Chương 25
Cuộc Tuyệt Thực
Hai ngày đầu tiên ở trại Tân Lập là hai ngày nghỉ ngơi! Chúng tôi tụ tập nhau để hát nhạc vàng, ăn trưa và tối, tắm giặt và đi rong trong khu A. Chúng tôi không thể ra khỏi khu được vì họ đóng cửa, nhưng chúng tôi có thể đi qua các nhà trong khu để gặp nhau. Cơm nước thì được những phạm nhân hình sự làm trong nhà bếp mang đến nơi. Có vài phạm nhân hình sự làm trong Ban Thi Đua, nhưng họ chỉ đứng ngoài quan sát chúng tôi mà thôi.
Ngày chúa nhật 24 tháng 7 năm 1977, những sinh hoạt hàng ngày của chúng tôi diễn tiến như thường lệ sau khi cửa phòng giam được hai cán bộ đến mở ra, một cán bộ vũ trang và cán bộ trực trại. Trong lúc tôi cùng Tuân, Hạnh và Lộc đang ngồi uống trà tại chổ nằm thì nghe tiếng ồn ào ở ngoài sân. Một nhóm trại viên la hò cổ võ cho việc đánh nhau. Vài thanh niên trong nhóm “Phục Quốc” đánh Thượng, một trại viên thuộc nhóm “tình báo”. Chúng bảo rằng Thượng có thái độ rất là hèn hạ khi nói chuyện với cán bộ trực trại mà lại khoanh tay lại. Kết quả của trận đánh ấy là tay của Thượng bị gãy! Tôi thì không thấy thái độ của Thượng sáng nay ra thế nào, và cũng không biết Thượng có phải là ăn ten hay không dù anh ấy đã ở cùng trại với tôi ngay từ lúc đầu. Thượng không phải là bạn thân của tôi, và anh ta chỉ là một trại viên bình thường như nhiều trại viên khác chọn thái độ “nín thở qua sông” để sống trong trại. Nếu quả thật anh ta có khoanh tay khi nói chuyện với cán bộ trực trại thì tôi nghĩ đó cũng chỉ là một thói quen khi thời tiết miền bắc đang lạnh mà thôi. Những thanh niên “Phục Quốc” là những người yêu nước, tôi không phủ nhận điều này, nhưng họ còn quá trẻ để hiểu biết mọi việc. Sự chống đối VC lại đổ lên đầu của Thượng, đó là một điều rất bất công.
Các cán bộ và ban thi đua vào mang Thượng đi bệnh xá và đóng cửa ở các bức tường ngăn cách các nhà với nhau trong khu A. Trại viên bắt đầu tập họp trong các phòng giam, và tôi nghe giọng đồng ca bản nhạc “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” vang lên từ nhà số 2, đó là bài ca tâm lý chiến thường được hát trong những dịp tranh đấu. Vài trại viên từ phòng 2 sang yêu cầu Uyển và Bình tham gia vào. Trong phòng 1 nơi tôi đang ở có khoảng một trăm trại viên chia làm hai đội: đội một và đội hai. Uyển, trại viên từ khu D của trại Thủ Đức làm đội trưởng đội 1 và Bình từ khu C của trại Thủ Đức là đội trưởng đội 2. Ngoại trừ những trại viên đang tắm giặt ở hồ nước, các trại viên còn lại trong phong đều tụ họp nhau và bắt đầu ca nhạc vàng và nhạc tranh đấu.
Khoảng mười giờ, bốn cán bộ vũ trang đi cùng cán bộ trực trại vào khu A để dẫn vài trại viên lên hội trường. Đó là những người đã đánh Thượng vào sáng nay như Tri, Long, Bình, Dũng, và vài người khác mà tôi không nhớ tên. Sau một lúc thì họ thả Long và Dũng về, số còn lại thì đưa đi K1 để biệt giam. Vài người sau này đã chết ở đó, số còn sống thì cũng rất tang thương.
Bửa ăn trưa được các phạm nhân hình sự mang đến phòng ăn như thường lệ, nhưng tôi nghe ai đó ra lệnh không được ăn. Tôi không biết ai đã ra lệnh này, và chẳng trại viên nào dám đi vào phòng ăn vì ai cũng sợ bị đánh như Thượng sáng này! Có lẽ đó là lần đầu tiên mà VC chứng kiến cảnh ấy trong trại. Những cán bộ vũ trang đi chung quanh khu A nhưng không vào trong. Cán bộ trực trại thì vào hỏi Uyển về tình hình đang diễn biến. Vài người lên tiếng yêu cầu thả những người bạn của họ trước khi họ ăn cơm. Cuộc tuyệt thực bắt đầu!
Bài ca “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” được lập đi lập lại nhiều lần và bắt nhịp bởi những tiếng vỗ tay tạo nên một nhịp điệu kích động. “Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người…Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian!” Cái không khí quen thuộc này tôi đã từng nhìn thấy trong những buổi xuống đường của sinh viên được giật dây bởi VC trước kia nay lại đang diễn ra trong một trại cải tạo của VC. Quả là gậy ông đập lưng ông! Ngay cả những bài như “Dậy Mà Đi” hoặc “Tự Nguyện” của VC cũng đã trở thành một vũ khí tranh đấu chống lại chúng. “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại, ai nên khôn mà không khốn một lần”, hoặc “Nếu là người, tôi xin chết cho quê hương”. Những lời ca này lại trở thành đúng lúc hơn lúc nào hết.
Tuân, Hạnh, Lộc và tôi ngồi tại chỗ của chúng tôi để uống trà tham gia cuộc tuyệt thực! Bữa ăn chiều không được mang vào và phần ăn trưa thì vẫn nằm nguyên trong nhà ăn. Vào khoảng 6 giờ chiều, cán bộ trực trại và cán bộ vũ trang vào điểm buồng giam như thường lệ. Chúng tôi không đứng ngoài sân để điểm mà ngồi tại chỗ để đếm số thứ tự. Nhạc vàng và nhạc tranh đấu lại được cất lên cho đến nửa đêm mặc dù đèn điện đã tắt sớm hơn mọi ngày. Chúng tôi thay phiên nhau hát. Tôi không thuộc nhiều nhạc, do đó tôi đã ca một bản nhạc tiền chiến tên là “Ghen”. Đó chỉ là bản tình ca. Khoảng nửa đêm, chúng tôi chui vào mùng ngủ vì muỗi quá nhiều. Tôi chìm vào giấc ngủ mệt mỏi với cái dạ dày trống rỗng.
Cuộc tuyệt thực bắt đầu một cách ồn ào và rồi chấm dứt trong lặng lẽ.
