-
Chương 19
Thăm Nuôi Lần Đầu
Ngày 19 tháng 8 năm 1976, để mừng sinh nhật của Hồ Chí Minh, chúng tôi không đi lao động mà đi lên hội trường. VC gọi đó là để chào mừng ba ngày lễ lớn gồm có ngày 19 tháng 8 sinh nhật Hồ Chí Minh, ngày Nam Bộ Kháng Chiến 23 tháng 8 và ngày lễ Quốc Khánh 2 tháng 9. Tôi chẳng muốn lên hội trường để nghe những bài diễn văn của chúng, nhưng chẳng có đường nào để tránh. Thêm nữa, chúng tôi không phải đi lao động và còn có ăn tươi, ít ra cũng có một ít thịt.Cờ xí và biểu ngữ treo đầy trong hội trường trước đó mấy ngày. Kể từ khi Việt Nam thống nhất, chúng tôi không còn nhìn thấy lá cờ ba màu của cái gọi là Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ở đâu nữa mà chỉ còn thấy lá cờ máu của Bắc Việt. Thêm một lần nữa, người dân miền Nam đã bị lợi dụng lòng yêu nước để VC biến cả nước thành một nước Cộng Sản. Tôi tự hỏi không biết ai là Ngụy đây?
Trang trí trong hội trường luôn luôn như cũ với tấm hình Hồ treo giữa bức tường cuối, gần bên cái bục nơi các cán bộ ngồi, câu khẩu hiệu “không có gì quý hơn Độc lập, Tự do” phía dưới. Lần này thì chúng tôi ngồi trên những hàng băng ghế chứ không ngồi dưới đất nữa. Kể từ khi bắt đầu lao động, trại viên trong khối 2 làm trong hội trường để đan rổ rá, làm chổi, và vài sản phẫm bằng tre. Vì họ đa số lớn tuổi nên được phân công làm những việc nhẹ hơn. Thêm vào đó thì cũng không đủ đất cho gần hai ngàn trại viên lao động. Những trại viên trong khối 2 đã thu nhặt gỗ ở những căn lều cũ cho nạn nhân chiến cuộc để làm những hàng ghế băng trong hội trường. Những cây gỗ mười phân vuông đã được chôn xuống nền đất của hội trường để làm chân ghế và đóng thành những thanh ngang để làm mặt ghế. Những hàng băng ghế này ngồi cũng chẳng thoải mái chút nào, nhưng dù sao thì chúng tôi cũng không phải ngồi xuống đất nữa.
Cái bục cũng đã được làm cố định ở cuối hội trường và đặt sẳn bàn ghế cho cán bộ mỗi lần có hội họp.
Rất nhiều cán bộ vào hội trường sáng hôm ấy. Sau khi đứng lên ngồi xuống mấy lần để chào đón ban giám thị như thường lệ, Thùy, giám thị trưởng giới thiệu nhà văn Hoài Thanh người sẽ thuyết trình về đề tài thơ của Hồ Chí Minh. Thùy nói rằng Hoài Thanh là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam, nhưng không ai trong chúng tôi biết về ông ta.
Hoài Thanh khoảng trên năm mươi, hơi mập và lùn với khuôn mặt vuông và hai gò má bầu. Ông ta mặc áo bỏ vào trong quần chứ không bỏ ngoài như những cán bộ cao cấp khác, và ông ta lại thắt cà vạt nữa! Một điều khác đã làm chúng tôi ngạc nhiên là khi ông ta ngồi vào chổ thì một cán bộ lại đem đến một chai bia thay vì ly nước như thường lệ!
Tôi cũng không nhớ nhiều về những điều mà Hoài Thanh đã nói trong buổi diễn thuyết về thơ của Hồ vì thơ của Hồ rất tầm thường, có thể nói là giống như thi ca hò vè của Việt Nam, có khi còn dở hơn, với những bài thơ lục bát, ngoài một tập thơ bằng chử Hán tên là “Ngục Trung Nhật Ký” mà chúng tôi nghĩ là không phải của hắn ta. Điều duy nhất tôi nhớ về Hoài Thanh là lời mở đầu của ông ta với một câu rất bạo là: “Thơ của Hồ Chủ tịch sở dĩ hay vì đó là thơ của Hồ Chủ tịch!” Tôi không biết sao ông ta lại dám nói như vậy trong một bài diễn thuyết cho chúng tôi nghe? Một sự nhạo báng Hồ là một trọng tội trong quốc gia của VC! Nhưng tôi nghĩ chắc là các cán bộ cũng không hiểu ẩn ý của lời ông ta nói vì khi thấy chúng tôi vỗ tay thì họ cũng vỗ tay theo.
