ÐOÀN VĂN KHANH
Không biết hai tiếng tòm tem xuất hiện trong ngôn ngữ Việt từ bao giờ
nhưng cái chuyện tòm tem thì quả là xưa không kém gì quả đất. Tuy nhiên, dù
có xưa cách mấy thì tòm tem vẫn không bao giờ cũ vì loài người còn tồn tại
tới ngày hôm nay cũng là nhờ vào tòm tem. Chính vì thế mà thiên hạ vẫn cứ
mãi mãi tòm tem và nói về chuyện tòm tem.
Sở dĩ tôi dùng hai tiếng tòm tem này để nói về một chuyện mà ngôn từ dùng
để diễn tả lại vô cùng phong phú và thường được thả nổi, ấy là tại vì hai
tiếng này vừa có gốc có gác vừa nôm na dễ hiểu, lại không bị coi là tục
để các vị thích rao giảng đạo đức bắt bẻ mà cũng không khô khan như từ ngữ
chuyên môn của nhà khoa học. Tôi học được hai chữ này trong bài ca dao sau:
Ðang khi lửa đỏ cơm sôi,
Lợn kêu con khóc lại đòi tòm tem.
Bây giờ cơm chín lửa tàn,
Lợn ăn con ngủ, tòm tem thì tòm!
Phải nói là mặc dù mấy câu ca dao này thật là đơn giản nhưng càng đọc
tôi càng thấy thấm ý. Con người từ thủa xa xưa cho tới ngày nay, sống trên
đời lúc nào cũng cứ tối tăm mặt mũi với hàng trăm thứ chuyện lỉnh kỉnh
hằng ngày nhưng xét cho cùng thì chẳng qua cũng chỉ là nhằm đáp ứng cho
hai nhu cầu cơ bản là ăn để sống và tòm tem để bảo tồn chủng loại. Có khác
chăng là theo đà tiến hóa, con người càng văn minh thì cái ăn và cách ăn
cũng trở thành cầu kỳ và cái tòm tem cũng được bày đặt thêm nhiều quy định
có tính cách hình thức rắc rối hơn mà thôi.
Tuy cả hai nhu cầu trên đều là cơ bản nhưng nếu sắp theo thứ tự ưu tiên
thì cái ăn vẫn là trước tiên rồi mới tới chuyện tòm tem vì chỉ có “no cơm
ấm cật ” thì lúc đó mới có thể “rậm rật khắp nơi” chứ bụng mà đói meo thì
“chó cũng đành chê cứt”. Cái sự ví von này, tôi cũng học được trong kho
tàng ca dao tục ngữ. Ai không tin cứ giở ca dao tục ngữ ra sẽ gặp khối câu
như:
Em như cục cứt trôi sông,
Anh như con chó ngồi trông trên bờ.
Nếu nhu cầu ăn có từ khi lọt lòng thì trái lại nhu cầu tòm tem phải đợi
đến một cái tuổi gọi là biết mắc cỡ vì khám phá ra những cái khang khác
nơi mình và nơi người mới bắt đầu có. Lại nữa, cái cường độ của nhu cầu
này cũng biến thiên tùy theo nguời và tùy theo thời gian: sung độ nhất vào
lúc tuổi còn trẻ nhưng càng về già thì yếu lần và có thể không còn nữa.
Chính vì thế mà người ta mới hối nhau:
Ai ơi chơi lấy kẻo già,
Măng mọc có lứa người ta có thì!
Chơi xuân kẻo hết xuân đi,
Cái già sồng sộc nó thì theo sau!
Mặc dù trong văn học Việt nam cũng đã có những nhà nho xông xáo cỡ cụ
Nguyễn Công Trứ từng vỗ ngực tự hào trong một bài hát nói “càng già càng
dẻo càng dai” và trong ca dao cũng có những bài như:
Bà già đã tám mươi tư
Ngồi bên cửa sổ biên thư kén chồng.
Hoặc là:
Bà già đi chợ cầu Ðông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?
Thầy bói gieo quẻ đoán rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn!
Tuy nhiên, nếu nghiệm cho kỹ thì chẳng qua các cụ cũng chỉ là tiếc nuối cho
một thời oanh liệt đã qua đi mà nói vớt vát cho vui thế thôi chứ thực tế
thì các cụ cũng không làm sao xoay ngược lại định luật của tạo hóa.