Cộng Sản đã cô lập chúng tôi mà không cần cấm đoán những gì mà chúng tôi muốn làm trong vòng rào khu A. Không có một hậu thuẫn nào để làm chổ dựa, không có một tổ chức nào để hướng dẩn, cuộc tranh đấu trông giống như một ngọn lửa nhỏ, bạo phát bạo tàn! Họ chẳng cần đàn áp cuộc chống đối; nó tự tàn lụi lấy. Tôi đã biết trước như vậy và đang chờ đợi những hành động trả đũa của VC tiếp theo sau.
Sáng hôm sau, cán bộ đến để điểm buồng, trại viên ra khỏi phòng giam, nhưng có thêm vài cán bộ vũ trang đi kèm với cán bộ trực trại. Không ai nhắc nhở gì đến cuộc tuyệt thực hôm trước có tiếp tục hay không. Một ngày không ăn và một đêm thức khuya đã khiến mọi người đều đói và mệt. Khi bữa ăn trưa được mang vào nhà ăn, mọi người đều đặt đồ đựng chung quanh và trại viên trực chia phần cho mỗi người như thường lệ. Cuộc tuyệt thực đã chấm dứt một cách dễ dàng giống như khi nó bắt đầu! Vài người cũng còn tụ tập để hát nhạc vàng, nhưng không còn quy tụ được đông như trước đó. Sau một đêm, tôi nghĩ chắc ai cũng nhận ra được tình trạng nguy hiểm của mình ở trong trại khi không có được một sự hậu thuẫn nào. VC chưa làm gì cả, nhưng tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra sau này đây. Tôi nghĩ chắc là họ không dễ dàng bỏ qua đâu. Có lẽ họ đã học được bài học diễn ra khi đưa những trại viên đánh Thượng đi, và họ đợi sự kiện lắng dịu lại.
Những trại viên nổi tiếng trong cuộc tuyệt thực đều bị trừng phạt về sau bằng cách này hay cách khác. Một số đã chết trong những phân trại khác và một số lại trở thành ăn- ten còn tồi tệ hơn những người khác !
Chương 26
Lao Động Là Vinh Quang
Những ngày nhàn rỗi tiếp sau cuộc tuyệt thực trôi qua trong lặng lẽ. Tôi đi vòng quanh khu A để xem những bảng viết trên tường. Có 4 loại bảng được kẻ khắp nơi; đó là: bốn tiêu chuẩn cải tạo, ba mươi sáu điều nội quy của trại, hai mươi điều lệnh về nếp sống văn hóa mới, và mười chín điều về kỷ luật lao động.
Cái gọi là “Bốn Tiêu Chuẩn Cải Tạo” gồm bốn điều quy định mà mọi trại viên phải thực hiện để được coi là có tiến bộ. Điều quan trọng nhất là nhận tội và khai báo tội lỗi của người khác mà mình biết dù họ đã bị bắt vào trong trại hay vẫn còn ở ngoài xã hội. Tôi không thể nhớ từng chữ của bản văn, nhưng tựu chung nội dung như sau:
- Thành thật thú hết tội lỗi còn dấu diếm hay chưa nói hết. Thật thà tố cáo tội lỗi của đồng bọn và bọn phản cách mạng mà mình biết được dù chúng đã bị bắt vào trong trại hay còn ở ngoài xã hội.
-
Tích cực học tập cải tạo; có trách nhiệm giúp đở các trại viên khác trong việc cải tạo.
-
Chấp hành nội quy của trại. Không được có lời nói phản tuyên truyền hoặc hành động phá hoại.
-
Tự nguyện tự giác lao động, tích cực học tập cải tạo. Đề xuất được những sáng kiến tốt trong việc quản lý và giáo dục phạm nhân, đẩy mạnh sản xuất của trại.
Nội quy của trại gồm 36 điều chia làm 4 phần: phần tổng quát, kỷ luật về học tập, về nếp sống, và về lao động.
Mười chín điều về “kỷ luật lao động” và hai mươi điều về cái gọi là “nếp sống văn hóa mới” được phát triển một cách chi tiết từ bản nội quy.
Cái quan trọng nhất là bốn tiêu chuẩn cải tạo và nó được kẻ khắp mọi nơi trong trại. Các cán bộ cũng thường bảo rằng việc trở về xã hội của trại viên là tùy theo mức độ mà người ấy thực hiện được qua 4 tiêu chuẩn này. Điều đó đã khiến nhiều trại viên bị lẩn lộn giữa sự tiến bộ và sự tự trọng bởi vì nếu muốn làm theo những tiêu chuẩn ấy thì người trại viên phải làm những điều đi ngược lại quyền lợi của người khác. Quả là một chiến thuật nguy hiễm của VC để chia rẽ trại viên với nhau để điều hành trại! Trong hoàn cảnh ấy thì ai mà không muốn được ra khỏi trại? Trại viên không còn tin tưởng nhau, và điều này giúp Cộng Sản điều hành trại được dễ dàng hơn.
Vài ngày sau khi xảy ra vụ tuyệt thực, tình hình trong trại càng lúc càng lắng dịu hơn. Vào ngày thứ hai một tuần sau đó, một cán bộ vào phòng giam của chúng tôi gọi Uyển và Bình, hai đội trưởng trong phòng, cho mười trại viên đi với hắn để lấy “xe cải tiến” cho việc lao động vào hôm sau! Xe cải tiến là cái gì? Chúng tôi hỏi nhau.
Tôi theo nhóm để lấy xe cải tiến. Tên cán bộ giải thích rằng “xe cải tiến” là phương tiện để giải phóng đôi vai vì chúng ta dùng nó thay vì gánh nặng bằng vai. Thật là một cách giải thích kỳ khôi! Nhưng chúng tôi cũng không hiểu được cái từ “cải tiến” là thế nào. Cái gì đã cải tiến trong chiếc xe? Một cái máy gắn vào hay cái gì khác?
Chúng tôi, mười trại viên mặc bộ đồng phục tù với cái nón cối bằng lá cọ trông rất kỳ khôi đi theo tên cán bộ. Qua cổng trại, tên cán bộ bảo chúng tôi phải bỏ mũ nón ra; chúng tôi nhìn nhau ngạc nhiên. Không nói lời nào, nhưng trong thâm tâm chúng tôi cảm thấy tôi nghiệp cho cái thân của kẽ chiến bại.
