-
Chương 7
Những Ngày Đầu Tiên Trong Chế Độ Cộng Sản.
Ngày 30 tháng tư năm 1975, một ngày lịch sử mà chắc không một người Việt nào ở trong nước hay đang lưu vong trên toàn thế giới có thể quên được. Tôi choàng dậy sớm mặc dù đã không ngủ tối hôm qua. Vợ tôi vẫn còn ngủ say; tôi không muốn đánh thức cô ấy vì tôi muốn cô ấy được an ổn tâm thần cho dù sự việc tồi tệ nhất có diễn ra ngay vào sáng hôm đó. Con đường phía trước nhà mẹ tôi đã ồn ào mặc dù lệnh giới nghiêm vẫn đang còn hiệu lực. Dân chúng đi lui tới rất vô trật tự; xe gắn máy bóp kèn inh ỏi.Tôi biết sẽ có điều gì đó diễn ra vì đêm qua tôi đã nghe nói đến việc mất nước trên những đài phát thanh. Tôi quả thật không hiểu tại sao những cái gọi là cơ quan ngôn luận của thế giới tự do lại thường xuyên có những thông tin có lợi cho đối phương như vậy. Cuộc tàn sát ở Mỹ Lai và hình ảnh của ông Nguyễn Ngọc Loan, chỉ huy trưởng Cảnh Sát Việt Nam, bắn một tên VC trong Tết Mậu Thân được đăng tải trên nhiều báo chí và tập san, nhưng tôi chưa hề thấy một hình ảnh nào về sự tàn sát ở Huế, Quảng Trị, khi VC tạm chiếm các thành phố này, hay những hình ảnh của trẻ em ở một trường tiểu học ở Cai Lậy bị giết bởi đạn pháo kích của VC. Cuộc chiến tranh được coi là dài nhất và thê thảm nhất sau cuộc Thế Chiến Thứ Hai thì không thể nào tránh được việc giết chóc những người dân vô tội. Những kế hoạch tuyên truyền của những cơ quan thông tin đã khiến Cộng Sản đạt được sự đúng đắn trong khi cái gọi là Đồng Minh thì lại mất đi sự ủng hộ của quần chúng. Sự thất bại của chủ nghĩa Tư Bản trong chiến tranh Việt Nam không do chính cuộc chiến mà bắt nguồn từ những phong trào phản chiến ở Mỹ và trên thế giới.
Tôi đang chờ đợi sự khủng hoảng của đất nước với niềm tuyệt vọng vô bờ. Dân chúng thì dường như quá quen với chiến tranh nên vẫn sống như thường lệ. Tôi không thể phân biệt được ai là VC ai không vì mọi người đều là người Việt. Đó cũng chính là điều khó khăn cho tôi trong nhiệm vụ hàng ngày. Đôi khi tôi nghĩ sự chấm dứt cuộc chiến này có lẽ sẽ tốt hơn đối với nhân dân tôi cho dù chiến thắng thuộc về phía bên nào. Chúng ta đều là người Việt dù là Cộng Sản hay Tư Bản. Điều tôi hy vọng chính là dân tộc tôi sẽ sống trong hòa bình và giàu có hơn. Một trăm năm trong chủ nghĩa Thực Dân và ba mươi năm chiến tranh đã khiến đất nước tôi trở thành một nước nghèo nàn và tan nát nhất thế giới. Nếu VC có thể đem lại hạnh phúc và ấm no cho toàn dân thì quả thật chiến thắng của họ rất xứng đáng. Đời tôi thì cũng chỉ như một hạt cát trong bãi sa mạc, và nếu tôi có chết đi thì cũng không là gì cả. Ý nghĩ này khiến tôi có một chút an tâm.
Tiệm may của mẹ tôi vẫn mở cửa như thường lệ. Thợ may vẫn đến làm việc, khách hàng vẫn đến và đi như không có chuyện gì xảy ra. Khoảng 10giờ 30 sáng, tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố trên đài phát thanh việc đầu hàng Cộng Sản một cách vô điều kiện. Ông ta nói rằng “việc đầu hàng này sẽ tránh việc tắm máu của dân chúng một cách vô ích”, và ông ta yêu cầu “quân đội Việt Nam Cộng Hòa hãy buông vũ khí trong trật tự và chờ đợi tại chỗ để bàn giao cho VC.”
