Chương 10-11-12

Chương 10

Chuyến Di Chuyển Đầu Tiên

 

Khoảng sáu giờ chiều, tôi đang ngồi với vợ tôi thì có người vào gọi vợ tôi rời trường Chu Văn An để ra về với lý do là cô ấy sắp đến ngày sinh. Cô ấy đang có mang ở tháng thứ chín. Tôi nghĩ điều này sẽ tốt hơn cho vợ tôi vì cô ấy sẽ không phải sinh con trong trại, nhưng tôi lại không biết cô ấy sẽ ra sao đây khi không có tôi bên cạnh. Tôi xách túi xách và tiễn vợ tôi ra cổng với lời an ủi rằng hy vọng rồi đây chúng tôi sẽ gặp lại nhau sau 1 tháng. Tôi nhìn theo vợ tôi bước lên chiếc xích lô đạp rồi quay trở vào trường với một nỗi buồn man mác. Tôi sẽ không thể gặp được con tôi khi nó chào đời! Tôi sẽ không có dịp để săn sóc vợ tôi, cô bé mỏng manh của tôi, khi cô ấy sinh nở! Nhưng tôi cảm thấy như vậy là tốt hơn là vợ tôi phải chịu đựng sự đau đớn trong trại.

Mọi người ngóng theo tôi khi tôi đưa vợ tôi ra về và rồi quay lại vào trong trường. Có vài người đến chúc mừng vợ tôi đồng thời an ủi tôi vài lời, sau đó chúng tôi ngồi bàn tán về tương lai chúng tôi sau khi “họ” thả vợ tôi ra về. Trường Chu Văn An nằm cạnh bên nhà bảo sanh Hồng Bàng; nếu chúng tôi còn tiếp tục ở đây để cải tạo thì rất thuận tiện cho vợ tôi một khi cô ấy sinh đẻ. Không ai bảo ai, chúng tôi đều chuẩn bị sẳn sàng cho một sự di chuyển.

Sáu chiếc xe buýt tiến vào trường vào khoảng 7 giờ chiều. Chúng tôi được báo cho biết rằng chúng tôi sẽ được chuyển đến một trại cải tạo để có điều kiện thuận tiện hơn cho chúng tôi học tập một cuộc sống trong một chế độ mới. Chúng tôi đã đoán điều này sẽ phải đến, nhưng lại không biết chúng tôi sẽ bị đưa đi đâu đây: một khu rừng sâu, một hải đảo như Phú Quốc hay Côn Lôn nơi đã từng là trại giam những can phạm chính trị hay trọng tội. Chúng tôi đang thảo luận về chuyến di chuyển vì hầu như mọi người đều đã sẵn sàng sau khi thấy vợ tôi rời trường.

Khoảng 8 giờ, hai người mặc thường phục đội nón cối tự xưng là “Anh Bảy” và “Anh Tư” vào gọi tên chúng tôi xếp theo thứ tự từng đội từ đội 1 đến đội 6 và cho chúng tôi biết rằng chúng tôi sẽ được chuyển đến một trại cải tạo, nhưng không ai dám hỏi chúng tôi sẽ đi đâu. Mọi việc xong xuôi vào khoảng 9 giờ, nhưng chúng tôi phải đợi đến nửa đêm. Những chiếc xe buýt vẫn đậu trong bóng tối ở sân trước trường. Không ai ngủ được cho dù chúng tôi đã phải trải qua một ngày căng thẳng mệt mỏi. Mọi người thì thầm với nhau dường như sợ rằng người khác có thể nghe được lời đối thoại của mình, nhưng trong sự yên lặng ấy thì ngay cả tiếng muỗi bay cũng có thể nghe rõ mồn một. Mọi người đều lo lắng về nơi sẽ đến và điều gì rồi sẽ xảy ra ở trại cải tạo ấy.