Trời cuối tháng tư, thời tiết miền Bắc vẫn còn se lạnh. Chúng tôi đi trên con đường đất sét nhầy nhụa dọc theo bức tường gạch phía trước trại. Những hình vẽ một cách vụng về trên tường diễn tả các hoạt động của trại viên. Những bông hoa soan màu tím nhạt rụng đầy trên mặt đất, và những chồi non đang trồi ra khỏi cành cây trơ trụi. Dân chúng gọi đó là cây “sầu đông” vì đó là loại cây duy nhất ở miền Bắc bị rụng hết lá về mùa Đông.
Cái gọi là “xe cải tiến” là chiếc xe kéo có một cái thùng bằng gỗ dài khoảng một thước rưỡi rộng một thước và cao khoảng năm tấc với hai bánh xe bằng sắt bọc cao su gắn phía dưới. Hai càng xe bằng gỗ được gắn vào cái thùng ấy để kéo đi. Chúng tôi kéo năm cái xe trên con đường đất sét bên cạnh hàng rào trại nằm gần bên suối A-Mai đi từ bộ chỉ huy trại đến lò gạch.
Suối A-Mai lúc ấy đang cạn nước. Bờ suối chạy dài ra xa. A-Mai là con suối nhỏ chảy vào một nhánh của sông Hồng, do đó dòng suối cũng lên xuống theo sự lên xuống của dòng sông Hồng. Trong mùa mưa, nước sông Hồng lên rất cao, và đôi khi làm vỡ đê gây ngập lụt cho đồng bằng Bắc Việt. Tên cán bộ cho biết nước suối A-Mai từng lên tới tận con đường và chảy rất mạnh trong những ngày mưa lớn.
Phân trại K3 hiện ra ở phía xa xa bên kia bờ suối. Phương tiện duy nhất để đi từ K5 qua K3 là chiếc mảng tre do một phạm nhân lái. Một sợi dây cáp bằng thép nối liền hai cột xi măng ở hai bên bờ suối, và chiếc mảng được nối với sợi cáp bằng một cái ròng rọc. Người lái mảng chống sào để đưa chiếc mảng đi từ bờ này qua bờ kia. Có một con đường mòn từ con đường đất sét xuống tới bến mảng. Bên mặt của con đường đất sét, tôi nhìn thấy một vài cái nhà lá mà cán bộ cho biết đó là “nhà lô” cho những trại viên làm mộc. Cánh đồng phía sau trại hoàn toàn hoang vu với cỏ cao và bụi rậm.
Cách trại khoảng hơn một cây số, lò gạch vươn lên cao từ xa với tường bằng đất và mái lợp tôn rỉ. Khu đất quanh lò gạch bị đào bới trông giống như một thành phố cổ đang bị đào bới để tìm di tích. Một cái sân phẳng nằm bên cạnh dùng làm nơi đóng gạch.
Chúng tôi kéo xe vào trong một cái chòi bên cạnh lò gạch, nơi ở của cán bộ. Hắn ta nói với Uyển rằng ngày mai sẽ vào để dẩn đội đi lao động ngày đầu tiên và rồi hắn đưa chúng tôi về trại.
Đến gần suối chổ quẹo vào trại gần máy bơm nước, tên cán bộ bảo rằng để “bồi dưỡng” cho việc làm của chúng tôi, hắn cho phép chúng tôi được tắm giặt trong mười lăm phút. Chúng tôi chạy thẳng xuống suối, cởi quần áo và tắm giặt một cách vội vả. Lúc ấy đã gần trưa, nhưng cũng còn hơi lạnh. Chúng tôi phải mặc áo quần ướt đi về trại.
Không chỉ có chúng tôi, những người đi lãnh xe, mà tất cả mọi trại viên trong trại đều thắc mắc về chữ “cải tiến”. Khi nghe chúng tôi mô tả hình dạng của chiếc xe cải tiến, tất cả đều bật cười. Kể từ lúc ấy, hai từ “cải tiến” hay “cải thiện” đều trở thành một sự diễu cợt: xe cải tiến, thức ăn cải thiện, quần áo cải tiến, vân vân. Chúng tôi dùng từ “cải thiện linh tinh” để chỉ những người gặp cái gì thu nhặt cái đó, và nó đã trở nên một từ rất thông dụng trong trại cải tạo.
Trại viên sẵn sàng để đi lao động vào những ngày tiếp theo. Chúng tôi đã được cho biết rằng chúng tôi được “Đảng và Nhà Nước” đưa ra đây là để có điều kiện thuận tiện cho việc lao động cải tạo. Bằng cách này hay cách khác, chúng tôi phải làm việc và làm việc cực nhọc.
Một thành ngữ tốt để thay cho “lao động cưởng bức”: “Lao động là vinh quang!” Cái thành ngữ này đã trở nên quá quen thuộc đối với mọi người trong nước kể từ ngày Cộng Sản vào. Không chỉ chúng tôi trong trại mới biết mà mọi người dân đều biết rằng “lao động là vinh quang”. Những người Cộng Sản bảo rằng thông qua quá trình lao động, nhân loại đã được phát triển từ vượn người để biến thành con người, và cũng thông qua lao động dân chúng sẽ cung cấp tài sản cho xã hội. Sự phát triển của xã hội tùy thuộc vào sự lao động của nhân dân, do đó mọi người trong xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa phải lao động cho chính mình và cho xã hội.
Trong cải tạo, lao động là thước đo sự tiến bộ của mỗi trại viên, họ bảo rằng đó là việc cải tạo thông qua lao động. Tôi nghĩ mọi thứ giải thích đều nhằm mục đích bắt buộc mọi người phải làm việc! Nhưng trong tình trạng ấy thì chúng tôi làm gì khác được ngoài việc phải làm những điều mà VC bảo chúng tôi làm? Chống lại lệnh chúng là chết sớm mà thôi. Cách duy nhất là phải chấp nhận hoàn cảnh để tìm cách sinh tồn. Mỗi khi tránh được việc lao động, chúng tôi thường đùa với nhau rằng “lao động là vinh quang, nhưng ở không là huy hoàng!”
Tiếng kẽng đánh thức chúng tôi dậy như thường lệ. Sau khi điểm số trại viên, cán bộ trực trại bảo chúng tôi cho người đi nhà bếp lảnh phần ăn sáng rồi chuẩn bị đi lao động. Đó là lần đầu chúng tôi lảnh phần ăn sáng ở trại Tân Lập, một muỗng canh (gọi là cái muôi) bo bo luộc rất khó nhai vì cái vỏ cứng của hạt bo bo. Ngoại trừ vài người thật sự bệnh và được bệnh xá cho phép nghỉ hay những người trực vệ sinh buồng, mọi người đều phải xếp hàng đi ra sân tập họp phía sau cổng trại. Đã có một hàng cọc với những bảng nhỏ đề tên đội cắm sẳn ở đó. Trại viên ngồi xổm thành hai hàng theo từng đội. Có cả hai đội của phạm nhân hình sự ngồi phía bên phải của bãi tập họp. Họ trông bẩn thỉu và ốm yếu với quần áo bạc màu và tả tơi. Nhìn họ rồi nghĩ lại mình, tôi bỗng rùng mình! Bộ đồ tù này có thể chịu đựng được bao lâu, và riêng tôi thì có thể chịu đựng được bao lâu trong hoàn cảnh này?