Tôi nghe nhiều tiếng súng nhỏ nổ vài nơi nào đó rất gần. Mặc dù đã có lệnh ngưng bắn, vài chiến binh nhảy dù gác ở Viện Ung Thư gần nhà mẹ tôi đã nổ súng vào các đơn vị VC và rồi tự sát. Vài cuộc đụng độ lẻ tẻ vẫn xảy ra ở Bà Quẹo, gần trại Hoàng Hoa Thám của quân Nhảy dù. Những chiến sĩ tuyệt vọng và không có cấp chỉ huy đã tự động gây nên những cuộc đụng độ cuối cùng trước khi tự sát. Họ là những người cuối cùng ngã xuống cho đất nước. Tôi không biết họ có phải là những vị anh hùng hay không, nhưng tôi rất ngưỡng mộ những hành động đó. Tôi đã không đủ can đảm để làm việc ấy mặc dù tôi cũng đã suy tính việc này rồi khi tôi mang súng về nhà. Quả là rất khó có thể quyết định tự chấm dứt cuộc đời mình ngay cả trong hoàn cảnh hoàn toàn tuyệt vọng đi nữa.Tiếng súng đã thưa dần. Đường phố càng lúc càng trở nên náo nhiệt; tôi không thấy một VC nào ngoài những đứa trẻ cầm súng M16 và mang băng vải đỏ trên tay áo ngồi trên những chiếc xe đủ loại từ xe nhà binh đến xe dân sự lấy được từ những người di tản. Dân chúng gọi họ là những “nhà cách mạng ba mươi” có nghĩa là những người lợi dụng thời cơ để trở thành những nhà cách mạng ngay trong ngày 30 tháng 4 năm 1975. Họ từng là những học sinh, sinh viên, hay những nhân dân tự vệ trong vùng. Những người lính Nam Việt Nam thì trở về nhà trong bộ đồ lót: binh phục và vũ khí của họ đã bỏ lại nơi nào đó trong đường phố. Lời kêu gọi của tướng Nguyễn Hữu Hạnh trên đài phát thanh Sài Gòn yêu cầu binh sĩ và sĩ quan ở lại vị trí để đợi bàn giao cho VC đã không có hiệu lực; mọi người đều cố tìm đường thoát thân hay trở về nhà. Những người di tản thất bại đang vội vã quay về lại nhà. Dân chúng đứng trước cửa nhà để cố xem coi VC ra thế nào trong lần đầu tiên trong cuộc đời của họ! Tất cả những điều này đã tạo nên một quang cảnh rất khôi hài.
Mọi người đều có những suy nghĩ rất khác nhau. Binh sĩ và sĩ quan Nam Việt Nam thì lo lắng về số phận của họ; những người giàu có thì lo cho của cải của họ, và dân nghèo thì lại chờ đợi sự thay đổi số phận của họ theo như Cộng Sản hứa hẹn. Những sự lo lắng cộng với mong chờ đã tạo nên một sự kỳ lạ chưa từng thấy trong đời tôi.
