Chương 40-41-42

Chương 40

Trại Cải Tạo Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải.

Trại cải tạo Z30D là thế hệ tiếp theo của trại ở thị xã Thủ Đức gần Sài Gòn. Nó cũng lấy tên là trại Thủ Đức, nhưng dân chúng thường gọi nó là trại Z30D theo bí danh của nó.

Muốn đến trại từ Quốc lộ số 1 thì người ta phải đi khoảng hai cây số trên một con đường mòn xuyên qua khu rừng buông và cẩm lai (một loại cây gỗ quý trồng trong vùng này). Khi tôi mới đến trại thì nó gồm có ba phân trại là K1, K2 và K3. K1 là phân trại chính và cũng là bộ chỉ huy của trại. K2 nằm cách K1 khoảng ba cây số về phía Bắc và K3 khoảng bốn cây số về phía Nam. Một dòng suối, nguồn cung cấp nước cho toàn trại chảy qua cả ba phân trại, nó rất cạn về mùa nắng nhưng lại chảy rất mạnh về mùa mưa.

Trại Z30D thay đổi từng ngày kể từ khi tôi đến cho đến lúc tôi rời trại. Đầu tiên, K1 chia làm bốn khu tên là khu A, B, C và D. Khu A bao quanh bởi hàng rào và tường gạch, và gồm bốn ngôi nhà xây, mỗi nhà chia làm hai buồng giam. Khu B gồm bốn nhà lá bao quanh bởi một hàng rào bằng tre gai. Khu C là một nhà lá nằm riêng rẽ gần với nhà bếp. Khu D nằm phía sau của trại là một căn nhà gạch xây dựng chưa hoàn chỉnh nằm riêng rẽ không có hàng rào bao quanh.

Chúng tôi gồm khoảng sáu trăm trại viên được đưa vào hai khu A và B. Trong khu A, chúng tôi được nhốt trong ba nhà 2, 3 và 4. Nhà 1 thì dành cho những trại viên bị kỷ luật. Năm mươi trại viên trong mỗi buồng giam rộng khoảng sáu thước, dài mười hai thước với một nhà vệ sinh ở một đầu trong đó có một cái hồ nhỏ chứa nước bơm từ suối vào. Ở giữa mỗi nhà phía bên ngoài có một cái hồ xây lớn hơn chứa nước dùng cho trại viên. Cấu trúc của các căn nhà tương tự như các nhà giam ở trại Tân Lập nhưng các bục nằm thì xây bằng xi măng lót gạch bông thay vì bằng ván gỗ lót trên khung sắt. Và mái nhà thì lợp bằng tôn xi măng chứ không lợp bằng lá cọ như ở trại Tân Lập. Các căn nhà lá ở khu B thì có vẻ rất sơ sài với vách làm bằng tre và lá buông và các cửa sổ có song làm bằng tre. Tôi không hiểu sao họ lại nhốt chúng tôi trong những căn nhà quá sơ sài như thế? Tuy nhiên các nhà này đều lần lượt thay thế bởi nhà gạch.

Từ khu A sang khu B, trại viên phải đi qua một cổng đóng kín suốt ngày ngoại trừ khi đi lấy cơm dưới sự hướng dẩn của cán bộ hoặc ban thi đua. Nhà bếp nằm phía cuối trại về phía mặt ở gần với láng mộc bên ngoài vòng rào gần với bờ suối. Mỗi khu đều có cửa riêng để đi ra con đường chính của trại, do đó có tất cả ba cổng trại. Hàng rào quanh trại làm bằng hai lớp: hàng rào kẽm gai và tre gai trồng sát nhau. Một cái hào sâu chứa đầy nước đào dọc theo hàng rào ngăn cách hàng rào với khu trại.
Trong khu A còn có hai hàng rào khác, một hàng rào tre ngăn cách khu A với khu B và một bức tường gạch ngăn cách nhà 1 với các nhà khác. Chúng tôi có thể liên lạc nhau được trong cùng một khu ngoài nhà số một dành cho những trại viên bị phạt kỷ luật vì lý do này hay lý do khác.

Khu D của K1 là một căn nhà gạch chưa xây dựng hoàn chỉnh và không có rào ngăn. Các trại viên ở khu này là những người trong ban thi đua và các bộ phận lẻ: những người được ban giám thị trại tin tưởng và làm việc ở khu cơ quan.