Đèn trong sân trường đột nhiên bật sáng. Mọi người dường như đang đợi chờ giây phút ấy nên đứng ngay dậy và hướng mắt ra sân trường. Vài người mang đồ đạc của họ tiến ra ban công. Giọng của “Anh Bảy” và “Anh Tư” vang lên gọi trại viên đi đến xe buýt thuộc đội mình. Tôi leo lên chiếc xe thứ ba dành cho đội ba rồi ngồi đợi. Tôi chẳng còn gì để lo lắng nữa cả vì tôi biết rằng nếu có điều gì xảy ra thì tôi chỉ chịu một mình tôi mà thôi. Ít ra tôi không còn lo cho vợ tôi và đứa con chưa ra đời của tôi nữa.

Đoàn xe rời trường vào khoảng 2 giờ sáng về hướng ngã tư Bảy Hiền. Thành phố rất im lặng. Tôi nghĩ có lẽ chúng tôi sẽ đến Tây Ninh hay vào chiến khu D của Việt Cộng, nhưng đến Bảy Hiền, đoàn xe lại đi thẳng rồi sau đó quẹo phải vào xa lộ “Đại Hàn”. Tiếp theo đoàn xe lại quẹo trái vào xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa. Tôi không hiểu sao “họ” không đi thẳng đường Phan Thanh Giản để vào xa lộ mà lại phải đi theo một lộ trình xa xôi như thế. Có lẽ “họ” muốn đánh lạc hướng chúng tôi. Đoàn xe cuối cùng tiến vào nơi gọi là “Làng Cô Nhi Long Thành” vào khoảng 7 giờ sáng. Phải mất năm tiếng đồng hồ để di chuyển một lộ trình khoảng ba chục dặm chỉ để dấu một địa điểm mà chúng tôi đã biết từ lâu.

Chương 11

Trại Cải Tạo Long Thành

 

Làng Cô Nhi Long Thành đã có một lịch sử mà hầu hết chúng tôi đều biết đến. Từ 1968 đến 1971, một tên Việt Cộng tên là Tư Sự núp dưới lốt áo tăng lữ Phật Giáo đã sáng lập và điều hành cái gọi là “Làng Cô Nhi”. Hắn ta dùng cô nhi để quyên tiền cho VC. Hắn cùng đồng bọn chứa vũ khí để chống lại bất cứ ai có ý định xâm nhập vào làng. Trong giai đoạn này, chính quyền Nam Việt Nam đã rất khó khăn để giải quyết tình hình. Nếu tấn công vào “Làng” thì có nghĩa là chính quyền đã tấn công trẻ con. Nếu không thì càng lúc càng nguy hiểm cho chính quyền.

Có một lần tôi đã đến Làng Cô Nhi dưới danh nghĩa của phóng viên cho nhật báo “The Saigon Post”. Trẻ con đầu trọc chân đất phải làm việc trên cánh đồng dưới nắng nóng của mặt trời, và chúng chỉ được ăn chay vào mỗi bửa ăn trưa theo như quy định của tăng lữ Phật Giáo. Cùng đi với chúng tôi còn có nhóm người trong “thành phần thứ ba”. Tôi đã rất bực tức khi nhìn thấy trẻ con phải đứng dưới trời nắng nóng để đón chào những kẻ mang danh nghĩa “lãnh tụ” của cái gọi là “Lực Lượng Thứ Ba” này! Chúng dùng trẻ mồ côi để thu thập tiền bạc từ nhiều nguồn cung cấp mà nhất là từ những hội từ thiện Mỹ, và trẻ con lại là cái lá chắn cho chúng nữa.

