Chương 28-29-30

Chương 28

Dưới Hai Tầng Áp Bức

Trại Tân Lập không phải là một trại mới xây như tên gọi của nó. Tân Lập là một mẫu mực của một trại cải tạo của Việt Cộng bởi vì nó đã được thành lập từ thời 1954 sau khi Cộng Sản thôn tính miền Bắc Việt Nam. Nó đã từng là trại giam giữ các nhân viên của thời Pháp. Trong phong trào “Nhân Văn Giai Phẩm” 1955 ở miền Bắc, nó lại được dùng để tập trung các văn thi sĩ có những tư tưởng chống Cộng. Tân Lập cũng đã từng là nơi để nhốt những địa chủ trong giai đoạn “Cải Cách Ruộng Đất” ở miền Bắc sau 1954. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, các tù binh Mỹ cũng đã bị giam ở đó. Trước khi chúng tôi đến trại thì Tân Lập đã là trại cải tạo các thiếu nhi phạm pháp và các trẻ bụi đời. Với một lịch sử như vậy, Tân Lập là một trại cải tạo tổ chức rất hoàn hảo.

Cơ cấu tổ chức nhân sự của trại Tân Lập gồm hai thành phần: Các đơn vị Công An VC quản lý trại và các trại viên.

Các sĩ quan công an VC được chia làm hai bộ phận, “Ban Giám Thị” và “Hội Đồng Cán Bộ”. Ban Giám Thị hay Ban Chỉ Huy trại gồm những Công An trông coi các việc điều hành chung trong trại như Trưởng trại, các trại phó đặc trách mỗi K, các trại phó trông coi các ban ngành như kế hoạch, giáo dục, chấp pháp, và an ninh. Hội đồng cán bộ bao gồm hai bộ phận chính, đó là các cán bộ quản giáo trông coi trại viên trong mỗi đội và các cán bộ vũ trang hay cán bộ “bảo vệ” có nhiệm vụ canh gác trại và quan sát trại viên lao động bên ngoài trại.

Trại viên trong trại được chia thành từng đội và tổ. Mỗi đội gồm khoảng từ ba mươi đến bốn mươi trại viên với một trại viên được sự tín nhiệm của ban giám thị hay cán bộ quản giáo làm đội trưởng. Đội được chia thành ba hay bốn tổ tùy theo công việc của từng đội. Mỗi tổ có khoảng mười trại viên và có một tổ trưởng trông coi công việc lao động do đội trưởng hay cán bộ quản giáo giao phó cho tổ ấy.

Một tổ chức đặc biệt của trại Tân Lập là cái gọi là “Ban Thi Đua” gồm có “Thường Trực Thi Đua” và “Hội Đồng Tự Quản” bao gồm các đội trưởng. Đó là những cái tai và mắt của Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ.

Khi chúng tôi vừa đến trại Tân Lập thì cái gọi là “Thường Trực Thi Đua” nằm trong tay của các tội nhân hình sự, với Bích, một tên “mắt lé răng hô”, và Khôi nắm giữ mọi sinh hoạt trong trại. Chúng rất có thế lực! Có lần tôi được gọi lên văn phòng của chúng để kẻ khẩu hiệu, tôi thấy có một cán bộ kế hoạch của trại vào để hỏi vài trại viên đi theo làm công việc gì đó. Bích đang nằm để một phạm nhân xoa bóp trong phòng riêng phía bên trong văn phòng của thường trực thi đua; hắn ta la lớn lên rằng “bảo ông ta đợi tôi, tôi đang bận!” Tôi không hiểu hắn ta là loại tù gì? Nếu là trại viên thì chắc đã bị phạt nặng lắm rồi!

Còn Khôi thì hàng mỗi buổi sáng ngồi ở bệnh xá để cho phép trại viên được nghỉ bệnh trong trại hay không. Các trại viên nào muốn khỏi đi lao động thì phải có cái gì đó đút lót cho hắn!