Đối diện với trại giam là khu cơ quan chia làm ba phần từ trái sang phải là: nhà ở của các cán bộ, văn phòng và nhà kho. Hầu hết nhà trong khu cơ quan đều làm bằng gạch lợp ngói ngoài khu nhà ở của gia đình cán bộ thì làm bằng cây lá.

Một con đường đất sét chạy từ quốc lộ số 1 vào trại và đi thẳng đến bờ suối ngăn cách khu cơ quan với khu trại giam. Cây so đũa, một loại cây lá nhỏ và có hoa màu trắng, được trồng khắp nơi trong trại. Chúng tôi thường thu nhặt bông so đũa để nấu canh cải thiện cho những bữa ăn của chúng tôi.

Quanh trại toàn là rừng. Vài khu đất trồng bắp còn rải rác những gốc cây đốt cháy dở dang. Cây lá buông mọc khắp nơi, do đó dân chúng gọi đây là khu rừng lá. Dân trong vùng lấy lá buông để lợp nhà và những đọt buông nhỏ để đan quạt và làm nón lá, một loại nón của người Việt Nam. Những cọng buông già thì được làm đũa và làm cần câu. Vào mùa Xuân, những cây buông này trổ bông, có trái rồi chết. Trái buông có chất độc có thể giết chết cá, do đó dân chúng thường giã nát trái buông để đổ xuống suối bắt cá.

Cây cối trong khu rừng này được chính quyền miền Nam Việt Nam trồng rất lâu đời. Các loại cây như Cẩm Lai, Trắc, Gỏ, Thao Lao, và Mun là những loại cây cung cấp gỗ quý. Trong chiến tranh, khu này là khu trắng, một khu oanh kích tự do. Có một đồn địa phương quân nằm cạnh quốc lộ để giữ an ninh cho quốc lộ số 1.

Dòng suối, nguồn cung cấp nước cho trại bắt nguồn từ trên núi; nó chạy vòng quanh ra tận quốc lộ số 1 ở gần phân trại K3 rồi trở vào đến phân trại K1. Trại làm một cái cầu bắt ngang suối bằng cách cột những thân cây theo hình chử X đặt vào lòng suối rồi lót những tấm ván ngang qua. Nó trông giống như những chiếc cầu khỉ ở đồng bằng miền Nam. Suối rất sâu vào mùa nắng, nhưng chảy xiết vào mùa mưa. Mặt nước đôi khi lên gần đến những tấm ván lót cầu, và chiếc cầu đong đưa rất mạnh mỗi khi chúng tôi đi trên ấy. Bên cạnh cầu, ở sát bờ suối là một nhà nhỏ đặt máy bơm cung cấp nước cho trại và khu cơ quan. Phía bên kia suối hoàn toàn hoang vu. Tre gai, cây buông, và nhiều loại cây rừng mọc san sát. Chỉ có một con đường mòn nhỏ chạy dọc theo bờ suối từ K1 sang K3.

Điều khác nhau giữa rừng miền Nam và rừng ở miền Bắc là ở miền Nam thì có rất nhiều loại thú trong rừng: rắn, thỏ, chim, khỉ, heo rừng, và đôi khi có cả voi nữa. Suối thì đầy cá và sò ốc. Những thứ ấy có thể là nguồn thức ăn cho chúng tôi sau này! Ngoài ra thì măng tre, cây chuối rừng, và nấm mối là những thứ mà tôi dự kiến. Năm năm ở trại Tân Lập đã dạy cho tôi cách để kiếm ăn mỗi khi có cơ hội! Một vài cái bẫy cò ke đặt ở đâu đó trên khu lao động, vài sợi dây với chiếc lưỡi câu tự chế cắm vào bờ suối, đó là những thứ mà tôi nghĩ tôi có thể làm được một cách dễ dàng.

Hầu hết trại viên ở trại Z30D trông không đến nỗi tệ hại như trại viên ở Tân Lập. Khi đi lao động về hầu như mọi người đều có những thứ thu nhặt ở hiện trường lao động. Đó chính là một dấu hiệu tốt! Hầu hết những trại viên cũ ở đây đều mặc quần áo làm bằng bao cát. Tôi nghĩ họ đã thu nhặt bao cát này quanh khu trại vì nơi đây đã từng là chiến khu, hầm hố với bao cát nằm rải rác khắp nơi.