Vào Tết Mậu Thân, dân chúng đã vội vàng di tản ngay khi nghe VC đến. Giờ này đây, họ không còn biết chạy đi đâu vì VC đã chiếm toàn bộ đất nước rồi! Số phận của họ không còn nằm trong tay của chính họ nữa. Họ phải chờ đợi điều gì đó đến với họ. Đài Phát Thanh Hà Nội ra lệnh các đơn vị VC không được đụng đến một cây kim hay sợi chỉ của dân chúng, nhưng vài người thì nói đùa rằng VC thích lấy những cái quý giá hơn là những cây kim hay sợi chỉ. Vài người khác còn đùa rằng kể từ đây họ không còn lo sợ bị VC pháo kích nữa vì Mặt Trận đã giải phóng Sài Gòn! Sự chịu đựng của dân chúng đã quá sức đến nỗi họ có thể đùa ngay cả trong sự tuyệt vọng tột cùng của họ.Lời kêu gọi của tướng Nguyễn Hữu Hạnh cùng giọng ca của Trịnh Công Sơn trong nhạc phẩm “Nối Vòng Tay Lớn” liên tục nhau phát thanh trên đài Sài Gòn. Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ nổi tiếng của Nam Việt Nam, trong những năm 1960 – 1970 đã cùng với nữ ca sĩ Khánh Ly hát những ca khúc phản chiến trong các Đại Học ở Nam Việt Nam để thúc đẩy các phong trào chống chính quyền trong sinh viên. Nhiều lần chúng tôi đã nêu việc này lên cấp trên, nhưng chính quyền không có lý do để đàn áp cho đến khi Trịnh Công Sơn nhập ngũ. Các phong trào ca hát chống chiến tranh và chống chính quyền này vẫn tiếp tục cho đến ngày này Trịnh Công Sơn ra mặt là một tên Cộng Sản với bản nhạc “Nối Vòng Tay Lớn” chào mừng các “đồng chí” của anh ta (từ Bắc vô Nam nối liền nắm tay…). Tôi không biết gì về Nguyễn Hữu Hạnh chỉ vì tôi không trực tiếp ở trong quân đội. Tôi cũng không biết ông ta là Cộng Sản hay chỉ là người Cơ Hội.
Xe cộ, binh phục, và vũ khí bỏ bừa bãi đầy trên đường phố. Trẻ con nghịch đùa với vũ khí và đạn pháo M30, và cũng đã có vài tai nạn xãy ra. Vài người tháo rời những thứ trong xe cộ do những người di tản bỏ lại và lấy đi những gì lấy được. Không còn cảnh sát giữ trật tự đường phố nữa nên xe cộ bị tắc nghẽn và mất trật tự. Vài thanh niên mang băng đỏ đã tự đứng ra làm người chỉ dẩn lưu thông cố duy trì trật tự.
Khoảng trưa, đơn vị VC vào chiếm Đài Phát Thanh Sài Gòn và tuyên bố chấp nhận việc đầu hàng vô điều kiện của tướng Dương Văn Minh, tổng thống cuối cùng của cái gọi là “Ngụy Quyền Nam Việt Nam”. Đó là lần đầu tiên tôi nghe danh từ “ngụy quyền” và “ngụy quân”. Cùng lúc đó, Cộng Sản tuyên bố rằng Sài Gòn trở thành thành phố Hồ Chí Minh. Tôi không còn nghe tiếng của Trịnh Công Sơn và Nguyễn Hữu Hạnh đâu nữa. Bài ca “Sài Gòn Quật Khởi” đã thay vào đó, và đó cũng là lúc mà dân Sài Gòn lần đầu tiên được nghe một loại nhạc vừa nhanh vừa có âm điệu giống như nhạc Tàu. Sài Gòn đã được tiếp thu bởi cái gọi là “Ủy Ban Quân Quản Thành Phố” do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch.
Vài chiếc xe Molotova, loại xe nhà binh của Liên Xô, bắt đầu thấy xuất hiện trên đường phố chở đầy những bộ đội Bắc Việt trong quân phục xanh với “nón cối” một loại nón của bộ đội Bắc Việt. Dân chúng đổ ra đường để chào đón những người lính Cộng Sản, những con người còn quá trẻ và quá lạc lõng trong ánh sáng chói lọi của Sài Gòn. Đó là cách mà dân Sài Gòn chuẩn bị cuộc sống của họ với những người Cộng Sản! Những lo lắng của họ đã thành sự thật, và họ đành phải chào đón những người Cộng Sản với niềm vui để che dấu những lo âu đang mang trong lòng. Tôi không thể phân biệt được ai là kẻ có một cảm tình thật sự!
Vẫn còn vài người chở trên xe đạp hay xe gắn máy những hàng hóa lấy được trong những nhà kho bỏ lại chen lẫn với dân chúng đang chào đón những bộ đội chiến thắng. Dân Sài Gòn bắt đầu giãm đi những lo âu khi thấy những bộ đội Bắc Việt rất là luộm thuộm và lạc lõng. Trẻ con bắt đầu quen dần với VC và chúng còn leo lên cả trên những chiếc xe tăng của VC. Trong lúc đó thì đài truyền hình Sài Gòn lại chiếu cảnh một chiếc xe tăng Cộng Sản cày bừa lên cánh cổng mở rộng của dinh Tổng Thống, bắn một cách vô nghĩa vào tòa nhà, và cây cờ của VC đã được kéo lên nóc dinh. Cờ ba màu của mặt trận giải phóng miền Nam treo khắp nơi. Vài tiệm của người Tàu còn treo cả cờ của Trung Cộng nữa.