Ngoài ra, nếu nhu cầu ăn không thể thiếu thì ngược lại, nhu cầu tòm tem có
thể hy sinh mà không làm cho cá nhân ấy chết, trừ trường hợp nếu như tất
cả giống người đều hy sinh cái nhu cầu này thì lúc đó loài người mới bị
tuyệt chủng thôi. Về cái khoản này thì Phật có dạy: đời là bể khổ và con
người phải diệt dục thì mới dứt được nghiệp chướng để tịnh độ Niết Bàn.
Tuy vậy, có một số người dù đã quy y đầu Phật thành sư nhưng lòng thì
vọng động, đôi khi còn bạo hơn cả người phàm nên người đời mới gọi các vị
này là “sư hổ mang”. Còn nếu chỉ nhè nhẹ thôi thì ca dao cũng đã từng mô
tả:
Ba cô đội gạo lên chùa,
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.
Sư về sư ốm tương tư,
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Khác với Phật giáo chủ trương diệt dục, người Thiên Chúa giáo lại tin rằng
khi Chúa dựng nên người nam và người nữ đầu tiên rồi thì có phán: “Hãy
sinh sản ra cho đầy mặt đất này”. Tuy nhiên, khi loài người đã sinh ra tràn
đầy trên mặt đất này rồi thì Hội Thánh mỗi khi muốn tuyển chọn người thay
Chúa chăn dắt bầy chiên ở trần gian thì lại đòi hỏi người đó phải hy sinh
cái niềm vui tòm tem. Ðiều này gây trở ngại cho một số người vừa muốn làm
kẻ chăn chiên của Chúa lại vừa không muốn sống trong cảnh “cám treo heo
nhịn đói”, do đó mà nảy sinh ra Giáo phái Tin Lành. Các ngài mục sư nhờ
hiểu Kinh Thánh một cách cởi mở hơn nên đã giúp cho một số người an tâm
vừa làm tôi tớ Chúa vừa vui thú trần gian mà không hề mang mặc cảm phạm
tội. Riêng về phía Giáo hội La Mã vì khắt khe với lề luật mà có những kẻ
lúc bắt đầu những mong theo chân Chúa làm đến chức cha, chức cố, nhưng rốt cuộc chỉ mới tới được chức “ta ru” nghĩa là đã vào tu rồi nhưng thấy đời
còn vui quá lại nhảy ra.
Mặc dù bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền có khẳng định: “Mọi người sinh ra bình đẳng” nhưng thực tế thì Tạo hóa vốn có trước loài người nên hình như
không biết có cái luật đó cho nên mới để lọt một số người bị mụ bà nắn
thiếu cái “gia tài của mẹ để lại cho con” khiến cho những kẻ này không bao
giờ biết được cái niềm vui tòm tem ở cõi đời này. Tuy nhiên vào cái thời
đất nước còn được cai trị bởi những ông vua thì cũng có vài anh chàng lại
tự nguyện cắt bỏ cái gia tài này để được hầu hạ trong cung hầu kiếm miếng
cơm manh áo. Thí dụ như mấy anh chàng muốn xin làm thái giám.
Số là trong xã hội phong kiến ngày xưa, một kẻ làm vua thì tự cho mình có
cái quyền tha hồ tòm tem. Do đó mà ông vua nào cũng có trong cung hàng
ngàn cung tần mỹ nữ. Tuy nhiều thế và nhiều khi tòm tem không xuể nhưng vì
tham lam và ích kỷ nên ông vua nào cũng sợ kẻ khác tòm tem giùm mình. Do đó mới phải chọn mấy anh chàng thái giám để hầu hạ trong cung cho chắc ăn.
Nhiều ông vua cũng vì mê tòm tem đến độ phế bỏ cả triều chính nên đành
phải mất nước hay mất cả cái chỗ đội vương miện. Có ông thì bệ rạc đến nỗi
không còn ngồi dậy nổi để thiết triều đành nằm ườn ra cho đình thần vào
chầu như ông vua Long Ðĩnh nhà Lê. Sử gia khi nhắc đến phải đặt cho triều
đại này cái biệt danh là Lê ngọa triều.