Trong khi trại viên chỉ có một chén nhỏ bo bo thì chúng có đầy dẫy thức ăn; trong khi trại viên bị nhốt trong phòng giam thì chúng có riêng phòng ngủ và có riêng những người phục dịch để giặt giũ và ủi áo quần! Chúng dường như là những ông vua ở trong trại. Không ai biết về tội trạng của chúng và án tù mà chúng bị xử. Tôi nghe vài phạm nhân hình sự bảo rằng Bích đã từng là một cán bộ kinh tài làm trong bộ tài chánh ở Hà Nội, thủ đô của Bắc Việt. Hắn ta ăn cắp tiền của bộ và bị xử hai mươi năm. Khôi thì là một sĩ quan ở địa phương có tội giết vợ nên bị tù chung thân. Ban Giám Thị trại rất tin tưởng bọn chúng nên trao cho bọn chúng hết mọi quyền hành trong trại.

Vào năm 1978, vài trại viên trong nhóm “Chế độ cũ của miền Nam” gia nhập vào “Thường Trực Thi Đua”. Khôi được dời đi K1, nhưng Bích thì vẫn là trưởng ban thi đua cho đến khi được tha ra khỏi trại vào năm 1981.

Tôi không muốn phê bình hay kết án các hành động của Ban Thi Đua trong nhóm của các trại viên đến từ miền Nam. Tôi chỉ muốn kể lại ở đây những gì đã xảy ra ở trại Tân Lập. Đối với những ai đã ở trại Tân Lập thì tôi nghĩ họ đã biết quá nhiều về các Thường Trực Thi Đua này. Còn đối với những người khác thì tôi nghĩ chắc là khó có thể tin được những việc làm của họ là sự thật. Đôi khi chính tôi còn phải tự hỏi rằng những người ấy là công an của VC hay là tù cải tạo?

Uyển, Bình, Tú, Diêu vân vân là những “thường trực thi đua” được điều khiển bởi Bích và hành động cũng giống như Bích. Trại viên trong trại bị áp bức bởi hai bộ phận: Các Cán Bộ và các Thi Đua. Điều nguy hiểm của Cộng Sản là chúng dùng thủ đoạn “ném đá dấu tay”, dùng Thi Đua như một công cụ của chúng để điều hành trại. Các cán bộ thì luôn miệng nói rằng “đường lối và chính sách của Đảng và Nhà Nước” là không đánh đập hay hành hạ trại viên để trả thù, và nếu có những hành động xấu nào đó xảy ra thì đó là hành động của từng cá nhân chứ không phải là chính sách của Đảng và Nhà Nước. Những điều mà các Thi Đua làm đó là do ý của họ chứ không phải là do Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ!

Nhiều trại viên đã không thù hận các VC mà lại thù hận những thi đua, và họ đã quên rằng chính các thi đua là những người thi hành những chỉ thị của Ban Giám Thị trại.

Các Thường Trực Thi Đua đứng bên ngoài phòng giam để quan sát, nghe lén, và phê bình các buổi họp của trại viên.

Các Thường Trực Thi Đua tổ chức riêng cho mình những hệ thống ăn-ten gồm những trại viên làm tai mắt cho chúng.

Các Thường Trực Thi Đua gọi những trại viên vi phạm nội quy của trại lên văn phòng và đánh đập các trại viên ấy.

Các Thường Trực Thi Đua bắt buộc các trại viên bị bệnh phải đi lao động.

Rất nhiều hành động của Thường Trực Thi Đua đã tạo nên những căm thù trong trại viên.

Cái chiến thuật này của Cộng Sản đã rất thành công trong trại cải tạo, đặc biệt là ở trại Tân Lập. Trại viên sợ hãi các thường trực thi đua như Bích, Uyển, Bình, Tú, Diêu, vân vân, hơn cả những cán bộ trong ban giám thị như Thùy, Bảng, hay Trung.

Chương 29

Quay Đầu Về Núi !

Mùa Đông năm 1977, đó là mùa Đông đầu tiên mà chúng tôi phải chịu ở miền Bắc Việt Nam. Thời tiết rất lạnh, nhất là đối với chúng tôi, những trại viên bị ốm đói, không đủ quần áo che thân, và ngủ không có chăn mền trong những phòng giam mà cửa sổ luôn luôn được mở rộng để dễ kiểm tra bên trong. Mưa phùn và gió bấc là những điều mà trước kia chúng tôi chỉ được đọc trong các tiểu thuyết viết về sự đau khổ của những người nghèo ở miền Bắc. Giờ đây chúng tôi phải sống với những thứ đó trong một tình trạng còn tồi tệ hơn cả những người nghèo, trong cái địa ngục của thế gian!