Khoảng giữa trưa, sau khi Hoài Thanh rời hội trường, trại phó Bào lên nói vài điều về ba ngày lễ lớn. Để kết luận, ông ta nói rằng để thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước, trại cho phép chúng tôi có cơ hội để thăm gặp gia đình trong hai ngày 1 và 2 tháng 9.
Mười bốn tháng kể từ lúc vào trại, có lẽ đây là lúc mà tôi thấy kích động nhất.
Sau khi đã nghe chính sách của Đảng và Nhà Nước về ba năm tập trung cải tạo, tôi không còn tin tưởng được nữa. Đầu tiên thì chúng bảo rằng chúng tôi phải mang theo thức ăn cùng quần áo chăn màn cho một tháng, và bây giờ thì ba năm tập trung cải tạo và sẽ được tha ra khỏi trại khi đạt được tiến bộ. Chúng lại chơi chữ một lần nữa! Thế nào là tiến bộ? Không ai có thể giải thích được hay biết được điều này. Tôi nghĩ rằng điều đó có nghĩa là chúng có thể giử chúng tôi mãi mãi hay có thể thả chúng tôi bất cứ khi nào nếu chúng muốn.
Con đường trở về với gia đình của tôi đã bị tắt nghẽn! Cuộc sống còn lại của tôi, ngay cả nếu ở ngoài xã hội thì cũng chỉ là một sự vô vọng mà thôi. Sống trong trại cải tạo thì cũng giống như một cuộc sống không có linh hồn. Ngày này qua ngày khác, tôi sinh hoạt như một cái bóng: làm việc, ăn, ngủ với tiếng kẻng giống như một người máy hoặc như con chó Pavlov. Tâm tư tôi không còn hiện hữu trong tôi nữa. Đôi khi tôi vừa làm việc mà lại vừa nghĩ tới gia đình tôi, ngay cả trong giấc ngủ. Họ chính là cứu cánh của cuộc đời tôi. Được gặp gia đình, đó quả là sự kích thích vô cùng đối với tôi, và với những người khác nữa! Viết thư và hai tuần lể chờ đợi, quả là lâu.
Tôi cũng không biết viết gì trong thư cho gia đình khi mà bức thư ấy sẽ bị các cán bộ kiểm duyệt cẩn thận. Họ không muốn chúng tôi suy nghĩ nhiều về gia đình để mà an tâm cải tạo và tin tưởng tuyệt đối vào chính sách của Đảng và Nhà Nước. Thật là một điều rất buồn cười khi bảo chúng tôi phải yên tâm để ở tù và tin tưởng vào những lời nói dối của chúng! Nhưng chúng tôi cũng phải nói như vậy như một con vẹt. Ở trong trại cải tạo, chúng tôi không những chỉ bị cưỡng bức lao động mà còn bị cưỡng bức suy tư nữa. Trong bức thư cho gia đình gửi qua cán bộ, tôi chỉ viết để báo tin cho gia đình tôi về việc thăm nuôi cùng ngày giờ và địa điểm, hỏi thăm về bà ngoại tôi, mẹ tôi, về vợ con tôi cùng mọi người trong gia đình. Tôi lén viết một bức thư khác cho vợ tôi và dấu trong cái quai của cái giỏ xách dự định sẽ mang ra cho gia đình tôi hôm thăm nuôi mặc dù tôi cũng biết trước là họ sẽ khám xét rất kỹ. Tôi muốn cho vợ tôi biết rằng ngày trở về của tôi chắc là còn lâu lắm; mà vợ tôi hãy còn trẻ. Tôi muốn cô ta hãy quên tôi đi mà làm lại cuộc đời khác, nhưng rồi tôi lại không đủ can đảm để viết điều ấy. Tôi chỉ viết để khuyến khích vợ tôi hãy sống trong một xã hội mới không có tôi. Tôi yêu cô ấy nhưng lại không muốn cô ấy bỏ phí cuộc đời. Tôi chỉ muốn được gặp con trai tôi và nghĩ rằng vợ tôi sẽ tự nuôi con được cho dù cô ấy có rời tôi đi nữa.
Trong những ngày này, chúng tôi lại bận rộn di chuyển trong trại vì có một số trại viên mới đến. Họ là những thành phần được gọi là nạn nhân của chế độ cũ, gái điếm và gái bán bar và được đưa vào trại để được “phục hồi nhân phẩm”, một danh từ mới để thay thế cho việc bỏ tù! Những trại viên mới này được ở trong ba nhà ở khối 1. Chúng tôi phải dồn lại và khối 3 chỉ còn ở trong hai nhà thay vì ba như trước; những cái sạp gỗ của chúng tôi phải được đặt sát vào nhau.