Cũng vì cái mục ham tòm tem này của kẻ làm vua mà nhiều khi đi đoong luôn
cả một dân tộc. Xưa Chiêm thành cũng là một vương quốc lừng lẫy. Vào thời
nhà Trần ở nước ta thì có vua Chiêm là Chế Mân bỗng dưng nổi hứng đem dâng luôn hai châu Ô và châu Rí để xin với vua Trần cho được rước công chúa
Huyền Trân về tòm tem. Không hiểu có phải vì nàng công chúa xứ Việt tài
cao hay vua Chiêm lụ khụ sao đó mà ít lâu sau thì vua Chiêm tịch. Theo
phong tục Chiêm thành thì khi vua chết hoàng hậu và phi tần cũng phải tịch
theo vua để tiếp tục hầu hạ cho nhà vua cũng được tòm tem nơi chín suối.
Nhà Trần tiếc cho tuổi xuân phơi phới của nàng công chúa của mình mà bị
đưa lên giàn hỏa với vua Chiêm thì thật là phí hương trời, bèn sai Trần
Khắc Chung vào kinh thành Chiêm lén đem công chúa về. Tương truyền sau đó, hai người đưa nhau đi đâu làm gì chẳng ai rõ nhưng dù sao thì cái tên
Huyền Trân cũng đi vào lịch sử, còn Chiêm thành thì theo cái đà mất hai
châu mà mất lần cho đến mất luôn cả nước và bị diệt vong.
Theo các nhà nghiên cứu về sinh vật học thì trong vấn đề tòm tem, giống
cái bao giờ cũng khỏe hơn giống đực. Nguyên lý này hình như cũng đúng cả
với con người. Chúng ta chỉ nghe kể ông này ngài nọ đang tòm tem thì bị
ngã ngựa rồi đi đoong chứ chẳng bao giờ nghe nói có bà nào lăn quay ra
ngáp ngáp trong lúc tòm tem cả. Nghe khoản này có lẽ các ông không đồng ý
vì tự hồi nào các ông vẫn tự cho mình là phái khỏe còn đàn bà mới là “liễu
yếu đào tơ” phải “núp bóng tùng quân”. Tuy nhiên, tục ngữ cũng có câu: “con
gái mười bảy, bẻ gãy sừng trâu” nên nam nhi cỡ mấy anh chàng “trói gà
không chặt” mà gặp phải mấy cô này thì cũng coi như là đi đoong, bằng
không thì cũng bị cô nàng cắm cho năm bảy cái sừng to tổ bố.
Trở lại với cái chuyện tòm tem ngã ngựa này ở nước ta mà có liên quan đến
lịch sử thì phải kể câu chuyện đời Lê. Nguyễn Trãi là một khai quốc công
thần từng giúp Lê Lợi đánh thắng quân Minh giành lại nền độc lập cho Tổ
quốc và lập nên nhà Hậu Lê. Lúc vua Lê Thái tổ quy tiên, vua con lên nối
ngôi thì cụ cũng đã già về nghỉ hưu. Tuy thế, có một hôm nghe tiếng cô
nàng Thị Lộ rao bán chiếu trước dinh, cụ bỗng hứng chí cho gọi vào ra mắt
và khi thấy cô hàng chiếu trông cũng tươi mát, cụ bèn ứng khẩu mấy vần thơ
trêu ghẹo:
Ả ở đâu mà bán chiếu gon,
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi
Ðã có chồng chưa, được mấy con?
Cô hàng chiếu cũng chẳng vừa, họa lại ngay:
Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon,
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, nói chi con!
Nghe cô hàng chiếu ứng đối lanh lẹ, cụ đâm ra mến tài mến sắc nên quyết
chí rước nàng về làm nàng hầu. Nếu chuyện chỉ có thế thì cũng chẳng có gì
đáng nói. Ðằng này vì cụ đã già nên có lẽ sinh ra lẩm cẩm. Nhân một hôm
nhà vua trẻ đi tuần thú qua vùng này bèn ghé lại nhà cụ nghỉ đêm, cụ
thương cho cô nàng hầu tuổi xuân phơi phới lâu nay bị bỏ phế mới sai nàng
ra hầu hạ nhà vua may ra kiếm được chút ơn mưa móc. Chẳng hiểu ông vua trẻ tòm tem ra sao mà băng ngay đêm đó tại nhà cụ. Thế là triều đình đổ xô vào hạch cụ về cái tội giết vua và cái tước khai quốc công thần của cụ cũng
đành vứt đi khiến cho cụ chỉ còn biết cam phận lãnh cái bản án tử đi đoong
luôn một lúc cả ba họ.