Lưu Đình Việp, nguyên chánh nhất của tòa thượng thẩm Sài Gòn đã bị bệnh tiểu đường. Ông ta làm trong đội “rau xanh”. Một hôm nọ ông ta bị con đỉa cắn vào chân; máu không cầm được mà lại không thể ở trong trại để nghỉ ngơi. Hàng ngày ông phải gánh những gánh gọi là “phân tươi” để tưới rau. Phân tươi còn gọi là “phân bắc” là phân lấy từ nhà cầu của trại viên trộn với nước suối. Vết thương của ông ta bị làm độc và không có thuốc men gì nên ông bị chết sau vài tuần lễ! Ông ta là người trại viên đầu tiên chết ở trại cải tạo Tân Lập.

Sau đó thì trại viên thay phiên nhau chết từng người một. Vài trại viên đã ngã ra chết khi đang hút thuốc lào; tay của họ còn nắm cái điếu. Vài người chết trong lúc lao động. Có người thì chết trong lúc đang ngủ.

Lúc ấy tôi đang làm trong đội 10, đội “mộc”. Tôi phải đóng quan tài gần như hàng ngày, và những tội nhân hình sự trong “đội lâm sản” thì mang người chết đi chôn.

Hôm ấy là một đêm mùa Đông vào tháng chạp năm 1977. Chúng tôi đang ngồi họp sau bửa ăn chiều trong phòng giam khi đã bị nhốt vào phòng thì nghe tiếng lanh canh mở khóa phòng giam làm gián đoạn buổi họp của chúng tôi. Cán bộ quản giáo của đội 10 vào và bảo Uyển, đội trưởng đội 10 cho năm người đi với ông ta. Lúc đó vào khoảng chín giờ tối. Hôm ấy là phiên trực của tôi do đó tôi đi cùng bốn trại viên khác trong đội để đến nhà lô của đội đóng một cái quan tài chôn một trại viên vừa chết cách đó khoảng một tiếng đồng hồ. Điều này rất là bất thường vì chúng tôi vẫn thường làm việc này trong giờ lao động mà thôi.

Đóng một cái quan tài! Nói thì dễ hơn làm vì chúng tôi không có sẵn gỗ ván theo kích thước. Chúng tôi phải cưa gỗ bằng cưa tay để có được theo đúng kích thước, phải bào cho nhẵn và rồi lại phải rong cạnh cho thẳng để có thể ghép vào nhau được. Tiếp theo đó thì chúng tôi đóng thành một cái quan tài hình hộp vuông dài hai thước với các cạnh năm và sáu tấc có sẵn cái nắp để đóng đinh vào. Chiếc quan tài làm xong vào khoảng nửa đêm; chúng tôi khiêng nó vào bệnh xá để đặt tử thi và đồ đạc của anh ta vào đó.

Với hai sợi dây cột vào hai đầu của quan tài, chúng tôi luồn một thanh đòn tre ngang qua cho dễ khiêng bằng vai. Một người trong chúng tôi bưng một cái mâm gồm một chén cơm, vài trái chuối, vài cây nhang, và hai cây đèn cầy. Một người khác thì cầm cây đuốc để soi đường vì lúc ấy trời rất tối. Một người nữa thì cầm mấy cái xẻng, và hai người còn lại thì khiêng quan tài. Cán bộ quản giáo đi phía trước còn hai cán bộ vũ trang thì đi phía sau, chúng tôi đi trên một con đường đất sét dốc ngược về phía K4 của trại. Cái nghĩa trang để chôn trại viên bị chết nằm trên đỉnh của một ngọn đồi trước dùng để trồng cây trà, nằm cách K5 khoảng mười cây số.

Dưới ánh đuốc lung linh, những ngôi mộ đất nhỏ nằm không theo thứ tự trông giống như những luống cày dở dang. Bạn bè của chúng tôi đang nằm đó! Nhưng ít ra thì thân xác và linh hồn của họ không còn bị hành hạ nữa, và gia đình họ cũng không còn phải chờ đợi họ một cách vô vọng nữa!

Thọ, một trại viên trong đội văn nghệ đã viết một bài ca có tựa đề là “Quay đầu về núi”.