Ngày 1 tháng 9, ngày đầu tiên trong lịch trình thăm nuôi, tất cả chúng tôi rất kích thích. Mọi người đều chọn những bộ quần áo đẹp nhất để chuẩn bị. Sau hơn 14 tháng lao động trong trại, bộ đồ đẹp nhất của tôi là cái quần đã sờn gối và cái áo đã sờn cổ! Khoảng chín giờ sáng, vài người đã được gọi ra để thăm gặp gia đình. Họ mang theo những cái giỏ xách trống, xếp vào hàng để được khám xét, và rồi đi ra. Tôi cũng chờ đợi trong sự nôn nao. Tôi không biết là gia đình mình sẽ lên thăm hôm nay hay ngày mai. Bức thư viết riêng cho vợ tôi cũng đã dấu kỹ trong tay xách của cái giỏ. Tôi nhìn cách khám xét của họ mà cảm thấy hơi an lòng.
Khoảng trưa, Điệp và tôi được gọi cùng lúc; tôi nghĩ chắc hai gia đình đã đi chung vì hai nhà ở gần nhau. Đã bắt đầu đông trại viên được thăm nuôi vào thời gian ấy, do đó việc khám xét dễ dàng hơn. Bà ngoại tôi, mẹ tôi cùng vợ con tôi đến thăm. Tôi nhìn thấy mọi người khi đi đến gần nhà thăm nuôi, đặc biệt là vợ tôi đang ẵm con trong tay. Con tôi trông rất nhỏ nhắn, hoặc là đã quá lâu tôi không nhìn thấy một đứa bé, tôi không biết rõ. Vợ tôi thì trông gầy hơn trước dù rằng cô ấy vốn cũng đã gầy rồi. Tôi cảm thấy tội nghiệp vợ tôi vì đã chịu quá nhiều đau khổ. Ba năm hạnh phúc không đáng để cô ấy phải trải qua những đau khổ này.
Mười lăm phút không thể đủ để chúng tôi nói với nhau những điều muốn nói, và thêm vào đó còn có cán bộ quan sát nữa. Họ luôn muốn chúng tôi nói dối về tình trạng của chúng tôi. Những cuộc đối thoại của chúng tôi toàn là những lời nói dối, nhưng chúng tôi lại hiểu nhau qua những lời nói dối ấy. Tôi thử bế con tôi, nhưng nó lại khóc đòi mẹ. Bà ngoại tôi thì trông rõ ràng là già và gầy hơn, nhưng giọng bà vẫn oang oang. Đó là lần cuối cùng tôi gặp bà, và cái hôn giã từ tôi vẫn nhớ mãi. Mẹ tôi không nói lời nào. Tôi nắm tay mẹ tôi và nhìn thấy những giọt nước mắt của mẹ tôi. Mẹ tôi đã chịu đựng quá nhiều đau khổ kể từ khi ba tôi rời gia đình đi vào mật khu và chết trong ấy. Cả cuộc đời mẹ tôi đã hiến cho con cái. Tôi không biết nói gì với mẹ tôi mà chỉ nhìn bà.
Tôi nói nhỏ với vợ tôi về bức thư trong cái quai của túi xách, và vợ tôi cũng cho tôi biết cô ta có viết cho tôi bức thư để trong hộp mắm ruốc. Dấu thư trong hộp mắm ruốc, một món đồ vừa nhầy nhụa lại hôi nữa, quả là một sáng kiến! Tôi nhìn thấy vợ tôi khóc khi tôi hôn nàng lúc từ giã. Mười lăm phút thăm gặp đã trôi qua. Mọi người đứng lên một cách uể oải như muốn kéo dài thêm giây phút giã từ! Các cán bộ phải bảo trại viên xếp hàng nhanh lên để vào trại nhường chổ cho nhóm khác; đó có lẽ là phương cách duy nhất để chấm dứt thời gian thăm nuôi. Tôi xách hai túi quà chậm chạp đi xếp hàng. Vợ tôi quay đi chổ khác để giấu những giọt nước mắt. Sự nao nức lúc chờ đợi đã nhường chỗ cho sự buồn bã lúc chia tay. Trại viên bước vào trại mà còn quay mặt lại cho đến khi đã đi qua khỏi cổng trại, cánh cổng ngăn cách hai nhà tù: nhà tù của các trại viên trong trại cải tạo và nhà tù cho dân chúng trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Có quá nhiều trại viên thăm nuôi cho nên việc khám xét càng lúc càng dễ dàng hơn. Không có đủ cán bộ, họ cho phép vài trại viên đội trưởng phụ làm việc này. Tôi xếp mọi vật riêng rẽ ra từng cái một trên sàn của hội trường. Cán bộ chỉ đứng quan sát trong khi một trại viên của khối 1 xét đồ đạc tôi bằng cách cầm lên rồi đặt xuống từng món một chứ không hề mở ra. Tôi lo cho bức thư của vợ tôi, nhưng mọi việc diễn ra êm xuôi.