Các nhà nghiên cứu về sinh vật còn đưa thêm một nhận xét là có nhiều loài
sinh vật sau khi tòm tem thì chị cái còn xơi tái luôn anh chàng đực cho đã
cơn đói lòng, chẳng hạn như loài bọ ngựa. Ðiều này tưởng chừng không xảy
ra nơi con người nhưng nếu nghiệm kỹ ra thì cũng có nhưng vì con người có
đời sống văn minh nên cái mục cô nàng xơi tái anh chàng này cũng diễn
ra dưới một hình thức mới mẻ hơn, khoa học hơn, tinh vi hơn, trông nhẹ
nhàng và không có vẻ rùng rợn nhưng độc ác thì không kém. Nàng chỉ móc cái
ví tiền, nắm lấy cái ví tiền thôi chứ không cần moi ngực moi tim gì cả. Có
biết bao ông “nam nhi chi chí” chỉ vì tòm tem mà bị thân bại danh liệt do
ăn hối lộ, thụt két để cung phụng cho cô nàng no bụng, còn ông thì vào nằm
nhà đá gỡ lịch. Ðối với những ông có sẵn cơ nghiệp thì cô nàng cứ việc tha
hồ ăn cho tới sạt nghiệp rỗng túi phải ra thân ăn mày.. Ngay cả những ông
được cái tiếng là hiền lành cũng lắm lúc khốn khổ vì đi làm lãnh lương ba
cọc ba đồng thôi mà cũng bị bà vợ móc sạch. Thế là đủ cho anh chàng từ đó
cứ lệ thuộc vào bà vợ mà ngáp ngáp. Còn bà vợ thì phây phây “chưa đi đến
chợ đã lo ăn quà”, càng ngày càng phốp pháp ra trong khi đức lang quân thì
càng ngày càng cà tong cà teo như que củi.
Chuyện tòm tem mà đi vào văn học sử thì rất nhiều. Vào cái năm Tí Sửu Dần
Mẹo gì đó có sứ Tàu sang nước ta. Không hiểu do đâu mà sứ lại gặp bà Ðoàn
Thị Ðiểm, lại còn buông lời chọc ghẹo chớt nhả: “An nam nhất thốn thổ, Bất
tri kỷ nhân canh” nghĩa là “một tấc đất An nam không biết bao nhiêu là
người cày” ý xỏ xiên gái Việt. Bà Ðiểm vốn đã từng dịch Chinh Phụ Ngâm,
chữ nghĩa đầy mình, đâu dễ gì chịu mất mặt như vậy, bèn đối ngay: “Trung
quốc đại trượng phu, Giai do thử đồ xuất”. Câu này có nghĩa là “bậc trượng
phu của nước Tàu cũng từ đó mà chui ra cả thôi”. Ðúng là chậu nước lạnh
hắt vào mặt sứ Trung quốc.
Trên đây là chuyện vào thời nước ta chỉ biết giao hiếu với nước Tàu. Vào
cái buổi giao thời Tây Tàu nhố nhăng thì có:
Vị Xương có Tú Xương
Dở dở lại ương ương,
Cao lâu thường ăn quỵt,
Thổ đĩ lại chơi lường.
Cụ lại còn tự thú thêm:
Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta,
Chừa được thứ nào hay thứ ấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà!
Tuy nhiên, đáng nể hơn cả phải nói là bà Hồ Xuân Hương. Sự nghiệp văn
chương của bà toàn hướng về trọng tâm duy nhất: phải làm sao nói lên được
cái nguyên lý tòm tem ẩn tàng trong mọi sự vật và tên tuổi của bà gắn
liền với sự nghiệp trên đến nỗi hễ một người nào đó chỉ cần nhắc đến tên
bà là người khác hiểu ngay ý người kia định nói gì.
Trên đây, tôi chỉ đơn cử vài danh nhân tiêu biểu thôi chứ thực ra nếu mà
xét cho cùng thì bao nhiêu tác phẩm văn chương nghệ thuật trên thế giới
này nếu không liên quan đến ăn thì cũng là do cái động cơ tòm tem thúc đẩy
mà ra cả.
Nếu cái chuyện tòm tem nơi loài vật là một sự kiện tự nhiên nên hễ muốn
tòm tem thì đi tìm đối tượng hợp tác giải quyết là xong thì nơi con người
vì văn minh nên thường “vẽ rắn thêm chân”. Do đó, để thỏa mãn cái nhu cầu
tòm tem, con người cũng đặt ra vô số quy định gọi là luật pháp, đạo đức,
phong tục, tập quán để làm khó cho mình. Chính vì thế mà chuyện tòm tem
của con người mới được phân biệt thành nhiều hình thức.