“Rồi một ngày mai anh chết đi, em không còn phải đợi phải mong. Và rồi một ngày mai anh chết đi, thân xác anh quay đầu về núi, trong mộ phần không chút khói hương…. Xin em trồng giữa mộ anh một loài hoa nhỏ dại không tên.”

Cái huyệt hố đã được các phạm nhân hình sự đào sẵn. Chúng tôi đặt quan tài gần bên cạnh hố, đốt mấy cây nhang và hai cây đèn cầy, đặt cơm, muối, và mấy trái chuối lên mâm. Tôi khấn thầm cho anh ta được bình an nơi thiên đàng, và rồi chúng tôi thòng quan tài xuống dưới huyệt, lấp đất lại và trở về trại.

Trời đã bắt đầu hừng đông; chúng tôi được phát mỗi người một chén cơm và ít muối để bồi dưỡng cho việc làm này và được cho phép nghỉ trong trại hôm ấy, không phải đi lao động. Đó là lần đầu tiên tôi đi chôn một người bạn tù, tôi không nhớ được tên anh ta. Nhưng đó không phải là lần cuối cùng vì sau đó chúng tôi phải thay phiên nhau đi hầu như hàng đêm!

Đầu tiên, chúng tôi đóng quan tài khi có người chết; sau đó chúng tôi đóng sẵn để chờ người chết. Trại viên chết quá nhiều, chết vì đói, vì bệnh không có thuốc, vì kiệt sức. Chúng tôi không còn gỗ để đóng quan tài nữa, do đó chúng tôi phải dùng một cái quan tài cho nhiều người chết. Chúng tôi đặt người chết và đồ đạc của họ quấn trong chiếc chiếu vào trong quan tài, mang đến mộ phần của họ, chôn tất cả xuống mộ và mang chiếc quan tài trống trở về cho người chết khác!

Đỉnh đồi sau đó đã đầy, chúng tôi phải dời qua một đỉnh đồi khác để lập một nghĩa trang mới. Trại Tân Lập nằm trong một thung lũng bao quanh bởi núi, do đó tất cả các người chết đều được quay đầu về núi cho dù có chôn họ theo hướng nào đi nữa!

Chương 30

Đói !

Đó có lẽ là điều chính yếu trong tất cả các trại cải tạo, và ở trại Tân Lập thì đó lại là một vấn đề quan trọng giữa cái sống và cái chết. Rất khó có thể diễn tả được cái đói trong trại cải tạo bởi vì nó khác hơn mọi cái đói khác. Người ta đói vì không có gì ăn. Trại viên thì đói mặc dù vẫn có ăn ngày ba bữa!

Ngày đầu tiên đến trại Tân Lập, chúng tôi được một bữa ăn thịnh soạn gồm cơm, thịt trâu và thịt heo. Vài ngày sau thì chúng tôi vẫn có cơm độn với một ít bo bo với một ít canh bí đỏ. Nhưng rồi thì bo bo được lần lần thay cho gạo cho đến khi chúng tôi chỉ được chín mươi phần trăm bo bo với một chút cơm và đôi khi không có một tí cơm nào nữa hết.

Cao lương hay bo bo là một loại thực phẩm gia súc được viện trợ từ Ấn Độ. Hột bo bo lớn khoảng một phần tư hạt bắp với cái vỏ cứng và dầy hơn hạt bắp. Bo bo chưa xay vỏ rất khó nấu chín, và cái vỏ thì cũng rất khó lột ra ngay cả nấu thật lâu đi nữa!

Đầu tiên thì chúng tôi nhai bo bo giống như ăn cơm, nhưng rồi chúng tôi khám phá ra rằng bo bo bị tiêu hóa ra ngoài nguyên cả hột. Chúng tôi phải nhai kỷ hơn, nhưng mà cái vỏ cứng của nó khiến răng và hàm chúng tôi đau chịu không nỗi. Chúng tôi lại phải giã nó ra, và vài người còn nấu lại trước khi ăn nữa.