Bức thư mười trang giấy mà vợ tôi đã viết cả tuần trước khi đến thăm tôi. Vợ tôi bảo rằng cô ta sẽ không có thời gian và cơ hội để nói với tôi những điều mà cô ấy đã trải qua từ lúc rời trường Chu Văn An về với gia đình. Điều ấy đã từng xảy ra thế hệ này sang thế hệ khác trong các gia đình ở Việt Nam! Sự xung đột giữa gia đình chồng với người vợ luôn là đề tài chính trong nhiều gia đình. Người Việt Nam thường sống với nhau cả 3 thế hệ dưới một mái nhà, do đó sự đối kháng này khó có thể tránh được, đặc biệt là khi người vợ, một người lạ, sống một mình trong gia đình bên chồng. Cái gọi là mẹ chồng và em chồng là những điều đã xảy ra tự ngàn xưa, tiếp tục đến bây giờ, và không biết còn xảy ra bao lâu nữa? Tôi đã biết điều này từ ngày đầu tiên chúng tôi sống chung, và tôi cũng đã cố gắng để có mái nhà riêng. Nhưng khi vợ tôi trở về lại với gia đình thì mọi cái lại trở lại như cũ, có thể còn xấu hơn vì không còn tôi ở nhà nữa. Điều khó khăn cho vợ tôi là trong xã hội mới này, vì là nhân viên của chế độ cũ, vợ tôi không thể tìm được việc làm nào cho cuộc sống mà phải chia xẻ cảnh nghèo với gia đình tôi. Thêm vào đó, theo một thói tục cũ của Việt Nam, người đàn bà khi đã có chồng thì phải ở chung với gia đình bên chồng một khi người chồng xa nhà, vợ tôi không thể nào làm khác hơn.
Về tình trạng của gia đình tôi, vợ tôi không nói gì rõ ràng mà chỉ viết rằng cô ấy đã phải thường xuyên đi xếp hàng để mua gạo và mọi vật dụng trong gia đình, nhưng ít ra thì cô ấy cũng mua được vài món. Con tôi thì cũng đủ sữa trộn với nước cháo, và mặc dù bà ngoại tôi rất ghiền cà phê sữa, bà cũng phải nhường sữa cho cháu. Không những trong trại chúng tôi học cách nói dối mà cả bên ngoài mọi người đều làm chuyện ấy. Chúng tôi nói dối nhau và lại hiểu nhau qua lời nói dối ấy.
Đất nước thì tả tơi; dân chúng trong nước thì nghèo nàn, nhưng mọi người phải nói rằng đất nước ta giàu đẹp; khó khăn chỉ là tạm thời! (Tạm thời đến bao giờ, hay là mãi mãi?) Tôi biết về tình trạng của gia đình mình nên đã không xin gì cả. Tôi không muốn làm gánh nặng cho họ. Những gói quà của gia đình giúp tôi rất nhiều trong trại, nhưng lại là mối lo cho gia đình tôi vì họ phải chia xẻ cho tôi phần đã quá ít oi của họ. Tôi không thể nào hiểu nổi một quốc gia mà người dân lại phải xếp hàng để mua mọi thứ cần thiết cho đời sống của họ. Đó chính là một minh chứng hùng hồn cho câu nói “đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỷ những gì mà Cộng Sản làm”.
Đêm ấy, tôi không thể nào ngủ được mà cứ nghĩ đến gia đình, nghĩ đến những gì sẽ viết trả lời cho thư vợ tôi. Tôi có thể viết gì bây giờ trong cảnh này ngoài việc trấn an cô ta với tình yêu của tôi? Tôi cũng không biết được tình yêu của mình sẽ là sự an ủi hay là nỗi tuyệt vọng cho vợ tôi. Mới có 25 tuổi, cô ấy đã phải đè nén bao nhiêu ham muốn để sống một mình nuôi con và chờ đợi cho một mối tình viễn vông và vô vọng, quả là một hoàn cảnh ngang trái! Trong thư của vợ tôi, cô ấy viết rằng cô ấy rất hạnh phúc khi có được tình yêu của tôi dành cho cô ấy, một mối tình mà không dễ gì ai cũng có được. Cô ấy có ý muốn đợi tôi ba năm như chính sách của Đảng và Nhà Nước quy định cho các trại viên trong trại cải tạo, nhưng điều gì đây nếu đó không phải là ba năm. Cô ấy không biết cô ấy sẽ ra sao đây nếu mà chúng tôi chỉ còn gặp được nhau khi tóc đã bạc!Tôi trả lời thư của vợ tôi thế nào đây khi mà chính tôi cũng không tin điều mà VC đã nói? Đời tôi thì hình như đã hết rồi, còn vợ tôi thì thế nào? Tôi không muốn ích kỷ, nhưng tôi phải nói gì đây? Tôi vẫn nhớ câu nói : “mất đất nước vào tay Cộng Sản là mất tất cả”. Nhưng mà tôi biết rằng vợ tôi sẽ không bỏ tôi được đến khi cô ấy không còn hy vọng gì, hoặc là khi tôi đã chết. Đôi lúc tôi cũng có nghĩ đến cái chết như một sự giải thoát khỏi mọi đau khổ cho chính tôi và cho vợ tôi nữa. Tôi nghĩ đến mọi điều nhưng rồi chỉ viết ra những diễn biến trong tâm tư tôi khi tôi được gặp vợ con và gia đình mình. Nhìn cảnh tượng vợ tôi ôm con, tôi biết rằng cô ấy đang hạnh phúc vì đứa con chính là những gì mà cô ấy đã mong ước.