Một cán bộ mặc sắc phục với quân hàm thượng úy -ba sao với một gạch- tự giới thiệu là trại phó đặc trách K5 tên là Bảng sẽ có vài lời nhân buổi lao động đầu tiên của chúng tôi. Chẳng có gì mới! Chúng tôi, những tội phạm của Nhà Nước và Nhân dân phải cải tạo tội lỗi của chúng tôi. Đảng và Nhà Nước đưa chúng tôi đến trại này là để có điều kiện thuận lợi cho việc cải tạo. Để được trở về với gia đình và xã hội, chúng tôi phải đạt được cái gọi là “tiến bộ”. Có ba điểm chính trong việc cải tạo để đạt được sự tiến bộ, đó là học tập, lao động và chấp hành nội quy của trại. Trong ba điều ấy thì lao động là điều quan trọng nhất. Chúng tôi phải cố gắng tối đa trong lao động vì lao động là thước đo mức độ tiến bộ của mỗi người! Giống như các cán bộ khác, Bảng lập lại những gì mà hắn đã được nhồi nhét vào đầu.
Bảng khoảng trung tuần bốn mươi, giọng nói Nam Định với chử “l” và “n” lẫn lộn với nhau chứng tỏ nguồn gốc bần nông của hắn, một giai cấp chính của VC. Tôi đã nghe nói rằng để được gia nhập Công An của Cộng Sản thì người nào cũng phải có ít nhất là ba đời thuộc giai cấp bần nông. Cộng Sản bảo rằng người trong giai cấp ấy không có gì phải mất ngoài cái quần đùi rách, khi chiến thắng thì họ sẽ được tất cả. Quả là một lý do vững chắc để gia nhập “Cách mạng”! Tiểu tư sản trí thức và tư sản là những giai cấp không trung thành với Đảng, chỉ có bần nông và công nhân là giai cấp trung thành nhất.
Nhiều cán bộ đi vào trại sau khi Bảng chấm dứt bài diễn văn. Họ là những “cán bộ quản giáo” hay còn gọi là “ban quản giáo” phụ trách các đội lao động.
Cán bộ trực trại gọi từng đội đi lao động. Đầu tiên là những đội hình sự và rồi đến phiên chúng tôi theo thứ tự từng đội từ 1 đến 8. Khi một đội được gọi đến, đội trưởng phải đứng lên và la lớn: “tất cả đứng dậy”, “bỏ mũ nón” và rồi “đứng nghiêm”. Khi đội đã đứng yên, đội trưởng quay lại đối diện với cán bộ trực trại và báo tổng số trại viên trong đội mình, số trại viên ốm bệnh, số ở trong trại với những lý do, và tổng số trại viên xuất trại đi lao động. Trại viên đi theo hàng đôi qua cổng trại với mũ nón cầm ngửa ra hai bên. Các trại viên phía bên phải cầm nón ở tay phải và bên trái cầm nón ở tay trái. Họ bảo rằng làm thế là để dễ quan sát coi có gì dấu trong nón hay không, nhưng tôi thì nghĩ họ muốn trại viên phải có thái độ phục tùng. Một hàng cán bộ vũ trang đợi chúng tôi bên ngoài trại. Cán bộ quản giáo đi cùng với trại viên còn hai cán bộ vũ trang -còn gọi là cán bộ bảo vệ- đi phía sau.
Trong những ngày đầu tiên này, chúng tôi được chia ra thành tám đội với những công việc làm như sau:
– Đội 1 và 2 gọi là đội gạch có nhiệm vụ làm gạch.
– Đội 3 gọi là đội rau xanh có nhiệm vụ trồng rau.
– Đội 4 gọi là đội xây dựng có nhiệm vụ sửa chữa nhà cho trại và cơ quan.
– Đội 5, 6, 7 và 8 gọi là các đội nông nghiệp có nhiệm vụ làm trên những cánh đồng quanh trại.
Ngoài các đội của chúng tôi còn có các tội nhân hình sự làm trong những đội như “đội chăn nuôi” chuyên nuôi heo, bò, gà vịt, đội “lâm sản” chuyên đi lấy củi, và đội “nhà bếp” chuyên nấu trong bếp. Một số phạm nhân hình sự khác thì làm trong những bộ phận lẻ gọi là “diện rộng”, đi lao động không có cán bộ đi kèm, và làm việc riêng cho các cán bộ hay cho cơ quan.
Chúng tôi im lặng bước đi trên con đường mà tôi đã đi ngày hôm qua để đến lò gạch. Chúng tôi thuộc đội 1, do đó đội chúng tôi là “đội gạch”. Có hai đội làm ở lò gạch là đội 1 chuẩn bị đất và đội 2 đóng gạch. Công việc của chúng tôi là đào đất, gánh nước từ suối lên đổ vào đất, quần trâu để nhào đất, và khiêng đất lên sân cho đội 2 đóng gạch.
Trong mùa nắng, đất sét trộn cát rất cứng. Để đào đất ấy, chúng tôi phải dùng cuốc và xà beng chứ không thể dùng xẻng. Đất được đào khu chung quanh và chuyển đến một cái hố nhỏ ở chính giữa bằng xe cải tiến. Việc nặng nhọc nhất là gánh nước từ suối lên, khoảng cách chừng năm trăm thước. Chúng tôi phải gánh đôi nước khoảng bốn mươi lít trên vai và đi trên một con đường gồ ghề. Cái lỗ để trộn đất sâu khoảng hai thước phía dưới mặt đất, chúng tôi phải làm những bậc thang để gánh nước xuống và khiêng đất lên cho đội 2. Vài trại viên đã đan những cái ky bằng tre cho hai người khiêng đất, đó là những thanh tre được đan vào nhau với hai đòn để cầm. Đội chúng tôi được chia làm ba tổ để thay phiên làm những việc như gánh nước, làm đất, và khiêng đất lên sân đóng. Thật là một công việc nặng nhọc nhất là dưới ánh nắng bởi vì nếu trời mưa thì không thể đóng gạch được.