Thông thường nhất và được xã hội cho phép và nhìn nhận là tòm tem có đăng
ký chính thức. Ðể có thể tòm tem theo kiểu này con người phải trải qua
nhiều bước gian truân lo lắng và chờ đợi, kết quả có khi được mà cũng có
khi chỉ là dã tràng xe cát nên mới có chuyện nhiều anh chàng hay cô
nàng vì lý do này lý do nọ, không hội đủ tiêu chuẩn để xin được giấy phép
hành nghề, đành ôm hận đáp chuyến tàu suốt về miền quên lãng, hoặc nhẹ lắm thì cũng là cúi đầu nhìn người yêu ôm cái tòm tem sang ngang không hề
ngoảnh lại. Ðiều này nếu có gây đau khổ cho một số người thì chính đó cũng
là nguồn cảm hứng để cho những tâm hồn đau khổ đó có thể sáng tác nên
những vần thơ tuyệt tác, những áng văn bất hủ và những bản nhạc để đời.
Ðối với những người hân hoan rước được cái tòm tem về rồi thì mọi chuyện
bây giờ trở nên như cơm bữa nên không có gì đáng bàn ngoài cái chuyện đêm
đêm:
Ðàn ông gì thứ đàn ông
Nửa đêm trở dậy cắm chông đàn bà.
Ðàn bà gì thứ đàn bà
Nửa đêm trở dậy rút ruột già đàn ông.
Thỉnh thoảng mới có vài trường hợp cá biệt như:
Lấy chồng từ thủa mười lăm,
Chồng chê tôi bé không nằm cùng tôi.
Ðến năm mười tám đôi mươi,
Tôi nằm dưới đất, chồng lôi lên giường,
Một rằng thương, hai rằng thương,
Có bốn chân giường, gãy một còn ba …
Chẳng cần phải giải thích ai cũng thừa biết là thương ở trong lòng thì làm
sao gãy được cái chân giường, chẳng qua chuyện gãy cái chân giường là do
tòm tem sôi nổi mới ra cớ sự. Tuy nhiên, cũng không thiếu gì những trường
hợp có kẻ vì những lý do không được tiết lộ nào đó mà cứ phải bóp bụng thở
than:
Chàng ơi bỏ thiếp làm chi,
Thiếp là cơm nguội để khi đói lòng!
Nhờ xã hội bày ra cái chuyện tòm tem phải có đăng ký chính thức này mà có
những ông vốn coi trời bằng vung bắt đầu biết sợ, dĩ nhiên là không phải
sợ trời mà sợ kẻ cao hơn trời nữa kia. Riêng các bà thì có một số khỏi
phải khổ công đèn sách, đánh giặc hay phấn đấu công tác cũng bỗng dưng trở
thành cô Tú, bà Bác sĩ, bà Thiếu tướng, bà Tỉnh trưởng v.v… để ra oai
tác yêu tác quái, có khi còn thêm màn phụ diễn “gà mái đá gà cồ”. Ðiều này
có vẻ như là một bất công đối với phái nam vì khi một anh chàng nghèo dốt
đặc nào đó vô phúc vớ được một bà luật sư, bà bác sĩ cũng không bao giờ
được thiên hạ gọi là ông luật sư , ông bác sĩ gì cả để mà hậm họe với đời
hay lên lớp chị vợ.
Thời còn chế độ phong kiến thì tuy vua thay trời trị dân, nhưng vì có
vài ông vua lại học được cái câu “nhất vợ nhì trời” của dân gian nên có nhiều
bà gốc dân giã, không cần dựng cờ khởi nghĩa để làm vua mà chỉ cần được
một ông vua loại trên tuyển về làm Hoàng hậu rồi sau đó lại còn lên Thái
hậu là cũng đủ làm cho đất nước điêu đứng.
Riêng đối với đa số các bà thường thường bậc trung không có gì để thi
thố với đời thì nhờ có sẵn nhãn hiệu cầu chứng lận trong lưng nên rất hãnh
diện phô trương cái thành quả tòm tem của mình, đi đâu cũng vác cái bụng
phình chương ướng nghễu nghện ra cái điều ta đây nết na đức hạnh để cho xã
hội nhìn vào mà nể nang chứ không giống như mấy cô nàng tòm tem lén, tòm
tem chui, lỡ có kết quả là tìm cách giấu còn hơn “mèo giấu cứt”.