Trại viên ở trại Z30D gồm những người thuộc chế độ cũ, một số người trong những lực lượng chống Cộng sau năm 1975, và những thuyền nhân bị bắt khi vượt biên thất bại. Chưa có tội phạm hình sự cho mãi đến năm 1985 khi những nữ can phạm được đưa đến trại, và rồi đến năm 1988, phạm nhân hình sự hầu như chiếm đa số trong trại sau đợt thả rộng rải các trại viên thuộc chế độ cũ.

Một số trại viên ở lại trại Thủ Đức khi tôi bị đưa ra miền Bắc năm 1977 như Cang, Trang, Lương, vân vân, vẫn còn ở lại trại Z30D, nhưng Nhàn, cựu nhân viên của tôi thì lại bị đưa đi đến một trại khác để biệt giam sau vụ nổi dậy của trại viên vào Tết năm 1981. Nhàn đã chết sau khi vừa được thả ra năm 1988, mặc dù anh ta mới khoảng trung tuần ba mươi tuổi.

Ban thi đua trại viên lúc ấy do Trí, cựu thiếu tá cảnh sát, làm trưởng ban khám xét chúng tôi rất cẩn thận khi chúng tôi vừa đến trại. Những người trong Ban Thi Đua này gồm những sĩ quan của Nam Việt Nam trước đây. Vài người bạn của tôi lưu ý tôi nên cẩn thận đối với một người trong ban thi đua tên là Cung, nguyên là một thiếu tá Nhảy dù, chồng của một vũ nữ khoả thân ở Sài Gòn vào những năm 1970. Sau đó thì Cung đã bị chuyển vào làm ở bếp. Trại viên trong trại thường gọi hắn là “Cung Củ Đậu” (nói lái lại là “cẩu đụ”).

Cơ cấu tổ chức của trại Z30D hầu như giống ở trại Tân Lập, và tôi nghĩ đó cũng là một hình thức chung cho các trại cải tạo của Cộng Sản. Trong trại là Ban Thường Trực Thi Đua và Hội Đồng Tự Quản. Ở cơ quan là Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ. Không có gì khác ngoại trừ cách điều hành trại.

Ban Giám Thị của trại Z30D cũng là Ban Giám Thị của trại Thủ Đức năm năm về trước với Mạch là trại trưởng, Phúc trại phó, và Ninh là trưởng phân trại K1. Một tên cán bộ tên là Nhu là một người rất đặc biệt về sau này; hắn ta chỉ là trung uý phụ trách về hậu cần lúc ấy. Nhưng rồi hắn ta càng ngày càng có thế lực và đã làm thay đổi tất cả từ trong trại giam đến ngoài cơ quan. Kể từ khi nắm quyền hành vào năm 1985, Nhu đã leo từ trưởng K1 đến trưởng trại và rồi kết hợp luôn cả hai trại Z30D và Z30C thành một. Trại viên sau đó phải làm việc rất vất vả để phá rừng lấy gỗ quý, chuyển đá về lót lòng suối, đắp đập làm thuỷ điện, xây dựng nhà cho riêng Nhu và xây dựng khu vui chơi. Hắn ta trở thành một hung thần không những đối với trại viên mà cả đối với các cán bộ nữa.

Chương 41

Những Ngày Đầu Tiên Về Miền Nam.

Những phấn khởi khi được về miền Nam đã trôi qua sau mấy ngày; tôi cũng phải trở lại với sống một cuộc sống bình thường trong trại cải tạo. Chúng tôi vẫn còn ở cùng đội như lúc di chuyển khỏi trại Tân Lập và đi lao động như thường lệ. Công việc hàng ngày là làm cỏ cho các mảnh đất trồng bắp. Cỏ tranh là một loại cỏ rất khó dẫy sạch vì rễ nó ăn luồn dưới mặt đất. “Một cái cuốc cho mỗi trại viên”, đó là phương pháp lao động ở trại Z30D.

Đất trồng bắp chen lẫn với rừng rậm. Các cây nhỏ đã được dọn sạch, nhưng những cây lớn vẫn còn. Bắp được trồng quanh các cây này. Chúng tôi phải đào gốc buông dọn thêm đất để trồng bắp. Những cây buông có đường kính ở gốc khoảng một thước với rễ ăn sâu xuống đất, do đó chúng tôi phải đào cái hố khoảng ba thước đường kính để bứng gốc của chúng. Chỉ tiêu cho mỗi trại viên là hai cây buông mỗi ngày. Đó quả thật không phải là một công việc dễ dàng.