Ngày 2 tháng 9, ngày lễ Độc Lập của VC, nhưng cũng không có tổ chức lễ lộc gì vì họ bận rộn cho ngày thăm nuôi cuối cùng của trại viên. Tôi không còn chờ đợi ai đến thăm nữa mà chỉ ngồi tại chỗ đọc đi đọc lại bức thư và suy nghĩ về vợ con tôi. Khoảng trưa, Điệp lại được gọi ra để nhận thêm quà. Anh ta cho tôi biết rằng tôi có một gói nhỏ kèm theo. Vợ tôi gửi thêm cho tôi một ít mì khô và quan trọng hơn là bức thư mà tôi nghĩ là cô ấy dấu bên trong. Tôi lục kỹ và tìm ra bức thư nằm giữa cuộn mì khô. Vợ tôi viết về những diễn biến trong tâm tư của cô ấy khi gặp tôi rằng cô ấy đã run rẩy và đổ mồ hôi giống như là bị bịnh khi thấy tôi đi từ trong trại ra. Vợ tôi bảo là cô ấy nghĩ tôi đến từ địa ngục, và nghĩ rằng cô ấy chắc không thể nào gặp lại tôi được. Trên đường về nhà, những người đi cùng còn bảo rằng ai mà hôn vợ sẽ bị phạt khi trở vào trại và hỏi tôi có bị phạt không(?) Cô ấy muốn sẽ vượt qua mọi khó khăn để đợi tôi.
Tôi yêu cô ấy nhiều, nhưng tôi không muốn để cô ấy thất vọng. Tôi không biết làm sao để cho cô ấy biết điều ấy. Mặt khác, cô ấy đang sống trong hy vọng và hạnh phúc với đứa con. Tôi không thể tiêu diệt giấc mơ của vợ tôi. Người ta bảo rằng: sống là hy vọng; cô ấy đang sống, do đó tôi không thể giết chết sự sống của cô ấy. Trong thư, tôi đã viết rằng tôi sẽ yêu cô ấy mãi cho dù cô ấy có sống trong một cuộc sống khác không có tôi đi nữa! Tôi không muốn cô ấy bỏ phí cuộc đời để đợi tôi, nhưng thật tình thì trong thâm tâm tôi vẫn mong một ngày trở về với cô ấy. Dù không tin vào thời gian ba năm cải tạo như VC đã nói, nhưng tôi vẫn hy vọng điều đó là đúng. Hai mặt trái ngược luôn luôn xung đột trong lòng tôi khiến tôi không đi tới một quyết định nào được nữa.
Thời gian thăm gặp đã hết, trong lúc chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau thì có vài chiếc xe đò trống đi vào trại đậu ở gần cổng chính. Điều gì xảy ra đây? Kể từ khi những người được gọi là nạn nhân của chế độ cũ đến trại chúng tôi cũng chờ đợi cho sự việc xảy ra. Nhưng chúng tôi không mong nó xảy ra quá cận lúc chúng tôi vừa thăm nuôi. Đồ đạc chúng tôi quá cồng kềnh. Chúng tôi phải gói gọn chúng lại mặc dù chưa ai nói điều gì hết.
Mười giờ tối hôm ấy, Tư Điệp và Bảy Sói, hai cán bộ phụ trách khối 3 đến gọi chúng tôi sửa soạn để di chuyển. Chỉ vài người đang nấu ở nhà bếp là còn ở lại để nấu nướng vài ngày chờ bàn giao lại cho những trại viên mới. Chúng tôi hầu hết đã chuẩn bị và chờ đợi, nhưng chưa biết chắc mình sẽ đi đâu. Một nhóm đã đi sang trại Thủ Đức vài ngày trước khi những nạn nhân của chế độ cũ đến. Chúng tôi chắc cũng vậy thôi. Vợ tôi cũng đã nói cho biết rằng Linh, anh rể của vợ tôi đã đi khỏi trại Thủ Đức đến một trại nào đó ở miền Bắc, do đó có lẽ chúng tôi sẽ thay thế các trại viên ở trại Thủ Đức. Vài ngày trước khi thăm gặp gia đình, ban giám thị đã chiếu cho chúng tôi xem phim có tựa đề “Chuyện Chúng Mình” nói về đời sống của một trại viên trong một trại ở miền Bắc, và tôi nghĩ đó chính là chuẩn bị tinh thần chúng tôi cho cuộc di chuyển này. Tôi đã sẵn sàng, không còn lo lắng gì cả vì ít ra tôi đã gặp được gia đình tôi. Nếu điều gì đó xảy đến cho tôi, tôi sẽ chấp nhận nó như một điều dĩ nhiên.