Sau khi đất và nước đã đủ trong lỗ, hai trại viên dẫn hai con trâu vào để lùa chúng đi quanh lỗ đất ấy. Chân trâu đạp lên đất để trộn đất với nước cho đến khi đồng nhất. Nếu chỗ nào không được thì chúng tôi phải đạp cho đất được hoàn toàn. Họ gọi công việc này là “quầng trâu”.
Đống đất đã được nhào cho đồng nhất xong thì chúng tôi phải dùng cuốc xẻng để trộn lần cuối và đánh thành đống để chuẩn bị khiêng lên chổ đóng gạch. Công việc này được gọi là “lên quả”.
Khi vừa ra tới lò gạch thì tên cán bộ quản giáo bảo tôi chẻ lạt tre cho những người khác đan ky khiêng đất. Tôi không biết làm sao nên đã chẻ tre thành thanh thay vì thành sợi lạt. Tên cán bộ không nói gì với tôi mà bảo tôi đi làm đất thay vì chẻ lạt. Vào giờ trưa, hắn tập họp đội lại và đưa tôi ra làm một thí dụ điển hình về một người không hề biết lao động là gì mà trong chế độ cũ chỉ biết ăn bám vào công sức lao động của người khác!
Tối hôm ấy trong phòng giam, chúng tôi phải họp để phê và tự phê, và rồi tôi lại được đưa ra để làm đề tài phê bình cho đến khi tôi phải nhận khuyết điểm. Cuối cùng thì tôi phải nói rằng tôi không hề biết gì về lao động tay chân bởi vì lúc nhỏ tôi chỉ đi học và khi lớn lên tôi chỉ làm việc trí óc chứ chưa hề làm việc tay chân. Tôi hứa sẽ cố gắng tích cực hơn trong thời gian tới để theo kịp những người khác. Kể từ hôm ấy trở đi, chúng tôi phải đi lao động từ sáng đến chiều và tối lại thì phải ngồi họp để kiểm điểm những việc làm trong ngày cho đến khi nghe tiếng kẽng đánh báo ngủ.
Đóng gạch cũng chẳng khỏe hơn làm đất. Chúng tôi phải ngồi xổm trên sân suốt ngày dưới ánh nắng. Đất mang lên sân được chất thành những đống nhỏ, người đóng gạch phải dùng cái khung bằng gỗ đè vào đống đất để lấy đất và đập xuống sân, kéo viên gạch sắp thành hàng và lấy cái khung ra để làm viên gạch khác. Điều này tưởng chừng như dễ dàng, nhưng dưới ánh nắng và suốt ngày phải ngồi xổm, bò từ nơi này đến nơi khác khiến mọi người đều bị đau lưng, đau hông, và đau vai. Thêm vào đó còn phải làm cho đủ tiêu chuẩn mà tiêu chuẩn ấy thì cứ tăng lên hàng ngày.
Giữa hai công việc đóng gạch và làm đất thì tôi chọn công việc sau mặc dù có nặng hơn nhưng tôi có thể di chuyển được chứ không phải ngồi xổm suốt ngày. Đội của chúng tôi và đội 2 thay phiên nhau làm hai việc này. May mắn cho tôi là tôi chỉ làm đội gạch khoảng một tháng thì được đổi sang đội làm mộc. Tôi không biết tôi có thể chịu đựng bao lâu nếu cứ ở đội làm gạch? Lao động quả thật là vinh quang, đặc biệt là lao động cưỡng bức! Trong trại, chúng tôi luôn luôn phải biết cái thành ngữ “tự nguyện và tự giác lao động”, nhưng nếu chúng tôi không tự nguyện thì họ buộc chúng tôi phải lao động hoặc là xử phạt chúng tôi bằng mọi cách!
Chương 27
Tôi Làm Thợ Mộc
Làm gạch quá nặng nề đối với tôi, và đi làm ngoài đồng thì những con đỉa bám đầy chân mỗi lần bước xuống nước khiến tôi rất kinh khiếp. Vì vậy khi trại cần ai biết làm thợ mộc để biên chế vào đội mộc, tôi tình nguyện ngay dù thật tình thì tôi chẳng biết gì ngay cả việc cầm cái cưa để cưa gỗ! Tôi cũng muốn nói ở đây là cái cưa ở Việt Nam là loại cưa khung với cái khung gỗ có hai tay cầm dài khoảng năm tấc nối liền nhau bởi một thanh gỗ nhỏ dài bằng cái lưởi cưa và được căng bằng một thanh gỗ khác ở giữa. Cái cưa này rất khó giữ cho thăng bằng nếu chưa quen tay.
Tôi được chuyển ngay sang đội mới thành lập, đó là đội 10 và Uyển vẫn làm đội trưởng đội này. Ngày đầu tiên đến “nhà lô” của đội, ngay phía sau vòng rào trại, để làm mộc, tôi được phân công để rọc gỗ thành những thanh gỗ khổ 4×10 phân. Tên cán bộ quản giáo bảo tôi đặt tấm bìa gỗ dày lên trên hai cái ghế ngựa và ngồi thẳng lên đó. Tôi phải giử lưỡi cưa bằng cả hai tay; tay mặt nắm vào một đầu ngay chỗ lưỡi cưa gắn vào khung còn tay trái thì giữ đầu kia của khung cưa. Sau đó cả hai tay phải đưa đều lên xuống và mắt thì nhắm thẳng theo đường mực để lái lưỡi cưa cắt theo đó. Điều này nghe cũng dễ, nhưng khi làm thì rất khó vì đó là lần đầu tiên trong đời tôi phải xẻ gỗ bằng cưa. Lưỡi cưa cứ đi lượn vòng như con rắn bò chứ không đi theo ý mình muốn, càng lái thì nó càng bị kẹt trong gỗ khiến tôi rất khó nhọc mới đưa lên xuống được. Chỉ một lúc sau mồ hôi đẫm ướt cả mình mẫy, và hai vai tôi ê ẩm như bị ai đánh.
Tôi ráng giử bình tỉnh và tự nhủ rằng dù sao thì còn hơn là phơi nắng và giẫm bùn suốt ngày ở chỗ làm gạch. Ở trong trại, tôi không thể tránh không làm việc được, do đó đành phải chấp nhận cái khá nhất trong số những cái xấu! Sau vài ngày, tôi có thể lái được lưỡi cưa theo ý mình và công việc cũng trở nên dễ dàng hơn một ít.