Cuộc chiến ghê gớm nhất trong hai mươi năm đã chấm dứt một cách dễ dàng; những người chiến thắng thì ngỡ ngàng, và những kẻ thất bại thì vẫn chưa tin vào sự thật! Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt, nhưng cái gì đây sẽ tiếp tục sau cuộc chiến? Đối với những sĩ quan của chế độ củ và đối với bản thân tôi thì dĩ nhiên là đang chờ đợi những cuộc trả thù. Bất cứ điều gì xãy đến, chúng tôi đều phải chấp nhận hết vì chúng tôi đã chiến bại. Cái chết sẽ là điều cuối cùng; tôi nghĩ thế. Nhưng đối với nhân dân nước tôi, đặc biệt là dân Sài Gòn, điều gì sẽ đến với họ đây khi họ là những người đã quen sống với sự tự do? Nền hòa bình mà Cộng Sản mang đến cho đất nước tôi dường như là khó chịu ngay đối với những người dân chưa hề có dính líu gì đến chế độ cũ. Sự đối nghịch giữa những bộ đội miền Bắc và dân Sài Gòn trông quá rõ ràng nhất là vẻ bên ngoài. Những bộ quân phục luộm thuộm với những đôi dép râu của VC quả thật rất khó được chấp nhận bởi dân Sài Gòn, những người đã quen với thời trang.
Không lâu sau khi tiếp thu Sài Gòn, Ủy Ban Quân Quản thành phố Hồ Chí Minh ban hành một số quy định nhằm mục đích làm thay đổi lối sống của Sài Gòn: bất cứ ai còn sống theo lối sống của Mỹ như mở hộp đêm, khu giải trí, hoặc ăn mặc “sặc sỡ” sẽ bị phạt. Nhiều thanh niên nam nử bị cắt quần ống loe và mái tóc dài. Trên đường phố đã thấy có dấu hiệu của sự thay đổi: chiếc áo dài truyền thống đã biến mất để thay vào đó bằng áo bà ba và quần đen. Băng khẩu hiệu và bảng hiệu của các cửa hàng cũng đổi màu thành nền đỏ chử vàng. Bệnh viện Từ Dũ đổi tên thành “xưởng đẻ”! Bệnh viện Nguyển Văn Học thành “Bệnh Viện Nhân Dân tỉnh Gia Định”. Danh từ “nhân dân” được dùng khắp nơi: Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Chính Quyền Nhân Dân, và đặc biệt là “Tòa Án Nhân Dân”. Mọi cái đều là của nhân dân, nhưng Cộng Sản điều khiển hết mọi thứ. Trong mọi văn bản của VC, luôn có tiêu đề:
Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam
Độc Lập, Hòa Bình, Trung Lập.
Nhưng không ai tin đây là một quốc gia trung lập ngoại trừ một nước Cộng Sản.
Ngày thứ Năm, 1 tháng Năm 1975 cũng là ngày Lao Động của Cộng Sản Quốc Tế. VC tổ chức một cuộc diễn binh vĩ đại gồm có xe tăng T-54 và PT-76, hỏa tiển SAM của Sô Viết và tất cả mọi thứ vũ khí của các nước Cộng Sản. Hàng trăm ngàn người dân Sài Gòn và vùng phụ cận hiếu kỳ đổ xô vào xem.
Tôi đưa vợ tôi đến nhà ba má cô ấy. Đường phố đông đúc. Mặc dù tôi nghe rằng vài tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn chưa đầu hàng, nhưng VC đã tuyên bố rằng chúng đã hoàn tất nhiệm vụ giải phóng đất nước. Cuộc diễn hành được tổ chức ở Sài Gòn, trước dinh Tổng Thống cũ chính là để ăn mừng chiến thắng của họ. Đường phố được trang hoàng bởi rừng cờ và biểu ngữ màu đỏ chói, màu của máu. Tôi nhìn thấy những biểu ngử như: “Không có gì quý hơn Độc Lập, Tự Do”, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Hầu hết những khẩu hiệu đều mang tên tác giả là Hồ Chí Minh.