Khoảng nửa đêm, chúng tôi rời khỏi trại Long Thành sau một năm hai tháng mười tám ngày ở trại này.
(còn tiếp) -
27-09-2016, 10:54 #5

Administrator
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,567
- Thanks

- 1
- Thanks

- 41
- Thanked in
- 39 Posts
(tiếp theo)

Phần 3
Chương 20
Trại Cải Tạo Thủ Đức
Cảm tưởng đầu tiên khi đến trại Thủ Đức là chúng tôi thật sự ở tù! Trại là trung tâm cải huấn nữ can phạm của thời Việt Nam Cộng Hòa. Nó đã được xây dựng từ thời thực dân Pháp, tôi không biết rõ lắm, nhưng quả thật là rất kiên cố. Gần mười lăm tháng ở trại Long Thành, chúng tôi chưa hề bị nhốt trong phòng giam, nhưng khi vừa đến trại Thủ Đức, điều đầu tiên mà họ làm là khóa trái cửa phòng lại ngay sau khi chúng tôi đi vào.Trại nằm trong thị xã Thủ Đức, cách Sài Gòn khoảng 15 cấy số. Một vòng rào làm bằng tường xi măng bao quanh trại với kẽm gai bên trên. Hai bên của cánh cổng chính bằng sắt là hai vọng gác. Ở mỗi góc tường có một chòi canh. Một cái sân rộng phía sau cổng chính dẫn đến một bức tường ngăn cách sân với khu trại giam bên trong; chỉ có một cánh cổng nhỏ ở bức tường ấy. Vài kiến trúc ở phía góc sân được dùng làm văn phòng cho cán bộ và cho ban giám thị. Qua bức tường ấy, chúng tôi đã phải đi giữa một con hẻm hẹp khoảng một mét rưỡi có hai bức tường ở hai bên trông giống như giao thông hào.
Đầu tiên, tôi được dẫn vào một phòng giam ở khu B. Có hai cái bục xây bằng xi măng cao khoảng một thước ở sát hai bên tường. Phần giữa hai bục ấy là lối đi dẫn đến một cái nhà cầu ở cuối phòng. Những bức tường xây quanh cái sân nhỏ phía trước phòng giam, do đó chúng tôi chỉ thấy được những người cùng buồng giam chứ không thể nhìn thấy được những người ở khác buồng. Bốn mươi người được nhốt trong một phòng giam có một nhà cầu với hai lỗ cầu được thông bằng nước và một vòi tắm. Ít ra thì nó cũng sạch sẻ hơn cái cầu xí ở Long Thành.
Vài ngày sau, họ di chuyển tôi đến nhà giam số 4 trong khu A cùng với các bạn khác; chúng tôi chuẩn bị để di chuyển! Hình bát giác của nhà giam số 4 khiến nó trông giống như ngôi nhà thờ. Vài người nói rằng nó cũng đã từng là nhà nguyện cho các nữ tu đạo Công giáo, và trại Thủ Đức này cũng từng là nhà dòng.
Nhà giam số 4 giam được khoảng bốn trăm người. Chúng tôi ngủ trên những cái bục xi măng cao hơn lối đi khoảng một thước. Một cái nhà vệ sinh lớn nằm phía bên phải của phòng giam có bốn lỗ cầu, hai vòi tắm và một bồn rửa mặt. Có rất nhiều khung cửa sổ chung quanh với những song sắt và một cánh cửa duy nhất đi ra một cái sân rộng ở gần cổng đi ra sân trước của trại. Ba buồng giam khác nằm đối diện với phòng giam số 4 cũng thuộc khu A, do đó chúng tôi có thể trông thấy các bạn tù khác ở những phòng giam kia. Tất cả chúng tôi trong khu A là được chuẩn bị để di chuyển. Trại Thủ Đức chỉ là trạm trung chuyển, do đó chúng tôi không phải làm gì cả ngoại trừ người nào muốn tình nguyện đi bửa củi cho nhà bếp.