Nhà lô của đội chúng tôi núp trong rừng rậm, do đó cán bộ quản giáo đội là ông vua trong vùng. Bất cứ ai muốn đến nhà lô đều phải đi qua một con đường mòn nhỏ đầy gai mắc cỡ, và đôi khi rắn rết hay bò cạp khắp nơi. Ban giám thị trại ít khi nào muốn đến đó nên cán bộ quản giáo cùng cán bộ vũ trang có thể dùng bất cứ trại viên nào mà họ cần để làm những công việc riêng tư cho họ.

Với khả năng về vẽ và về mộc, thời gian này tôi hầu như là làm trong nhà lô mà thôi. Các trại viên khác đặt cho những người làm công việc riêng cho cán bộ là “sĩ quan nhà lô”. Tôi biết đó là một ý nghĩ không tốt, nhưng tôi không có sự chọn lựa nào khác. Ở trong trại, chúng tôi phải làm những gì mà các cán bộ bảo chúng tôi làm nếu chúng tôi muốn sống. Vã lại việc vẽ vài cái bông hoa trong cuốn sổ hay làm một cái rương gỗ cho họ cũng chẳng phải là một công việc “dơ bẩn” hay “xấu xa” gì. Chẳng qua chỉ là công việc nhẹ nhàng hơn các người khác mà thôi, do đó vài người trở nên ganh tỵ! Sống trong trại không dễ dàng hơn cuộc sống trong xã hội vì tôi phải va chạm hàng ngày với nhiều người mà không thể tránh né họ được. Làm thế nào để làm vừa lòng hết mọi người?

Vào ngày Chúa Nhật hai tuần sau khi viết thư cho gia đình, tôi được gọi đi thăm nuôi. Tôi rất ngạc nhiên! Đứa em trai út của tôi là Tuấn từ Phan Thiết vào thăm tôi. Tuấn đã tốt nghiệp Đại Học Kinh Tế và đang làm việc ở thị xã Phan Thiết thuộc tỉnh Thuận Hải. Chắc là em tôi đang làm việc cho chính quyền của VC nên tôi mới được phép thăm vì hôm ấy không phải là ngày thăm nuôi.

Ngày thứ hai hôm sau, tôi đi lao động như thường lệ. Hôm ấy đội chúng tôi không làm ở nhà lô mà đi làm vệ sinh cho một miếng đất ở phía sau nhà thăm gặp.

Nhà thăm gặp nằm phía bên phải của một con đường đất sét cách trại khoảng năm trăm thước về hướng quốc lộ số 1. Đó là một căn nhà gạch dài khoảng hai mươi thước rộng sáu thước nằm bên trong vòng rào bằng kẽm gai. Cổng trước của nhà thăm gặp đi thẳng vào phòng thăm nuôi. Phía bên mặt là phòng làm việc của cán bộ phụ trách nhà thăm nuôi và làm phòng để các thân nhân trại viên đến đăng ký, còn phía bên trái là một căn phòng lớn làm phòng chờ đợi. Mỗi phòng đều có cửa cửa trước, cửa sau và nhiều cửa sổ.

Phía sau khu nhà thăm nuôi là miếng đất trồng bắp. Chúng tôi đang làm cỏ ở đấy mà mọi con mắt đều hướng về phía nhà thăm nuôi. Đột nhiên tôi thấy vợ tôi và mẹ tôi ở trong phòng chờ đợi. Tôi vẫy tay làm dấu gọi và hai người cũng nhìn thấy tôi. Tôi không biết tại sao trại lại không gọi tôi ở lại để được ra thăm nuôi. Vợ tôi bảo con tôi đến gặp tôi, nhưng nó chỉ đứng ở xa xa. Có lẽ tôi còn quá xa lạ với nó! Tôi dẫn con tôi đến gặp cán bộ quản giáo để hỏi về trường hợp của mình. Hắn ta đang nhờ tôi làm những công việc riêng tư, cho nên hắn đi vào hỏi cán bộ phụ trách nhà thăm nuôi và trở lại cho tôi biết rằng tôi đã được gặp gia đình vào ngày hôm qua cho nên họ không giải quyết cho tôi nữa. Tôi giải thích cho hắn biết rằng hôm qua chỉ là em tôi ghé để xem có phải tôi đã về đây không để báo cho mẹ và vợ tôi biết đến thăm tôi hôm nay. Tên cán bộ quản giáo vào gặp cán bộ phụ trách thăm nuôi lần nữa rồi ra báo cho tôi biết là tôi được vào thăm ngay nhưng không được vào trại để thay quần áo. May mắn cho tôi là hôm ấy tôi làm lao động ở sau nhà thăm nuôi, nếu không thì chắc gia đình tôi đành phải quay về.