Mặc dù các nhà đạo đức và các nhà luật pháp thường khuyến cáo con người
chỉ nên và chỉ được tòm tem có đăng ký chính thức tại một hộ khẩu thường
trú nhưng nhiều khi vì tính ham vui mà có những cặp chưa kịp làm xong thủ
tục đăng ký đã tòm tem. Ðây là loại tòm tem lén cha lén mẹ. Hình thức này
rất phổ biến trong lứa tuổi rường cột của tương lai nên đây cũng là niềm
lo lắng của các bậc làm cha mẹ. Tuy nhiên, có nhiều cô cậu gặp khó khăn
trong vấn đề đăng ký hành nghề thì lại nhờ cái khoản có kinh nghiệm hành
nghề trước mà sau đó được cấp giấy phép điều chỉnh hoặc cũng có khi là bị
bắt buộc điều chỉnh giấy phép tùy trường hợp.
Cũng có khi đã đăng ký có nơi có chốn nhưng vì thích điều mới lạ hoặc
ngán cơm nhà ăn hoài nhạt miệng nên ở đâu lúc nào cũng có chuyện “ông ăn
chả bà ăn nem” hoặc là ông đi lính “nhảy dù”, bà đi tìm nơi “ăn vụng”. Ðây
là loại tòm tem chui, trốn thuế nên thường xảy ra nhiều màn đấu gươm,
nổ súng, rượt bắt rất sôi nổi hoặc nhiều cảnh trừng trị rất rùng rợn.
Ngày xưa khi mà “phép vua thua lệ làng”, dân nông thôn ở các vùng ven sông
đôi khi vẫn vớt được đôi trai gái bị trói thúc ké thả trôi theo dòng nước
chỉ vì bị bắt quả tang đang ăn vụng.
Thời Ðệ nhất Cộng hoà, có một ông quan nhà binh súng ngắn nọ không thích
bắn súng đồng ngoài chiến trường mà chỉ thích bắn súng cao su ở các vũ
trường. Quan bắn giỏi quá nên có một em ca ve xin được rước quan về cận vệ
cho mình. Chị cả ở nhà thấy quan lâu ngày không chịu cho mình khám súng mà cứ vác súng đi suốt đêm nên cho tay em đi điều tra. Tay em tìm ra cớ sự
bèn về bẩm báo và hiến kế cho chị Cả nên chị tặng cô nàng nọ một liều a xít để
biến cô nàng thành đống sắt vụn. Báo hại sau vụ ấy, cả miền Nam mỗi khi
nghe có ai nói tới hai tiếng a xít là các bà các cô đua nhau tìm đường
chạy trối chết.
Có những bà vì không có phương tiện để theo dõi tìm tòi hoặc không muốn
lặn lội thanh toán kẻ địch ở xa cho nhọc công phí sức nên cứ nhắm ngay
đối tượng gần là ông chồng mà trị tội cho tiện. Nghe đâu thời Tây còn cai
trị xứ Nam kỳ có một cô Năm Huờn nào đó giận ông chồng không chịu tòm tem
với mình mà cứ đi tìm người khác để tòm tem nên mới nổi tam bành rưới
xăng đốt luôn ông chồng làm đuốc cho đời soi chơi.
Thời Liên khu V kháng chiến, nghe đâu tại Mộ Ðức cũng có một nữ cán bộ
thấy đồng chí chồng cứ đi công tác với các nữ đồng chí ấp khác mà không
chịu sinh hoạt ở ấp nhà nên tức giận dùng dao phay chặt phăng cái lệnh
công tác của đồng chí chồng. Tin này được nhanh chóng loan truyền trong
hàng ngũ cán bộ, do đó mà sau này trong các buổi họp giao ban, mỗi khi có
đồng chí nào đó thích thảo luận cù nhầy mà có nữ đồng chí nào giơ tay phát
biểu: “Tôi xin cắt đứt đồng chí” là các nam đồng chí hè nhau bỏ chạy xanh
cả mặt.