Thời gian sau đó, đội chúng tôi được phân công làm nhà để gia đình trại viên đến thăm nuôi. Nhà thăm nuôi này nằm ở ngả rẽ vào phân trại K5, đối diện với chuồng bò. Tôi lại cũng chẳng biết tí gì về kiến trúc, cho dù làm nhà gạch hay nhà lá. Nhưng trong đội có vài người ở trại Tây Ninh đã từng làm nhà, họ trở nên những “chuyên viên” hướng dẫn chúng tôi làm việc này.
Công việc đầu tiên của tôi là phải dùng rìu để đẽo cây gỗ thành cột nhà. Những cây này do các phạm nhân hình sự trong đội lâm sản mang về. Trước hết tôi phải đẽo vuông cái cây rồi đẽo thành hình bát giác, sau đó dùng cái bào để bào tròn thành cột nhà. Họ gọi là “chuông tư”, “trầm tám”, rồi “lăng cạnh”! Để làm những xà nhà thì chỉ cần đẻo thành hình vuông rồi bào sơ cho có hình dáng.
Long và Tranh, những “chuyên viên” trong đội đặt cột và xà nhà trên mặt đất theo hình dạng của sườn nhà rồi vẽ những cái mộng và lỗ mộng cho chúng tôi đục, cưa và ráp lại thành hình.
Chúng tôi phải đào một cái ao phía sau để lấy đất đắp nền nhà. Sau ba tuần thì sườn nhà được dựng lên, và lúc đó là lúc chúng tôi phải làm mái, làm tường, và những công việc về mộc khác.
Để làm tường bằng đất, chúng tôi phải đục những lỗ vuông nhỏ cạnh 1×3 phân trên cột và xà nhà gọi là “lỗ bua” để nhét những thanh tre vào. Những thanh tre được nối tiếp nhau và cột dính lại thành hình dạng trông giống như mạng lưới. Trong lúc đó thì một toán phải đào đất, trộn rơm và nước vào rồi dùng chân trần mà đạp cho thành một chất nhầy nhầy. Chúng tôi dùng tay để trét thứ đất trộn rơm ấy vào vách để thành vách đất.
Mái nhà thì làm bằng ba lớp tre. Những cây tre để nguyên cây gọi là “đòn tay” được cột bằng dây lạt song song theo đường ngang từ cây kèo này qua cây kèo khác với khoảng cách khoảng một thước. Những cây nứa nhỏ được gọi là “rui” được cột vào đòn tay theo chiều dọc cách nhau khoảng năm tấc từ đòn tay trên cùng đến đòn tay cuối. Cuối cùng là những thanh tre chẻ khoảng ba phân cột vào rui theo chiều song song với đòn tay ở khoảng cách khoảng ba tấc được gọi là “mè”.
Để lợp mái, chúng tôi dùng lá cọ non dài khoảng một thước rưỡi đến hai thước. Chúng tôi xé hai tép nhỏ ở hai bên lá cọ, gắn nó vào mạng lưới của rui và mè theo chiều ngửa lên. Sau ba lớp lá, chúng tôi phải cột một thanh tre để giử lá ở vị trí vì vùng này thường hay có bão. Đỉnh của mái nhà là một hàng các cọc tre đâm xuyên qua và những cái lá cọ móc vào rồi đặt nằm chéo nhau.
Sườn nhà được nối với nhau bằng những mộng đuôi cá hay những cọc tre. Chỉ có cửa sổ và cửa cái là dùng đinh để đóng mà thôi! Cái nhà, hay nói đúng hơn là căn lều khoảng 8×10 thước, mà chúng tôi phải bỏ ra hai tháng trường để làm hoàn tất với công sức lao động cực nhọc của bốn mươi người chưa kể những phạm nhân hình sự cung cấp cây và lá. Nhưng điều mà tôi thu nhận được qua thời gian này là tôi bắt đầu có một ít kinh nghiệm về việc sử dụng cưa, đục, bào và rìu, tất cả sẽ có ích cho tôi trong thời gian sắp tới.
Sau khi hoàn thành “nhà thăm nuôi” cho trại viên, đội chúng tôi, đội 10 được đặt tên là “đội mộc và xây dựng tạm thời” với nhiệm vụ làm và sửa chữa nhà cửa làm bằng cây và tre trong trại và khu cơ quan. Trong thời gian không có công tác xây dựng thì chúng tôi được làm mộc ở nhà lô. Một đội khác được thành lập trong lúc đó là đội 2 chuyên làm mộc gia dụng như đóng đồ đạc bằng gỗ, xẻ gỗ cung cấp cho mộc và xây dựng.
Tôi suy nghĩ rằng chỉ có cách duy nhất để tránh các công việc nặng nhọc khác ở trong trại là làm sao học nghề làm mộc để được ở lại đội 10. Với một ít khéo léo và với khả năng về tính toán, tôi nhanh chóng bắt kịp nghề nghiệp này. Tôi có thể tính được mọi thứ trong căn nhà và không cần phải sắp cây gỗ xuống đất theo hình dạng cái khung nhà để vẽ mộng. Tôi chỉ cần cán bộ quản giáo cho biết về kích thước chung của căn nhà là có thể tính toán một cách chính xác bao nhiêu vật liệu để làm. Sáu tháng sau, tôi trở thành chuyên viên cho đội! Tôi lợi dụng việc ấy để có thể làm những điều mà tôi muốn làm theo ý mình.
Hàng ngày đến nhà lô, cán bộ quản giáo nói với đội trưởng Uyển về công việc phải làm, và rồi Uyển hỏi tôi cần bao nhiêu trại viên để làm công việc ấy. Tôi thường yêu cầu số người nhiều hơn là nhu cầu để mọi người đều được thoải mái hơn trong công việc. Khi làm nhà, tôi thường bảo những phạm nhân hình sự trong đội lâm sản chất những thứ cần thiết theo từng loại để chúng tôi khỏi phải di chuyển quá nhiều, điều đó có thể làm chúng tôi rất mệt nhất là với tình trạng thiếu dinh dưỡng ở trong trại. Mọi điều mà tôi tính toán đều với mục đích là làm thế nào để tránh cho chúng tôi mất sức. Chúng tôi phải tránh sự tiêu hao năng lượng cho chúng tôi trong hoàn cảnh này để còn có thể sống sót!
