bố qua ngày.
Tôi ghi hết vào quyển sổ tay
địa chỉ nhà bạn cô đang trú,
tên nhà tù Tĩnh đang bị giữ
và tìm lời khuyên nhủ, ủi an.
Tôi nhớ tới anh bạn Ba Lan,
Zbigniew Piwko quen lúc trước,
khi mới đến Na-uy cùng lượt.
anh hơn tôi ba tuổi, rất thân.
Trước đây là Đại tá Không quân,
chỉ huy một không đoàn chiến đấu
thuộc cộng sản Ba Lan hùng hậu.
Anh ngầm ủng hộ Walesa,
hành tung này sau bị lộ ra;
trốn truy bắt, anh tìm cách thoát.
Sẵn một chiếc trực thăng anh đáp,
chở gia đình một vợ hai con,
qua Tây Đức để được an toàn.
Sau nước Na-uy cho tị nạn,
nhờ đó chúng tôi thành bè bạn,
học tiếng Na-uy chung lớp nhau.
Anh, tôi, một thời gian về sau,
cùng thông dịch cho Sở Cảnh Sát.
Tình hình Ba Lan ngày một khác,
công đoàn Đoàn Kết Walesa
giành thắng lợi lãnh đạo quốc gia.
Walesa thắng phiếu bầu cử,
thành Tổng thống Ba Lan dân chủ.
Piwko được mời về quê anh
nhận chức vụ khá lớn trong ngành
Cảnh sát An ninh Ba Lan mới.
Vào dịp Giáng Sinh luôn nhớ tới,
anh gửi tôi tấm thiệp chúc mừng,
kể rất nhiều câu chuyện quê hương,
một Ba Lan tràn trề hy vọng.
Sau tấm thiệp không còn chỗ trống,
kèm tâm tình viết kín vài trang.
Anh mời vợ chồng tôi qua thăm,
để được thấy Ba Lan hồi phục.
Sáng hôm sau tôi ngồi lùng sục
tìm số điện thoại của Piwko.
Nghe tiếng tôi gọi đến bất ngờ,
và báo sẽ đến thăm vài bữa,
anh được tin vô cùng mừng rỡ;
vì việc gấp, đi chỉ mình tôi.
Vợ chồng anh ra đón tận nơi,
chỗ tiếp khách dành riêng đặc biệt. (VIP)
Hai anh chị còn cho tôi biết,
thật là điều thích thú lạ kỳ
khi được dịp nói tiếng Na-uy.
Tôi xúc động về sự niềm nở,
nhưng ngại ngùng khi nhờ giúp đỡ.
Cuối cùng tôi vẫn phải tâm tình,
về thời gian tù tội của mình.
Chuyện anh Thà những ngày trong trại,
hoàn cảnh các con anh hiện tại
ngay trên đất nước Ba Lan nầy.
Piwko ngậm ngùi sau ít giây,
rồi đứng lên ôm vai tôi hứa,
vụ này sẽ hết lòng giúp đỡ.
Anh theo tôi đến chỗ bạn Hà,
đưa cô Hà về ở trong nhà;
hai hôm sau làm tờ bảo lãnh,
cho đứa em trong tù, tên Tĩnh.
Trước khi lên máy bay về nhà,
tôi thức đêm với chị em Hà
vừa để tâm tình, vừa khuyên bảo;
đưa một ít tiền cho hai cháu,
tạm tiêu xài và tặng anh Thà.
Trên chặng đường đưa tiễn tôi ra,
vợ chồng Piwko luôn hứa sẽ
coi hai cháu như là con đẻ.
Hơn tháng sau Piwko cho hay
anh chị bảo trợ hai cháu này;
chúng đã được chính thức cư trú.
Hiện hai cháu đang học ngôn ngữ,
tiếng Ba Lan cần một thời gian.
Hà lớn tuổi nên sẽ đi làm,
Tĩnh, em Hà, học trung học tiếp.
“Các anh thân quý, Khi ngồi viết
những dòng này gửi cho các anh,
thực tình tôi không nhớ lạ quen,
nhưng tôi vẫn còn nhớ rất rõ
thời làm quản giáo trại Nghĩa Lộ.
Vậy mà không ngờ tới hôm nay
các anh còn nhớ tôi thế này.
Đọc thư Ba Lan của con gái
cùng số tiền các anh góp lại
lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào.
Gia đình tôi cảm tạ dường bao.
Điều làm tôi nhớ câu Các Mác:
“Quay lưng trước cảnh khổ người khác,
chỉ có súc vật mới vậy thôi.”
Ngày nay, Mác bị lên án rồi,
những nơi chọn Mác làm ngọn đuốc,
họ đã bỏ không còn một nước,
chỉ vài nơi còn làm bình phong
để che cái mục nát bên trong;
nhưng dẫu vậy, câu trên của Mác,
với tôi vẫn là câu tâm đắc.
Mừng cho các anh và những ai
đã đưa gia đình ra nước ngoài.
Mặc dù việc lìa xa đất tổ
là một điều vô cùng đau khổ.
Ngay cả con cái chúng tôi này,
vất vả lắm, vẫn cố xở xoay
ra nước ngoài tìm cách kiếm sống
tương lai may còn chút hy vọng
sống cho ra một con người thôi.
Tôi sau khi kiểm điểm xong rồi
từ Nghĩa Lộ điều ra mặt trận
thời kỳ Trung Quốc đang gây hấn
theo lệnh của ông Đặng Tiểu Bình.
Nhờ cụt một tay, là thương binh
tôi ở hậu cần làm việc vặt
nên mạng sống may mắn được thoát.
Mặt trận kết thúc, bị phục viên,
tôi được phụ cấp chút ít tiền
nuôi bản thân mình thôi không đủ.
Một cánh tay, tôi làm đủ thứ,
phát rẫy trồng rau phụ giúp nhà.
Bị ốm nặng đã ba năm qua,
nhờ chị em Hà gửi về giúp,
gia đình có chút lo cơm thuốc
nên tôi còn sống đến hôm nay.
Trốn lại Ba Lan, trắng đôi tay,
biết rằng hai cháu sẽ rất khổ,
nhưng vẫn hơn quay về đất tổ,
làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn.
May nhờ hai cháu được các anh
đã tìm bằng mọi cách giúp đỡ.
Chúng tôi trong lòng chỉ mãi nhớ
biết bao giờ trả được ơn này.
Tôi biết không còn sống bao ngày,
cuối đời đã nghiệm ra một thứ:
Chỉ tình người với nhau thực sự
mới quý hóa vượt cả thời gian.
Những chủ nghĩa này nọ tràn lan
chỉ như đám mây che đen tối.
Đôi khi chiếu chút tia le lói,
nhưng lắm khi bão tố tràn lan
đổ xuống gây khốn khổ nhân gian…”
Tony Nguyễn (Chuyển thành văn vần.)
NY, Oct 23, 2012