Cái đói đã tạo nên nhiều hành động rất là bi hài, đặc biệt là khi chia phần ăn. Khi đi lấy bo bo ở nhà bếp về cho đội thì phải có ít nhất là hai trại viên đi cùng. Một người để mang bo bo còn người kia thì đi theo để kiểm soát vì mọi người đều nghi rằng bo bo bị cắt bớt trên đường từ bếp về đến đội. Để chia phần ăn, các trại viên thường dùng thành ngữ “công bằng và chính xác!” Nhưng rồi ai cũng nghĩ rằng phần của mình ít hơn của người khác. Trại viên không tin tưởng vào những cái chén hay cái muôi (muỗng canh) nữa, do đó vài người đã chế ra những cái cân làm bằng thanh tre với một hòn đá cột ở một đầu và cái đĩa cột ở đầu kia để chia phần ăn. Cũng chưa đủ, có người còn đề nghị đếm số theo một thứ tự nào đó hay bắt số theo một quy ước nào đó rồi người đầu tiên lấy phần ăn cho dù đó không phải là cái chén của mình. Thật là một bi hài kịch! Một tục ngữ Việt Nam nói rằng: “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất đi một miếng lộn gan lên đầu.” Điều này trông rất rõ ràng trong trại cải tạo.

Bữa ăn của trại viên thường là một chén nhỏ bo bo hay một thứ gì đó xem như tương đương với cơm, và một chén canh rau. Bát canh rau này thường là nước muối có một vài cọng rau như lá xanh của bắp cải, lá của su hào, lá cải củ, hay rau muống, tùy theo từng mùa. Cái gọi là “những thứ tương đương với cơm” là những cái mà trại có như bo bo, khoai mì, khoai lang, bắp, và đôi khi bánh bột mì.

Khoai mì hay sắn là thường xuyên nhất vì đó là sản phẩm chính của tỉnh Vĩnh Phú. Chúng tôi đặt cho nó một cái tên là “bạch sâm”! Điều tệ hại là chúng tôi ít khi được ăn khoai mì tươi mà thường là khoai mì khô: Sắn lát hay sắn duôi! Sắn lát (chúng tôi gọi là nút chai) hay sắn duôi (cắt thành sợi) được cắt từ nguyên củ khoai mì kể cả vỏ và tim, được phơi nắng (và phơi cả mưa), và được trữ lâu ngày trong nhà kho, do đó chúng thường rất dai và mốc. Sau khi được nấu lên, sắn lát chỉ chín ở lớp ngoài còn bên trong thì vẫn còn sống, còn sắn duôi thì biến thành một chất cháo nhầy nhụa.

Khoai mì, khoai lang, và bắp là những thứ nông sản mà dân địa phương thường nộp thuế nông nghiệp cho nhà nước. Dân chúng trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa không nộp thuế bằng tiền, đặc biệt là thuế nông nghiệp; họ đóng bằng những nông phẩm của họ để thay vào đó. Sau vụ mùa, chúng tôi thường thấy những người dân địa phương sống vùng quanh trại gánh sắn duôi, sắn lát, khoai lang, và bắp vào trại để nộp thay vì nộp cho chính quyền địa phương.

Dân chúng trong vùng rất nghèo, họ là những người dân sơn cước như người Tày, Mường, H”Mông, hay những người dân sống trong xóm đạo (Công giáo) bị chuyển từ những thành phố lớn như Hà Nội, Nam Định về đây sau năm 1954 để xây dựng “khu tinh tế mới”. Để thực hiện chính sách đàn áp tôn giáo đặc biệt là Công giáo, và để tịch thu tài sản của những người giàu có và những gia đình của những người làm cho chế độ cũ, Cộng Sản đã thiết lập những cái gọi là “khu kinh tế mới” ở những vùng xa xôi hẻo lánh và bắt những người dân này đến để khai phá. Vài địa danh như Bến Ngọc, A-Mai, và dốc Trinh là tên của những người đầu tiên đến khu này. Ngọc là tên của một ông cả trong làng người đã lập ra cái bến, A-Mai là người chết đầu tiên trong dòng suối, và Trinh là tên một cô gái vẫn còn sống, người đã bị VC hiếp dâm và vẫn thường đi lang thang trên đầu dốc gần trại.