Luôn luôn có những điều ngộ nghĩnh xảy ra trong mọi tình huống, ngay cả trong những tình cảnh bi đát nhất. Ở trại Tân Lập thì hầu hết nhà cửa là nhà “tạm thời”, nghĩa là nhà làm bằng tre, gỗ và lá cọ. Chúng tôi có rất nhiều việc phải làm, và đôi lúc chính điều này đã tạo nên một cảnh ngộ trái ngược. Các cán bộ và gia đình của họ cần nhà để ở, cần chòi để nuôi heo gà vân vân, và chúng tôi lại là những người làm ra những thứ mà họ cần. Nhà tốt hay xấu là tùy thuộc vào chúng tôi! Còn chúng tôi thì cần cái gì? Tất nhiên điều mà tù cải tạo nào cũng cần là thức ăn và công việc làm nhẹ nhàng! Tôi không bao giờ quên cơ hội để đòi hỏi những thứ cần thiết cho cuộc sống của chúng tôi như gà, thịt, trứng, khoai mì, và ngay cả rau. Họ khó có thể từ chối những điều yêu cầu ấy vì họ luôn muốn chúng tôi làm việc tốt cho họ.
“Chúng tôi luôn muốn làm tốt mọi việc và làm nhanh cho các ông, nhưng như các ông thấy, chúng tôi không đủ sức. Nếu các ông có món gì đó để bồi dưỡng cho chúng tôi, món gì cũng được, tôi nghĩ chúng tôi sẽ làm việc tốt hơn”.
Đó là câu nói đầu môi của tôi mỗi lần tôi muốn hỏi xin thức ăn cho chúng tôi khi làm việc cho họ.
Có một lần chúng tôi làm một căn nhà bảy gian cho khu gia đình cơ quan, khi đặt cây đòn tay ở nóc nhà, tôi thấy vài người mang đồ đến cúng rồi tặng cho chúng tôi đồ cúng ấy. Tôi hỏi xem họ làm gì vậy thì họ cho biết cây đòn tay là một vật quan trọng nhất trong cái nhà, và theo sự tin tưởng của họ, họ yêu cầu chúng tôi trân trọng khi đặt đòn tay cho căn nhà để họ có may mắn khi sống trong nhà ấy. Chúng tôi thì chẳng cần điều gì ngoài phẩm vật của họ! Kể từ đó, chúng tôi đã biết được rằng cho dù là Cộng Sản, họ cũng rất mê tín.
Một lần khác khi làm cửa nhà cho họ, chúng tôi làm cửa trước và cửa sau thẳng đường từ trước ra sau. Họ đến yêu cầu tôi cho làm chéo qua một chút. Tôi biết đó cũng là một điều mê tín, do đó tôi bảo với họ rằng đó là ý kiến của “ban kế hoạch trại”. Một lát sau họ mang đến cho chúng tôi một bao bo bo và bảo tôi làm dùm họ điều mà họ muốn. Chúng tôi chia nhau phần bo bo rồi vừa sửa lại mà vừa cười với nhau!
Sự thiếu ăn và cái đói là điểm chính yếu trong trại cải tạo. Đội chúng tôi dù được làm những việc tương đối nhẹ nhàng hơn vài đội khác nhưng lại không có được những “bồi dưỡng” như những đội nông nghiệp, do đó tôi đã phải yêu cầu cán bộ quản giáo cho trồng cái gì đó để trại viên trong đội có thêm phần ăn. Ông ta cho phép Niệt, một trại viên trong đội làm việc ấy. Sau vài tháng, Niệt thay luôn người phạm nhân hình sự và trở thành trại viên “diện rộng” làm riêng cho cán bộ quản giáo. Niệt trồng cho đội giàn bầu và vài luống rau, ngoài ra anh ta còn có nhiệm vụ đi kiếm thêm thức ăn cho cán bộ quản giáo. Đôi lúc anh ta mang vào phòng cho riêng tôi một ít thức ăn mà anh ấy kiếm được. Trong cái địa ngục như trại Tân Lập, không có gì quan trọng hơn thức ăn, mọi loại thức ăn, bởi vì mọi người đều đói!
Đầu năm 1978, Uyển chuyển qua làm trong ban “Thi Đua”. Ban Giám Thị đưa Yêm từ K1 qua làm đội trưởng đội 10. Yêm chưa biết gì về mộc và xây dựng, nhưng vì là đội trưởng anh ta muốn nắm lấy trách nhiệm. Anh ta đưa tôi vào làm mộc ở nhà lô thay vì làm công việc xây dựng. Đó là thời gian mà tôi có dịp để học đóng đồ gia dụng. Công việc này tương đối nhẹ hơn làm xây dựng, nhưng phải ở tại nhà lô và không có thêm được thức ăn “bồi dưỡng”. Điều này rất quan trọng cho chúng tôi.
Trong trại, chúng tôi thường làm giường, tủ chạn, bàn ghế cho cán bộ và gia đình. Đôi khi họ còn bảo tôi làm dùm “hòm” (rương đựng quần áo làm bằng gỗ). Việc này thường là công việc làm riêng tư, không có trong kế hoạch của trại, do đó tôi lại có cơ hội để yêu cầu họ cung cấp cho tôi món này món nọ.
Sau vài tuần lễ, Yêm không thể nào làm được việc của đội, đặc biệt là khi làm căn nhà khá lớn, do đó cán bộ quản giáo và cán bộ kế hoạch của trại bảo tôi phải trở lại làm việc như là chuyên viên về xây dựng cho đội. Tôi làm công việc này vì tôi biết họ cần tôi trong công tác xây dựng, và đó cũng là cơ hội để tôi có thể tránh được công việc nặng nề và có cơ hội giúp các trại viên khác trong đội.
Cũng vì điều này đã khiến có lần tôi suýt bị nguy hiểm khi ban giám thị trại có ý định chơi trò chơi dân chủ trong trại bằng cách cho phép trại viên bầu ban thi đua và các đội trưởng. Tôi đã cảm thấy đó là một chiến thuật của VC để loại trừ những trại viên nào được các trại viên khác có cảm tình.
Trong đội tôi, dưới sự chủ trì của cán bộ quản giáo, các trại viên đã đề cử đội trưởng Yêm, đội phó Sinh, và tôi ra để được bầu vào chức vụ đội trưởng. Sau cuộc bầu cử, tôi lại là người được một trăm phần trăm phiếu bầu của các trại viên trong đội. Một buổi họp của Ban Giám Thị với Bích, một phạm nhân hình sự làm trưởng ban thi đua, đã đi đến kết luận là phải chuyển tất cả những người đã được các trại viên tín nhiệm đi đến phân trại khác, trong đó có tên tôi. Uyển, Yêm và vài người nữa được chuyển đi K1, nhưng họ giữ tôi lại vì lý do không có người thay thế để làm công việc xây dựng. Tôi ở lại đội 10 với nhiệm vụ củ là “chuyên viên về xây dựng”, và họ đưa Tống từ K1 sang làm đội trưởng đội 10.