Sau đó, chính quyền Sài Gòn đã phải dùng quân đội và cảnh sát để tấn công vào chiếm lấy Làng, giải cứu trẻ em; “Làng Cô Nhi” đã trở thành trại cho “Nạn Nhân chiến cuộc Bình Long”. Một lần nữa tôi đã có dịp đến đây để trao quà cho các nạn nhân chiến cuộc dưới danh nghĩa của “Đoàn Sinh Viên Khoa Học Cứu trợ Đồng bào chiến nạn”. Tổ chức này chính là tiền thân của Ban Đại Diện Sinh Viên Khoa Học mà tôi đã thành lập đầu tiên ở trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn.

Trại Cải Tạo Long Thành nằm trên đỉnh của một ngọn đồi sát bên quốc lộ Số 1. Không có cái bảng nào để cho biết đó là trại cải tạo ngoài một bảng kẻ khẩu hiệu “Không có gì quý hơn Độc Lập, Tự Do” mà chúng ta thường thấy khắp nơi sau ngày 30 tháng tư năm 1975. Đoàn xe ngừng lại ở giữa con đường chính của trại. Đó là con đường đất sét đỏ rộng khoảng năm mét và dài khoảng tám trăm mét nối từ cổng vào đến căn nhà cuối của trại. Vì trại nằm trên đỉnh đồi nên không có cái giếng nào cả. Nước được chuyển đến bằng xe bồn. Khi chúng tôi đến đã thấy nhiều người cầm can xếp hàng phía sau chiếc xe bồn. Họ vẫy tay chào chúng tôi dường như chào đón những người mới đến.

Hai bên con đường chính là mười căn nhà trệt, mỗi bên năm cái, một căn nhà khác nằm cuối đường và một cái nữa nằm cạnh cổng trại. Mỗi căn nhà chia ra làm hai phòng giam, mỗi phòng chứa khoảng 100 trại viên thuộc 2 đội. Mỗi phòng có bốn khung cửa cái và tám khung cửa sổ không có cánh cửa. “Họ” chia trại viên ra thành 4 khối: Khối 1 gồm những người từng làm việc trong chính quyền Nam Việt Nam từ Trưởng Ty đến Tổng Thống. Khối 2 gồm những người mà họ gọi là “Đảng Phái Phản Động” (tất cả các đảng phải chính trị ở miền Nam Việt Nam) với chức vụ từ Thư Ký đến Chủ Tịch Đảng. Khối 3 gồm những người làm cho cơ quan tình báo từ trung cấp đến cao cấp. Khối 4 gồm những sĩ quan cảnh sát từ Thiếu Tá đến cấp Tướng. Năm căn nhà phía bên phải con đường dành cho khối 1; phía bên trái thì hai căn nhà đầu tiên dành cho khối 4, ba cái còn lại là của khối 3, căn nhà cuối đường dành cho trại viên nữ, và căn nhà gần cổng là của khối 2. Còn một kiến trúc khác được dùng làm hội trường để họp tất cả trại viên.

Khoảng 50 trại viên trong mỗi đội được chia làm 4 tổ. Mỗi tổ phải nằm thành hai hàng trong phòng, do đó có tất cả 4 hàng trong mỗi phòng giam: 2 hàng cạnh tường và 2 hàng ở giữa phòng. Những trại viên nằm cạnh tường quay đầu về phía tường, còn những trại viên nằm hàng giữa thì nằm đối đầu nhau. Khoảng trống giữa hàng giữa và hàng cạnh tường dùng làm lối di chuyển.

Còn hai phòng nhỏ ở hai đầu nhà nơi từng là phòng ăn cho cô nhi nay trở thành phòng họp cho cán bộ cùng các đội trưởng, phòng chứa dụng cụ lao động cho trại viên.

Đầu tiên, trại không có hàng rào để ngăn khu hay khối. Đầu năm 1976, “họ” bắt đầu xây tường gạch xi măng để rào quanh trại và chia cách từng hai nhà một, tường rào ngăn giữa đường chính với từng khu, và tường ngăn cách riêng biệt khu nữ. Cùng lúc đó, trại đóng giếng và bơm nước vào từng khu thay vì cung cấp nước bằng xe bồn. Trại Long Thành càng lúc càng được củng cố.