Dân chúng sống quanh trại rất nghèo đến nỗi không đủ áo quần để mặc; họ trao đổi mọi thứ có được để lấy cả mấy bộ đồ tù! Vài trại viên phải đưa áo quần trại cho các phạm nhân hình sự nhờ đổi dùm thức ăn mặc dù họ biết chắc rằng những phạm nhân hình sự này sẽ cắt xén rất nhiều của họ. Trong tình trạng đói kém thì có được một ít còn hơn là không có gì cả! Quần áo rách còn có thể vá lại được chứ cái đói thì không thể trị được. Một bộ áo quần đổi lấy một ký bo bo, ba kí lô sắn, hay nửa ký lô gạo, sau một thời gian ngắn những trại viên mới đến còn tả tơi hơn những phạm nhân hình sự.

Theo kỷ luật của trại, trại viên không được phép mua bán đổi chác bất cứ vật gì. Đôi khi các cán bộ lại đứng ra làm trung gian để kiếm lời; họ bảo rằng làm như thế thì đôi bên đều có lợi. Các phạm nhân hình sự trong đội lâm sản và ở diện rộng là những người thu lợi nhiều nhất trong dịch vụ này.

Nhiều sự vi phạm kỷ luật của trại bắt nguồn từ cái đói mà ra đã bị nâng lên như là những vi phạm do từ quan điểm của trại viên. Một trại viên chỉ nhặt quả bí đỏ để ăn vì quá đói đã bị xử phạt rất nặng vì đã phá hoại tài sản của trại, tài sản của Đảng và Nhà Nước, và tài sản của Xã Hội Chủ Nghĩa! Nhiều trại viên đã bị chết trong các nhà biệt giam chỉ vì vài cọng rau mà họ thu nhặt lúc làm lao động trên cánh đồng.

Đôi khi chúng tôi cũng được trại phát cho một ít đường, chỉ một ít khoảng độ một trăm gram cho mỗi trại viên. Những hạt đường ấy dường như thấm sâu vào từng tế bào vị giác trên đầu lưỡi của tôi. Vài trại viên còn ngồi đếm từng hạt đường mà anh ta bỏ vào miệng. Không chỉ đường mà thôi, muối cũng rất hiếm trong trại. Tôi vẫn luôn nhớ một lần vào năm 1978, chúng tôi đang đắp nền cho một căn nhà của khu gia đình cán bộ nằm trên một khoảng đất trồng khoai lang. Chúng tôi nhìn một cách thèm thuồng những củ khoai thu nhặt cho các cán bộ. Tôi cố hỏi xin cán bộ quản giáo các lá khoai lang để “bồi dưởng” cho đội. Chúng tôi không có muối để ăn với lá khoai lang luộc, và chúng tôi cũng không được phép mang bất cứ vật gì vào trại. Chúng tôi đành phải ăn những lá khoai nhạt phèo đó để lấp cho đầy cái dạ dày đang trống rỗng của chúng tôi vậy!

Chung quanh trại cũng không còn cái gì có thể thu nhặt để ăn được. Qua thời gian, rau dại đã không còn mọc được, cào cào, dế, ếch nhái, và ngay cả chuột cũng không thể sinh tồn được vì chúng đã bị tiêu diệt bởi nhiều thế hệ tù. Dòng suối A-Mai thì không có một con cá hay cả một con ốc! Dân chúng nghèo khổ trong vùng đã thu nhặt hết những thứ gì ăn được. Có lẽ cá, ốc, và thú vật trong vùng đều đã tuyệt chủng hết rồi!

Chúng tôi chỉ dựa vào tiêu chuẩn của trại là mười lăm kí lô của những thứ tương đương với gạo trong mỗi tháng cho mỗi trại viên.

Khoai mì, đặc biệt là sắn lát và sắn duôi không có một chút dinh dưỡng nào cả; nó chỉ giúp cái dạ dày cảm thấy đầy một chút mà thôi. Nhưng ngay cả chúng cũng không đủ để lấp được cái dạ dày vốn đã trống rỗng của chúng tôi nữa! Sau thời gian dài ăn khoai mì, thân hình chúng tôi trở nên còm cõi trong khi mặt thì trông to ra! Đầu tiên chúng tôi cảm thấy nằng nặng ở hai gò má, và rồi thì hai quai càm sưng lên. Chúng tôi nhìn nhau ngạc nhiên. Có phải chúng tôi mập ra không? Khuôn mặt chúng tôi trở nên to nhưng lại xanh xao! Chất độc của acid cyanhydric trong vỏ của khoai mì đã tích trử trong tuyến dưới hàm khiến chúng tôi giống như bị bệnh quay bị. Khi thức dậy mỗi buổi sáng, ghèn dán kín đôi mắt tôi; cổ họng tôi thì khô khốc! Căn phòng dường như quay cuồng quanh tôi khi tôi đặt chân lên mặt đất.