Các trại viên đến đội 10 và đi khỏi đội, các trại viên được chuyển đến trại Tân Lập và rồi được thả ra khỏi trại; nhiều cán bộ quản giáo đến phụ trách đội 10 và chuyển đi đội khác. Tôi vẫn cứ ở đội ấy hầu hết thời gian từ đầu cho đến khi rời trại Tân Lập để đi về miền Nam. Long, Tranh, Tánh, và những trại viên trong nhóm 410 người trên chiếc tàu “Sông Hương” đã được thả ra khỏi trại từ đội 10. Vui, Nam, Giới, Tứ, và những trại viên khác được chuyển đến trại Tân Lập từ Lào Kai, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn vân vân là những trại viên cuối cùng của đội 10. Nhưng chỉ có tôi là ở đội ấy từ đầu đến cuối.
Cũng không phải tất cả mọi việc đều trôi chảy! Mặc dù chúng tôi thường làm trong nhà lô, “nắng không tới mặt, mưa chẳng tới đầu”, nhưng rồi cũng luôn luôn có những việc ngoại lệ. Trong mùa giông bão, và miền Bắc Việt Nam thì thường có giông bão, chúng tôi phải đi sửa mái nhà trong trại và khu cơ quan trong khi các đội khác thì được nghỉ. Mái nhà làm bằng lá cọ rất dể bị tung bay trong gió bão nên chúng tôi không bao giờ được nghỉ ngơi trong mùa này!
Thêm vào đó, chúng tôi làm việc nguy hiểm mà không có trang bị an toàn nào cả. Làm việc trên mái nhà, đặc biệt là vào mùa đông khi có mưa phùn và gió bấc, những sợi lạt tre rất bén dễ cắt đứt tay. Tôi đã té xuống đất một lần từ mái khi cột dây lạt và dây bị đứt làm mất thăng bằng. May mắn là tôi rơi trúng đống lá cọ nên chỉ mất một cái răng chứ không bị thương nặng. Nếu không có đống lá thì không biết tôi sẽ ra sao?
Một lần khác, ba trại viên trong đội cùng tôi phải đi cắt một cây sung ở bờ suối A-Mai về làm cột nhà. Hôm ấy trời mưa nhỏ chứ chưa phải là mưa to. Sung là một loại cây có nhiều nhựa rất khó cưa ngang bằng cái cưa cá mập. Cây lại nằm ở bờ suối ngay chỗ giáp với mặt nước. Chúng tôi không thể đứng dưới nước để cưa nên chúng tôi phải đóng cái ghế ngựa vào thân cây và ngồi trên ghế để cưa cây. Mực nước càng lúc càng dâng lên cao. Có lẽ là đang mưa to ở trên nguồn. Lúc đầu thì cây sung nằm gần bờ nhưng lần lần thấy bờ càng xa ra. Khi đã cắt xong thì chúng tôi không còn làm cách nào khác hơn là bám vào thân cây để nó trôi theo dòng nước đang chảy xiết. Một lần may mắn nữa là cây sung lại trôi tấp vào bờ; chúng tôi lôi nó lên bờ và đi về nhà lô với quần áo ướt và lạnh.
Năm năm ở trại Tân Lập quả là quá dài để quen dần với mọi thứ. Kể từ lúc bắt đầu chưa biết làm mộc là gì cho đến lúc có thể làm được hết mọi việc và thành một thứ chuyên viên cần thiết cho việc xây dựng trong trại, tôi đã phải vượt qua biết bao nhiêu là khó khăn! Cán bộ và ban giám thị lần lần biết tôi. Đầu năm 1981, nhà lô đội 10 chuyển qua địa điểm mới, ở gần bộ chỉ huy trại và nằm cạnh vườn cam. Tôi có thể đi ra nhà lô một mình mà không cần phải có cán bộ đi theo trông chừng. Đôi khi ban giám thị trại còn cho phép tôi được đi một mình ra nhà dân để quan sát lấy ý về để làm nhà cho cơ quan. Tôi nghĩ tôi có thể nhân đó mà trốn trại được và họ chỉ có thể phát hiện khi điểm buồng vào buổi tối mà thôi. Nhưng như tôi đã nói từ trước, trại Tân Lập bao quanh bởi núi rừng và thật sự tôi không biết đi đâu khi trốn ra khỏi trại! Cũng đã có vài cuộc trốn trại nhưng chưa một ai đi được xa vì tất cả đều bị những người dân miền núi trong vùng bắt nộp về trại để nhận phần thưởng là một ít gạo và thực phẩm. Mọi cuộc trốn trại bị thất bại đều dẫn đến cái chết bằng cách này hay cách khác sau khi bị biệt giam một thời gian dài.
Một mẫu chuyện tình trong đời cải tạo: Khi nhà lô mới của đội 10 dời về khu vườn cam, nó cũng nằm gần nhà giữ trẻ cho gia đình cán bộ. Cô giáo nhà trẻ tên là Lan thường đến nhà lô để nhờ tôi làm dùm thước kẻ. Lúc đầu tôi không chú ý gì đến cô ta vì cô ta là “cán bộ”. Nhưng lâu dần điều ấy trở thành thường xuyên, và cô ta chỉ nhờ tôi làm dùm công việc này trong khi có nhiều trại viên khác làm trong nhà lô. Mỗi lần có dịp đến để sửa chữa trong nhà trẻ, học sinh của cô ta lại cho tôi biết rằng cô giáo đang “trang điểm” trước khi ra gặp tôi! Vài người bạn trong đội và ngay cán bộ quản giáo cũng biết điều này, nhưng họ chỉ cười với tôi mỗi khi thấy cô ấy đi tới nhà lô. Lan không đẹp nhưng có nụ cười hấp dẩn và thân hình cân đối, có lẽ vì cô ấy lao động từ bé. Sự quan hệ của chúng tôi dần dần trở nên gần hơn cho đến khi tôi chuyển về miền Nam đầu năm 1982. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra nếu tôi không chuyển khỏi trại Tân Lập?
Không chỉ mình tôi mà một số trại viên khác cũng bắt đầu có những sự quan hệ với các cán bộ nữ. Bên cạnh đó thì sự quan hệ giữa trại viên, nhất là những người trong đội lâm sản với dân quanh vùng càng lúc càng nhiều hơn. Thật là một tình trạng đảo ngược! Tôi có thể nói rằng “chính sách của Đảng và Nhà Nước trước sau như một”, nhưng mà quan điểm của con người thì đã bắt đầu thay đổi!