Chương 12

Ngày Đầu Trong Trại Cải Tạo Đầu Tiên

 

Tôi thuộc tổ 2, đội 3 trong khối 3, do đó tôi phải vào phòng đầu tiên trong nhà thứ tư phía bên trái của con đường. Chẳng có gì trong phòng ấy nên tôi phải trải chiếc chiếu cói trên nền xi măng ở giữa phòng để có chỗ ngủ và sinh hoạt.

Việc đầu tiên tôi phải giải quyết là làm thế nào có nước để dùng! Tôi không có gì đựng nước, do đó tôi phải tìm cho được cái gì đó để đựng nước uống và rửa ráy. Tôi đi lùng xung quanh trại và tìm được một tấm tôn từng để lợp mái cho nhà ở của nạn nhân chiến cuộc vào năm 1972. Tôi không biết làm thế nào để làm cái thùng đựng nước bằng tấm tôn này, do đó tôi đã uốn hai đầu lại giống như xếp tờ giấy sau đó xếp hai đầu còn lại biến nó thành một cái thùng chứa hình hộp vuông. Cái thùng đầu tiên này không thể đựng nước được vì nó rò rỉ khắp nơi. Tôi quyết định đi lùng một lần nữa để tìm ra cái gì đó để hàn nó lại. Lần này, tôi nhặt được một cái nón sắt, một tấm giấy hắt ín, vài cây đinh, và vài cây gỗ 5×10 phân. Tôi đốt tấm giấy để lấy hắc ín hàn mấy cái lổ ở đáy thùng, và rồi tôi đóng hai thanh gỗ vào 2 bên thùng để giữ thành thùng và cũng để khiêng nó. Tôi đã có một cái thùng đựng nước, nhưng rồi tôi lại không thể khiêng nó một mình tôi được. Tôi nói với Điệp khiêng dùm phụ và chia nước để dùng chung. Chiều hôm ấy, chúng tôi đã được một thùng đầy nước, nhưng chúng tôi quyết định chỉ sử dụng nước khi thật cần thiết mà thôi. Lúc ấy là cuối tháng 6, trời bắt đầu mưa. Chúng tôi làm thêm 2 cái thùng nữa theo cách ấy để đựng nước. Sau kinh nghiệm đầu tiên, chúng tôi làm một cách tốt hơn. Vài tuần sau, tôi có thể làm được cả cái thùng tròn từ tấm tôn.

Điều khó khăn gặp phải là chẳng có cái nhà vệ sinh nào trong phòng. Tôi đi quanh trại để tìm xem có nhà cầu nào không, nhưng quả thật không có cái nào cả. Chung quanh trại chỉ có một hàng rào thưa bằng kẽm gai, tôi nghĩ tôi có thể chui qua một cách dể dàng. Chỉ có một cái trạm gác ở cổng trước. Tôi nghĩ chỉ có một cách giải quyết là tìm một cái xẻng hay cái cuốc rồi chui qua hàng rào, không phải để trốn trại mà là chỉ để “ỉa” mà thôi! Như tôi đã nói, trại là làng cô nhi trước đây, do đó tìm một cái cuốc hay xẻng không phải là việc khó khăn. Đó là bài học đầu tiên mà tôi học được của cái gọi là “nếp sống văn hóa mới” của “cách mạng”.

Và rồi tôi lại tự hỏi tôi tắm ở đâu bây giờ? Tôi lại chưa quen tắm ngoài trời, vả lại còn có đàn bà con gái trong trại nữa! Tôi đi đến một cái lều tôn bỏ hoang nơi từng là nhà tạm trú cho nạn nhân chiến cuộc, nhưng có nhiều trại viên nữ đang chờ đợi ở đấy. Tôi đành phải bỏ ra về để tắm ngoài trời với chiếc quần đùi vậy! Tôi nghĩ rằng để sống được trong trại, tôi cần phải nhanh chóng thích ứng với mọi tình huống! Và đó cũng là bài học thứ hai mà tôi đã học được trong ngày đầu tiên trong trại cải tạo.