Tòm tem chui có khi “chùa” mà cũng có khi là “tiền trao cháo múc”. Nếu là
tòm tem theo kiểu tiền trao cháo múc thì thường phái nam là kẻ phải chi
tiền, họa hoằn mới có vài anh mày dày mặt dạn được đời tặng cho cái danh
hiệu là “đĩ đực”. Riêng khối chị em ta là vừa được tòm tem lại có tiền ăn
bánh nên có nhiều cô nàng bất cần miệng đời khen chê đã xin chọn con đường
này làm “con đường em đi”. Xã hội nào mà có nhiều cô nàng chọn con đường
này thì mấy bà phước ở trong xã hội đó lại càng có dịp nuôi một bầy con
không phải con mình. Tuy nhiên cũng có những trường hợp cá biệt, có những
cô nàng lúc đầu đi con đường này nhưng sau đó, tình cờ vớ được một anh
chàng kiểu Từ Hải mà bỗng hóa thành mệnh phụ phu nhân, trở nên danh giá,
ban ân ban phước cho đời. Ấy là chưa kể đến chuyện vào hậu bán thế kỷ 20
lại còn có thêm hiện tượng hàng loạt chị em ta nhờ tòm tem với của lạ nước
ngoài mà về sau biến thành Việt kiều được đồng bào cả nước mến mộ vì mấy
đồng đô la trong ví.
Ngoài các hình thức tòm tem có đăng ký, tòm tem lén, tòm tem chui, tòm tem
nhảy dù còn có một hình thức nữa gọi là tòm tem ẩu. Ðây là một hình thức
tòm tem không thông qua sự thỏa thuận của đôi bên mà chỉ đến từ một phía.
Loại tòm tem này có thể là hình thức nhẹ như của mấy anh chàng thích thả
dê theo kiểu trong ca dao:
Vú em chum chúm hạt cau
Cho anh bóp cái có đau anh đền!
Vú em chẳng đáng một tiền
Cho anh bóp cái anh đền quan năm!
Có nhiều anh chàng nhờ trước thả dê, sau thành duyên nợ nhưng cũng có
khối anh chàng bị ăn tát tai, đòn gánh, guốc cao gót có khi lỗ máu đầu
hoặc phải ra hầu toà về cái tội hành nghề không có giấy phép.
Hình thức mạnh thì thường đi kèm với dao găm, lưỡi lê, súng đạn hoặc ít
nhất là cũng đôi cánh tay gân guốc. Ðây là một hình thức dã man thô bạo
thường gắn liền với những tội ác mà con người không thích thấy nhưng lại
cứ hay diễn ra tại những nơi nào có chiến tranh, loạn lạc, bất công và áp
bức. Chuyện kiểu này thì vô cùng, xin để dành phần hành này cho các nhà
làm chính trị, các nhà làm luật pháp, các nhà rao giảng đạo đức, tôi không
dám lạm bàn.
Mặc dù tòm tem là một nhu cầu tự nhiên nhưng con người lại thích khoác cho
nó cái vẻ không tự nhiên nên mới sinh ra lắm cái nực cười hay những
chuyện thương tâm đầy nước mắt.
Trong một phiên họp Quốc hội thời Ðệ nhất Cộng hòa tại Miền Nam để biểu
quyết một dự luật về vấn đề bảo vệ tòm tem, có hai vị dân biểu nọ tranh
luận nhau sao đó mà vị nữ dân biểu bỗng đứng dậy một tay rút guốc đập lên
bàn, một tay xỉa xói vào mặt vị nam dân biểu và the thé: “Không có đàn bà
làm sao có đàn ông?” Vị nam dân biểu bị xúc phạm liền hùng hổ không kém
đứng lên vung tay quát: “Không có đàn ông làm sao có đàn bà?” Chẳng ai
biết hai vị dân biểu kia rốt cuộc ai thắng ai nhưng dân chúng nghe qua
chuyện này đều ôm bụng cười và bảo nhau là hai vị nọ rõ khéo thừa hơi vì
nếu không có tòm tem thì làm quái gì có đàn ông hay đàn bà để mà cãi cọ.
Cái chuyện tòm tem không phải chỉ có người mới thích mà ngay cả thần tiên
cũng còn đam mê. Trong dân gian vẫn truyền tụng những câu truyện như Sơn
Tinh và Thủy Tinh chỉ vì tranh nhau nàng công chúa con vua Hùng mà đánh
nhau hết năm này sang năm khác, gây ra cảnh gió mưa bão lụt làm khổ cho
dân. Lại có những nàng tiên còn vương vấn mùi tục lụy nên mới xui khiến
cho chàng Từ Thức lạc động Hoa vàng. Có nàng thì lại còn ham vui xuống tận
trần gian xem hội của người đời để rồi gây ra cớ sự khiến cho phải vướng
vào duyên nợ với người trần như truyện Giáng Kiều và Tú Uyên.
Tòm tem là nguyên lý của sự sống nên hình như dân tộc nào cũng đề cao.