Khoai lang, gọi là “hoàng sâm” thì làm cho miệng tôi đắng nghét mỗi khi thức dậy, và nó khiến chúng tôi đói hơn là ăn khoai mì vì số lượng của nó quá ít! Bắp, bo bo, và bánh bột mì thì đỡ hơn một chút, nhưng lại không có thường xuyên như khoai mì. Bắp thì là loại cho gia súc ăn, không phải là loại bắp ngọt, được phơi khô rất cứng và nấu chưa được mềm ra. Bánh bột mì là loại bột do Liên Xô viện trợ được nhào và nặn rồi luộc thành những cái bánh tròn khoảng một tấc đường kính và dầy khoảng một phân.

Tôi đã cố gắng tập ăn ít ngay từ trại đầu tiên, nhưng cái phần ăn này cũng vẫn thiếu đối với tôi. Trong khi chia phần, tôi cố lảng tránh ra xa, nhưng rồi tôi vẫn còn quan sát từ đàng xa và đôi khi vẫn cảm giác là phần của mình ít hơn của người khác. Tôi tự ghét mình vì điều này, nhưng vẫn không thể tự kềm chế được mình.

Mỗi trại viên có cách ăn khác nhau. Có người thì ăn ngay sau khi chia phần; người khác thì để lại cho đến khi vào chổ ngủ mới ăn vì họ không muốn ngủ trong cơn đói! Có người thì ăn chậm chạp như không muốn bữa ăn chấm dứt; người khác thì ăn vội vã như quá đói và sợ phần ăn của mình bị mất đi. Vài người thì chia phần ăn ra làm những phần nhỏ và ăn mỗi lần một chút dường như họ có nhiều phần ăn vậy; người khác thì ăn ngay một lúc nhưng lại nhai rất kỹ như muốn phần ăn của mình được hấp thu một cách trọn vẹn.

Cái thói quen xấu của tôi là tôi thường hay đổ nước vào chén sau khi ăn xong rồi uống luôn phần nước ấy như muốn không bỏ sót cái gì trong chén sau khi ăn xong! Khi Uyển còn là đội trưởng của đội, tôi thường ngồi ăn chung với anh ta; chúng tôi vừa ăn vừa hút thuốc lào để kéo dài bữa ăn! Sau khi Uyển chuyển qua làm thi đua, tôi không mang phần ăn vào phòng như trước nữa mà ăn ngay sau khi được chia ra, xong rồi rửa chén bát và đặt chúng ngay trên bàn để đợi bửa ăn tiếp theo.

Đầu tiên thì chúng tôi có những phòng ăn gần cổng khu A, nhưng không ai ăn uống trong đó. Chúng chỉ được dùng để làm nơi đặt đồ lấy nước uống và để treo áo quần đi lao động. Vào năm 1980, sau khi những trại viên ở những trại khác được chuyển đến thì những phòng ăn ấy trở thành phòng dành cho các cán bộ quản giáo và ban thi đua. Chúng tôi dựng những chiếc lều tranh trong sân ở gần phòng giam với những chiếc bàn và kệ bằng tre để chứa đồ đạc của chúng tôi vì lúc đó chúng tôi quá đông.
Tôi không biết làm thế nào để mô tả được cái đói trong thời gian này. Nó có nghĩa là chúng tôi ăn mỗi ngày ba bữa mà vẫn đói, không thấy cái gì trong dạ dày cả. Khi những trại viên chuyển đến trại Tân Lập từ Hoàng Liên Sơn, Yên Bái, vân vân, lúc miền Bắc bị Trung Cộng tấn công, họ trông thấy chúng tôi mà đâm ra sợ hãi! Mặc dù chúng tôi ra miền Bắc sau họ, nhưng chúng tôi trông gầy ốm và xanh xao hơn họ nhiều. Chúng tôi thường so sánh sự khác nhau của những trại cải tạo do Công An quản lý và do Bộ Đội quản lý qua sự ốm đói của các trại viên.