Mỗi sáng, một cán bộ đến buồng giam để mở cửa; ông ta đứng ở cửa, và chúng tôi phải ngồi tại chổ đếm số theo thứ tự từ số 1 đến số cuối cùng. Chúng tôi chỉ có nửa giờ để ra ngoài sân phơi nắng hay tập thể dục rồi lại phải vào lại buồng giam để nghe đọc báo cho đến giờ cơm trưa. Buổi chiều, chúng tôi thay phiên nhau để tắm giặt. Sau khi ăn chiều, cán bộ lại đến để kiểm tra trước khi đóng cửa buồng giam; đôi khi chúng tôi phải đứng xếp hàng ở trong sân để điểm vào phòng, nhưng thường thì cũng ngồi đếm số trong phòng giống như buổi sáng.
Khi chúng tôi đến trại Thủ Đức, đã có hai nhóm trại viên di chuyển khỏi trại để đi đến trại nào đó ở miền Bắc Việt Nam. Đó là hai nhóm từ trại Long Thành: nhóm thứ nhất đã rời trại Long Thành sau mấy tuần đầu và nhóm nữa thì mới vừa rời trại Long Thành cách đó không lâu. Tôi nghe nói họ được chuyển đi trại Nam Hà ở miền Bắc.
Lần này là đến phiên chúng tôi.
Thời gian ở trại Thủ Đức là lúc mà chúng tôi khỏe nhất trong các trại cải tạo. Ngoài việc không phải làm gì, chúng tôi còn được ăn uống tương đối đầy đủ hàng bữa với cơm và canh cà chua hay bí xanh cùng một ít thịt. Chúng tôi bảo nhau rằng họ bồi dưởng chúng tôi để sẵn sàng đi lao động khổ sai! Đó là câu nói đùa nhưng cũng không xa với thật tế.
Khoảng mười ngày sau, vài nhóm trại viên khác đến lấp đầy các phòng giam ở trại Thủ Đức, và số còn lại ở trại Long Thành cũng được đưa qua đây luôn. Các cán bộ đến phòng giam số 4 để đọc danh sách các trại viên chuẩn bị để di chuyển, ai không có tên thì được dời sang phòng giam khác. Tôi thuộc nhóm di chuyển.
Chúng tôi không làm gì nữa kể từ hôm ấy, chỉ túm tụm nhau bàn tán về cái trại sắp tới.
Hai hôm sau, một cán bộ đến phòng giam số 4 và gọi Tuân cùng tôi đi hỏi cung, và rồi hai chúng tôi được dời sang một phòng giam khác để số còn lại chuyển đi vào đêm hôm ấy. Họ được di chuyển đến trại Lào Kai và Quảng Ninh ở miền Bắc Việt Nam
Chương 21
Tôi Ở Lại Đề Điều Tra
Thật ra thì không có gì đặc biệt để kể về trại Thủ Đức vì đó chỉ là một trạm trung chuyển!Khi Tuân và tôi ở lại để bị hỏi cung thì họ chuyển chúng tôi đến khu B của trại.
Ngoại trừ khu A có bốn phòng giam có chung cái sân rộng, các nhà khác trong trại đều được ngăn cách nhau bởi những bức tường, do đó trại viên trong các nhà giam khác nhau không thể trông thấy nhau được ngoại trừ lúc đi lãnh cơm ở nhà bếp. Nhưng luôn luôn có một cán bộ hay một thi đua đi kèm.
Có nhiều loại trại viên được giam ở trại Thủ Đức như: tội phạm hình sự, những người trong cái mà VC gọi là “những tổ chức phản động”, những người đã đứng lên chống lại Cộng Sản sau ngày 30 tháng tư năm 1975, những người tổ chức vượt biên hay vượt biên bị bắt lại, những nhà triệu phú bị bắt khi VC đánh tư sản mại bản trong chiến dịch “cải tạo kinh tế tư bản”, và những nhân viên của chế độ cũ. Họ giam mỗi loại trong mỗi khu khác nhau. Khu A là để dành cho những trại viên tạm thời chờ đợi để di chuyển. Khu B giam những nhân viên chế độ cũ và các nhà triệu phú. Khu C giam giữ tội phạm hình sự, các người trong những tổ chức chống đối và thuyền nhân.
Không như ở trại Long Thành, tôi không thể biết được có bao nhiêu trại viên trong trại Thủ Đức vì họ được đưa đến và chuyển đi liên tục và vì chúng tôi không trông thấy nhau.Cái gọi là khu B thì chỉ có một dãy nhà với hai buồng giam và cái sân phía trước bao quanh bởi các bức tường. Khi được đưa đến đây, đã có khoảng một trăm trại viên khác ở đó trước rồi. Họ đã được chuyển đến từ trại Long Thành và chưa được chuyển đi ra miền Bắc. Tôi rất ngạc nhiên về sự hiện diện của vài người như các ông Cang, nguyên đặc ủy trưởng của cơ quan tình báo, Trang trưởng ban A8, Lương trưởng ban A10, Việp và Nhụ chánh nhất tòa thượng thẫm Sài Gòn. Trong phòng giam số 1, hầu hết các trại viên là nhân viên củ của chính quyền Nam Việt Nam và vài triệu phú như dược sĩ La Thành Nghệ, ông vua kẽm gai Hoàng Kim Qui. Phòng giam số 2 gồm các trại viên từng làm trong lực lượng cảnh sát và cơ quan tình báo Việt Nam Cộng Hòa.