Văn minh Văn lang cũng có sự tích “ông Ðùng bà Ðà”. Tương truyền là ngày
xưa có nhà nọ sinh ra được hai con, một trai một gái. Ðến tuổi trưởng thành
thì cả hai chị em nhà này đều cao lớn dị thường, do đó khi bắt đầu biết đến
tòm tem thì nhìn quanh nhìn quẩn không thấy đâu có đối tượng có khả năng
hợp tác với mình nên cuối cùng cả hai đành phải hợp tác với nhau. Dân làng
cho rằng đây là một hành vi loạn luân bèn xúm lại tẩm quất cho hai chị em
nhà này một trận, đến lúc dừng tay lại thì chỉ còn thấy hai đống thịt. Dân
làng sợ Trời phạt cái tội cả gan hủy diệt cái nguyên lý của sự sống mà bắt
phải tuyệt tự cho nên mới lập đền thờ. Hằng năm đến ngày giỗ thì lại làm
hai hình tượng khổng lồ rước đi nghễu nghện khắp làng, sau đó là trai gái
trong làng được một đêm tự do ra đình làng tòm tem bằng thích để tạ tội.
Nghe chuyện này biết đâu chừng có nhiều người cũng đang tiếc hùi hụi tại
sao ta lại không được sinh ra tại cái làng ấy.
Khờ khạo như Bờm nhưng một khi đã biết đến tòm tem thì cũng mê mẩn ra
phết. Chuyện kể là ngày xưa có hai ông bà hiếm hoi sinh hạ được có mỗi một
cậu con trai đặt tên là Bờm. Vì sợ mất giống nên Bờm được cha mẹ cưới vợ
cho rất sớm. Chị vợ lớn hơn Bờm nên hàng ngày cứ phải bế chồng đi chơi,
đút cơm và lo tắm rửa cho chồng năm này sang năm khác mà ban đêm thì chẳng xơ múi gì. Ðùng một cái đến cái năm con chuột rúc rích gầm giường, chị vợ táy máy sao đó mà Bờm bừng sáng trí khôn hiểu ra cái lẽ sống ở đời.
Từ hôm ấy, Bờm cứ mê mẩn quanh chị vợ tối ngày làm chị vợ không còn thì giờ làm công việc nhà nên bị bà mẹ chồng đay nghiến nhiếc móc. Chị vợ ức quá bèn dấu cục đá dưới váy rồi dẫn chồng đến bờ ao lôi cục đá thảy tòm xuống ao và bảo chồng: “Thôi nhé! Tôi đã quăng cái tòm tem xuống ao rồi! Từ nay đừng có theo tôi mà đòi nghe rõ chưa?” Bờm tiếc của trời nên ngày nào cũng lội xuống ao mò mẫm. Ðược vài ngày, chị vợ thấy vừa thương hại vừa nhớ nên mới ra ao bảo chồng: “Thôi về nhà đi rồi tôi đền cho! ” Bờm không dám tin vào người vợ đã từng nhẫn tâm quăng mất niềm vui của mình nên cứ ở lì dưới ao. Chị vợ tức quá bèn vén váy vỗ phành phạch mà bảo: “Nó đây rồi nè!” Bờm ngước lên thấy vợ mình vẫn còn giữ cái món của hồi môn tưởng chừng như đã bị quăng mất ấy y nguyên chỗ cũ bèn hớn hở bò lên theo vợ về nhà. Nghe nói từ đó về sau, Bờm tòm tem rất tiến bộ, sinh ra cả bầy con rồi con cái Bờm lại nối gót mẹ cha mà tòm tem cần cù để tiếp tục sinh ra cháu chắt hàng đàn hàng đống ở chật ních cả giải đất hình chữ S.
Chuyện tòm tem mà có nói mãi thì cũng không bao giờ cùng nên tôi cũng
không tài nào nói hoài, chỉ xin tóm lại một câu: dân tộc ta qua hàng ngàn
năm nô lệ, hàng ngàn năm thiếu ăn, hàng ngàn năm chinh chiến, người chết
như rơm rạ mà vẫn không bị diệt chủng là vì nhờ dân ta ở đâu lúc nào cũng
khoái tòm tem và có thể tòm tem. Và cũng chính vì nhờ có chút tòm tem mà
đời vẫn còn vui để cho chúng ta cứ mê muội ngụp lặn trong vòng khổ ải.
ÐOÀN VĂN KHANH