Có tiếng gọi trại viên đi đến nhà bếp để lãnh phần ăn chiều. Tôi phải đi vì là phiên mình có nhiệm vụ lãnh thức ăn cho tổ, do đó tôi xếp hàng đi theo các trại viên khác để đi đến nhà bếp. Nhà bếp là một dãy lều dài khoảng năm mươi thước rộng khoảng sáu thước gồm những hàng cột và mái lợp tôn. Hai dãy lò bằng đất sét với sáu lò nằm dọc theo chều dài: một dãy lò để nấu cơm và dãy kia để nấu thức ăn và nước uống. Trên mỗi lò có một cái chảo to, và tôi trông thấy vài người nấu bếp đang quậy cơm và thức ăn bằng những cái xẻng. Vài người cho biết rằng những đầu bếp này là người làm cho nhà thầu, nhưng tôi lại nghĩ có thể họ là tai mắt của VC. Trong một trại mà hầu hết là những người đã từng giữ những chức vụ quan trọng trong chế độ cũ, tôi nghĩ VC không thể không lợi dụng cơ hội để len lỏi vào thu lượm những tin tức cần thiết cho chúng.

Tôi nhận được một sô cơm và anh bạn cùng nhóm nhận một thau canh bí đỏ nấu với đậu phọng. Việc tiếp theo mà tôi phải làm khi đem cơm về đến nơi là làm sao để chia đều ra cho mười hai anh em trong tổ. Tôi yêu cầu mọi người trong tổ để đồ đựng cơm và thức ăn riêng rẽ ra chung quanh sô cơm, và tôi dùng cái ca quân đội của tôi để đong cơm cho mỗi người. Người bạn cùng nhóm của tôi cũng làm như vậy với phần canh. Đó là lần đầu tiên chúng tôi chia phần cho bữa ăn chiều.

Phần cơm mà tôi nhận được trong bữa ăn đầu tiên này là một loại cơm nấu bằng gạo lức đỏ lẫn đầy thóc, nó thường được dùng để làm thức ăn cho gia súc. Phần canh thì lỏng bỏng vài lát bí đỏ và mấy hột đậu phọng nấu trong nước nêm một ít muối cùng vài lát hành xanh. Tôi đã phải ngồi nhặt thóc lẫn trong cơm trước khi ăn để tránh khỏi bị đau dạ dày.

Ngày đầu tiên trong trại cải tạo trôi qua khi chúng tôi nghe tiếng kẻng đánh dội vào từ khu cơ quan. Đó là tiếng đập của chiếc búa nện vào một cái vỏ bom treo trên cành cây. Kể từ đó, tôi đã phải tập để quen dần với tiếng kẻng nghe khắp mọi nơi: tiếng kẻng báo thức, kẻng báo giờ lao động, giờ giải lao, vân vân… Sống trong trại cải tạo không là gì khác hơn là làm những việc mà “cái kẻng” và cái gọi là “cán bộ” bảo chúng tôi phải làm, và đó cũng là bài học thứ ba mà tôi đã học được trong ngày đầu tiên trong trại cải tạo đầu tiên.

Mọi người đã treo mùng, nhưng những tiếng thì thầm vẫn còn nghe một vài nơi trong phòng giam. Tôi nghĩ mọi người đều có những câu chuyện riêng muốn chia xẻ với bạn bè, nhưng trong hoàn cảnh này thì có gì hơn là nói về số phận của chúng tôi sẽ ra thế nào đây trong những ngày tháng sắp tới. Tôi đã thiếp đi trong một giấc ngủ mệt nhọc sau khi suy nghĩ về vợ tôi cùng với đứa con chưa ra đời.

Chương 13-14-15