Chúng tôi không phải làm gì suốt thời gian ở khu B, và do một lý do gì đó mà tôi không rõ, ban giám thị trại lại dường như rất dễ dàng đối với chúng tôi hơn lúc nào hết. Họ không đóng cửa phòng giam cho đến sáu giờ chiều mỗi ngày và cho phép chúng tôi được đi lại trong sân, nấu nướng và tập thể dục.
Cuộc hỏi cung đã được diễn ra gần hai tháng. Đầu tiên tôi phải đi làm việc hàng ngày rồi về phòng viết đi viết lại bản khai báo những điều mà họ hỏi. Sau đó, thỉnh thoảng họ mới kêu tôi lên một lần, và rồi họ không còn gặp tôi nữa vì có lẽ đã xong.
Điều họ muốn hỏi tôi là tất cả những gì mà tôi biết được có liên quan đến “lực lượng thứ ba”, những người mà tôi đã theo dõi từ năm 1970 đến 1972 trước khi tôi làm việc cho ban A17. Vài người trong nhóm này đang làm việc cho VC như bà Ngô Bá Thành, hiện đang làm dân biểu trong quốc hội của VC. Họ cũng đã là những người đã từng làm xáo trộn hậu phương để giúp cho VC có thêm cơ hội để thôn tính miền Nam Việt Nam. Tôi chẳng ưa bọn này vì họ là những người đứng cửa giữa để hưởng lợi của cả hai phía.
Tôi nghĩ rằng những điều mà tôi biết về Lực Lượng Thứ Ba là quá ít ỏi bởi vì lúc ấy tôi chỉ theo dõi họ dưới tư cách là ký giả cho tờ nhật báo “The Saigon Post”. Những gì tôi nhìn thấy về họ chỉ là diện bên ngoài! Bà Ngô Bá Thành là người đã tốt nghiệp Luật khoa ở Đại Học Sorbonne, Pháp; chồng bà ta là Ông Ngô Bá Thành, một bác sĩ thú y làm giáo sư cho trường Đại Học Nông Lâm Súc Sài Gòn. Luật sư Trần Ngọc Liễng thì đã từng làm bộ trưởng quốc phòng thời Đệ nhất Cộng Hòa. Đại tướng Dương Văn Minh, chủ tịch của Hội đồng tướng lãnh của Quân Lực Nam Việt Nam, người đã lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Tất cả bọn này đã từng giữ những chức vụ cao ở Nam Việt Nam trước đây. Họ chống đối với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, hay do một lý do nào khác mà tôi không biết, đã liên kết với những tăng lữ Phật Giáo Ấn Quang để hình thành cái gọi là “Lực Lượng Thứ Ba”; một lực lượng mệnh danh là đứng giữa nhưng chỉ chống lại chính phủ Việt Nam Cộng Hòa chứ không hề chống lại VC.
Mọi điều tôi viết cho VC là điều mà họ đã biết rồi vì họ cũng có nhiều người trà trộn trong “Lực Lượng Thứ Ba”. Lực Lượng thứ Ba, những kẻ đã giúp VC thôn tính miền Nam Việt Nam gần đây; tôi không hiểu tại sao VC lại hỏi tôi về họ. Họ đã nghi ngờ điều gì đó chăng, hay VC muốn có bằng cớ để lật đám này xuống. VC thì luôn luôn làm như vậy với những ai không phải là Cộng Sản. Tôi nghĩ thật là ngu khi họ muốn chiếm một địa vị nào đó trong guồng máy của Cộng Sản mà không gia nhập Đảng Cộng Sản. Ngay cả dù cho họ có muốn gia nhập đảng Cộng Sản đi nữa thì họ cũng chỉ giữ được những chức vụ nhỏ thôi chứ làm sao mà leo lên được những chức vụ cao như lúc họ ở trong chính quyền miền Nam Việt Nam trước đây? VC chỉ xử dụng những người này tạm thời mà thôi để lấy lòng dân chúng; bây giờ đây có lẽ là lúc mà VC muốn loại trừ những người này ra khỏi tổ chức.
Thêm hai đợt di chuyển nữa xảy ra vào thời gian này, nhưng Tuân và tôi vẫn còn ở lại trại Thủ Đức để điều tra. Hai tháng sau, chúng tôi chuyển đến khu D, bỏ trống khu B cho những trại viên được chuyển đến và chuyển đi.
Reply With Quote