Vợ tôi trông có vẻ khoẻ mạnh hơn ba năm trước khi gặp nhau ở trại Tân Lập; có lẽ vì cô ấy không phải trải qua một đoạn đường quá dài như lúc đi từ Nam ra Bắc! Đặc biệt là con tôi, lần đầu nó biết được cha, người cha thật sự chứ không phải chỉ qua mấy tấm hình chụp. Sau một lúc bỡ ngỡ, nó đến với tôi và gọi “ba”! Nó đã gần bảy tuổi và đang học lớp một ở trường tiểu học.

Mẹ tôi thì trông già và gầy hơn. Bà đã chịu đựng qua nhiều khổ đau kể từ khi cha tôi đi vào chiến khu. Cuộc đời bà chỉ là một chuổi dài phấn đấu cho cuộc sống của gia đình, cho chồng và cho con.

Điều mất mát lớn lao đối với tôi là cái chết của bà ngoại tôi, điều mà tôi cảm thấy lâu lắm rồi. Gia đình tôi đã dấu tôi việc này suốt ba năm trường. Nhiều lần tôi có hỏi về bà ngoại tôi, nhưng mọi người trong gia đình đều tránh không nói tới. Tôi biết họ không muốn tôi đau buồn bởi vì bà ngoại là người gần gũi với tôi nhất.

Chương 42

Cậu Học Trò Tên Tâm.

Đầu năm 1983, tôi được biên chế vào đội 2, họ gọi đó là “đội mía” với công việc làm hàng ngày là trồng và chăm sóc các ruộng mía ở phân trại K3 thuộc trại Z30D.

K3 nằm cách K1 khoảng bốn cây số về phía Nam, và vào lúc ấy thì nó chỉ là một trại nuôi bò cho toàn trại. Chỉ có vài trại viên được ban giám thị trại tin tưởng ở đó cùng với hai cán bộ trong một ngôi nhà lá không có rào ngăn nào cả. Hàng ngày, họ dẫn khoảng năm mươi con bò vào đồng cỏ ở gần chân núi Mây Tàu để cho bò ăn và rồi buổi chiều lùa bò trở về chuồng. Phân trại K3 đã từng là một phần của trại nơi giam giữ các trại viên, nhưng khi một số đông trại viên được thả vào năm 1980 thì nó bị bỏ hoang.

Ngày đầu tiên đi lao động ở các cánh đồng ở K3, tôi gặp Tâm, nguyên là học trò của tôi ở lớp 12 trường trung học Hoàng Gia Huệ nơi tôi đã dạy từ năm 1970 đến năm 1975. Hoàng Gia Huệ là một trường trung học công giáo thuộc một giáo xứ ở Trung Chánh, của đồng bào di cư từ Bắc vào Nam năm 1954. Hiệu trưởng của trường ấy đồng thời cũng là cha xứ tên là Diêng, linh mục phụ trách nhà thờ ở trong xứ đạo. Trong cuộc nổi dậy của Công Giáo chống lại Cộng Sản vào năm 1976, vài giáo sư của trường cũng như một phần đồng bào trong xứ đạo ấy đã bị bắt giam, số còn lại thì chuyển đi nơi khác hay trốn biệt. Tâm cho tôi biết là cha Diêng trốn vào “mật khu” để chống lại VC. Chính Tâm cũng bị bắt trong cuộc nổi dậy đó.