Cái đói và sự thiếu ăn đôi khi khiến vị giác chúng tôi trở nên sai lệch. Hầu hết trại viên trong tình trạng này đều biết rằng họ cảm thấy ngọt ngào ngay cả khi bỏ một hạt muối vào miệng. Khi được hỏi anh sẽ ước muốn điều gì khi được thả ra thì Chưởng, một trại viên trong đội tôi nói rằng anh ta chỉ muốn một rổ đầy khoai mì để ăn cho đã đời trong khi ngồi trên xe lửa về miền Nam. Nhưng rồi anh ta cũng không thực hiện được ước mơ của mình bởi vì anh ta đã chết sau đó mấy tháng! Chúng tôi thường đùa rằng nếu cho chúng tôi được chọn lựa giữa một bửa ăn ngon lành và một cô gái đẹp thì chúng tôi sẽ chọn bửa ăn. Một bửa ăn ngon có thể giúp chúng tôi sống sót được; ngoài ra chúng tôi làm gì được với một cô gái đẹp trong tình trạng của chúng tôi như thế?

Mỗi lần có được bửa ăn “tươi”, một chút thịt heo nấu với nước muối, mọi người trong chúng tôi đều muốn có được một ít mỡ thay vì thịt nạc. Sự thiếu dinh dưỡng đã tàn phá mọi thứ dự trử trong cơ thể khiến cho da chúng tôi trở nên mốc thếch và nhăn nheo. Da trâu cũng trở nên một loại thực phẩm cao cấp, ngay cả loại da đã bịt trống cũng đã bị đánh cắp để ăn. Khi đào khoai lang ngoài đồng, nhiều trại viên đã ăn sống khoai mà không lột vỏ cũng không rửa sạch. Vài bệnh trạng như kiết lỵ và tiêu chảy do sự ăn uống thiếu vệ sinh mà ra đã giết chết rất nhiều trại viên vốn yếu ớt sẵn rồi. Một trại viên làm ở lò rèn nướng một con cóc nhỏ rồi ăn cả con đã ngã ra chết ngay tại chổ vì gan cóc bị nhiểm độc.

Mỗi đêm, cái đói khiến tôi rất khó ngủ. Chiếc loa phóng thanh nhỏ treo ở cuối phòng lại vang lên lời ca của một ca sĩ nỗi tiếng của VC, Ái Vân, con gái của nữ nghệ sĩ nhân dân Ái Liên. “Cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao, dù đạn bom man rợ thét gào, dù thân thể triền miên mang đầy thương tích….” Bài ca được quảng cáo là đã được đoạt huy chương vàng tại đại hội thanh niên toàn thế giới (chính xác là thế giới Cộng Sản) ở Đông Đức. Tôi rất bực mình nhưng không biết làm gì khác hơn là nhét lỗ tai lại và cố vỗ giấc ngủ. Tôi muốn la to lên rằng “cuộc đời này rất vô nghĩa, tình yêu cũng rất vô nghĩa khi mà cái dạ dày của tôi đang trống rỗng và tôi đang sống trong cái địa ngục của thế gian này!”

Dùng thực phẩm như là một con mồi và chiếc gậy là một thủ đoạn của VC. Chúng bảo rằng ai làm lao động tốt sẽ được ăn phần ăn đặc biệt và ai lười biếng thì bị ăn phần ít hơn. Chúng chia ra làm ba loại tiêu chuẩn ăn: 15 kí lô lương thực hàng tháng cho những trại viên bình thường, 18 kí lô cho những trại viên tiên tiến, và 13 kí lô cho những trại viên lười biếng. Điều này đôi khi cũng làm vài trại viên bị sa bẫy! Trong lúc đói ai mà không muốn có được nhiều hơn, do đó có người đã cố làm lao động để được xuất ăn đặc biệt. Họ đã quên rằng làm như thế thì họ sẽ mất rất nhiều năng lượng mà không thể bù đắp được bởi vài kí lô thực phẫm hàng tháng! Những người to xác và những người ăn xuất ăn đặc biệt lại là những người bị suy sụp sớm nhất.

Chương 31-32-33