Tâm khoảng hai mươi lăm tuổi vào lúc ấy, nhưng trông có vẻ trẻ hơn số tuổi có lẽ vì dáng dấp nhỏ nhắn. Da sạm nắng vì thường làm việc ngoài đồng mà không bao giờ đội nón. Thật ra thì tôi không thể nhận ra học trò của mình được cho đến khi Tâm đến nói chuyện với tôi. Nhưng kể từ đó hắn ta rất cần thiết đối với tôi vì Tâm vừa trẻ lại vừa lanh lẹ. Chúng tôi lần lần trở thành hai người bạn thân và tôi bảo Tâm gọi tôi bằng “anh” thay vì bằng “thầy”! Hàng ngày khi đi lao động ở các cánh đồng mía ở phân trại K3, Tâm thường thu nhặt những thứ ăn được và nấu ăn cho cả hai. Rắn, chuột, ếch nhái, và ngay cả thỏ cũng khó có thể thoát khỏi bàn tay của hắn ta vì hắn “nhanh như sóc”! Tôi chỉ cho Tâm cách làm bẫy và chúng tôi bắt được khá nhiều các thú nhỏ để cải thiện các bữa ăn.

Chúng tôi phải đi vào K3 bằng một con đường mòn nhỏ dọc theo bờ suối. Khoảng cách chỉ khoảng bốn cây số, nhưng phải mất hàng hai tiếng đồng hồ mới đến nơi được vì con đường mòn đầy những gai mắc cỡ và đá nhọn, và chúng tôi còn phải lội qua những con suối nhỏ nữa. Vào những ngày mưa lớn thì càng khó khăn hơn vì chúng tôi phải đi vào rừng để tránh dòng suối chảy siết. Chúng tôi thường không về trại vào buổi trưa, và họ chỉ cho phép một trại viên là “anh nuôi” đi cùng với cán bộ vũ trang về lãnh cơm và thức ăn cho cả đội.

Công việc hàng ngày của chúng tôi là làm luống để trồng mía. Luống mía rộng khoảng một thước rưỡi, cao khoảng năm tấc và dài tuỳ theo chiều dài của miếng đất. Chúng tôi phải nối những đọt lá buông non lại với nhau để căng song song cách nhau khoảng bốn thước để làm chuẩn cho các luống mía. Nếu luống mía đụng phải cây nào thì chúng tôi phải đào gốc cây ấy. Các cánh đồng quanh phân trại K3 đã bỏ hoang lâu ngày nên cỏ tranh và bụi rậm đầy dẫy. Đặc biệt là các cây buông mọc cùng khắp rất khó bứng đi. Làm luống mía quả thật là một công việc nặng nhọc vì chúng tôi chỉ có mỗi người một cây cuốc mà thôi, tuy nhiên điều tốt nhất là chúng tôi cảm thấy chút nào đó tự do và quan trọng hơn cả là chúng tôi có cơ hội để thu nhặt được những thức ăn thêm.

Sau khi các luống đã thành hình, chúng tôi trồng vào đó những hom mía mà họ mua ở nơi nào đó. Những hom mía này được cắm vào luống với góc độ khoảng ba mươi độ. Trong vòng ba tháng lao động nặng nhọc, bốn mươi trại viên chúng tôi làm được khoảng mười mẫu mía. Chúng tôi lại phải khai phá thêm nhiều đất và chờ cho mùa thu hoạch vụ đầu để có hom trồng cho khu đất mới vì họ không muốn bỏ tiền thêm ra mua hom mía nữa. Cùng lúc ấy, chúng tôi phải làm cỏ cho các ruộng mía đã trồng để giúp mía dễ mọc lên. Vụ thu hoạch mía đầu tiên diễn ra khoảng một năm sau khi cây mía bắt đầu có cờ. Chúng tôi chặt mía sát gốc lấy ngọn trồng cho các ruộng mới và thân mía thì đem đi bán cho các lò đường. Chúng tôi còn phải đốt lá mía ở các ruộng đã thu hoạch để giúp cho cây mía mọc lên mùa thứ hai, và họ bảo rằng mùa thứ hai này mới là mùa thu hoạch có năng suất cao nhất. Hai mươi mẫu mía này là những ruộng mía đầu tiên mà chúng tôi đã làm ở trại Z30D. Vài năm sau, trại thành lập lò đường và mua thêm mía của nơi khác về để nấu đường cộng thêm với mía trồng trong trại.

Đầu năm 1984, Tâm và tôi chuyển về đội mộc. Tâm làm trong nhóm làm mộc còn tôi thì thuộc nhóm xây dựng. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng còn gặp nhau cho đến khi Tâm được thả ra vào cuối năm 1984.

Chương 43-44-45