Tôi không biết những cái đó có đúng không, nhưng có một khẩu hiệu đã khiến tôi buồn cười. Khẩu hiệu đó cũng nói rằng do Hồ Chí Minh là tác giả: “Kế hoạch mười năm là trồng cây, kế hoạch trăm năm là trồng người”. Tôi đã biết câu nói này là của Quản Di Ngô, một chiến lược gia thời Đông Chu, vào thế kỷ thứ 5 trước Thiên Chúa giáng sinh.Hình của Hồ Chí Minh treo cùng khắp nơi với câu: “Chủ Tịch Hồ Chí Minh Vĩ Đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”. Hồ đã từng là người Cộng Sản đầu tiên của Việt Nam và là một người Cộng Sản Quốc tế ở Liên Xô, Hồ đã chết vào năm 1969 sau khi thất bại trong việc mưu toan thôn tính miền Nam vào Tết Mậu Thân. Vào lúc này thì người dân miền Nam đã nhận thức được điều mà họ đã từng nghe nói về “Bác và Đảng”. Ở miền Bắc Việt Nam, không có gì ngoài Bác -bác Hồ- và Đảng -đảng Cộng Sản-. Đối với người dân trong chế độ Cộng Sản miền Bắc Việt Nam thì gia đình, tổ quốc, tôn giáo đều không có ý nghĩa gì ngoài Bác và Đảng! Và giờ đây điều đó đã trở thành cái thực tế để nhân dân miền Nam chiêm nghiệm những gì mà họ đã nghe được trước kia. Nghĩ đến điều này, tôi bỗng cảm thấy tội nghiệp cho dân tộc mình.
Bằng cách ban hành những quy định cho nếp sống mới, VC đã loại trừ tự do cá nhân của dân chúng, và bằng cách đóng cửa báo chí, họ đã chấm dứt quyền tự do ngôn luận của người dân. Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo?Đường phố từ nhà tôi đến nhà ba mẹ vợ tôi đã được trang hoàng đỏ chói. Cờ ba màu của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam chen lẫn với cờ đỏ của Bắc Việt và cờ của Cộng Sản Trung Hoa treo trước mọi nhà. Băng biểu ngử và vài bảng hiệu cũng nhuộm màu đỏ. Dân Sài Gòn thích ứng rất nhanh với hoàn cảnh.
Nhưng vẫn còn dấu hiệu của những cây cờ ba sọc đỏ của VNCH đã được vẽ lên trước đây. VC chưa đủ thời giờ để xóa hết những thứ này cũng như những khẩu hiệu cũ:
“Đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm” hoặc “Đất nước còn là còn tất cả, đất nước mất vào tay Cộng Sản là mất tất cả.”
Những cái ấy dường như là một chứng tích cho dân chúng để họ có cơ hội nhận rõ những hành động của Cộng Sản trong những ngày sắp tới.
Một cuộc chiến tranh tàn bạo đã chấm dứt một cách dể dàng, nhưng tôi nghĩ vết thương của nó sẽ không dễ gì hàn gắn được. Đối với người dân miền Nam, những người đã quen sống trong tự do, chắc sẽ không dễ gì sống được trong một chế độ độc tài, nhất là dưới chế độ Cộng Sản.
Anh chị vợ tôi, Linh và Lan, đều ở bên nhà ba má vợ tôi. Họ chưa dám ở nhà họ một mình. Linh nói với tôi rằng chúng tôi phải trình diện tại cơ quan vào ngày mai, 2 tháng 5 theo lệnh của ông Lộc, nguyên đặc ủy trưởng. Tôi không biết phải làm sao vì tôi đã nghe nói rằng người tiếp thu cơ quan là Nguyễn Tá, người đã từng làm việc chung với tôi trong khi tôi còn làm trong ban nội chính. Tá đã trốn vào mật khu khi bị nghi ngờ là VC. Tôi từng đi công tác ở Đà Lạt với Tá khi tôi đang theo dõi những hoạt động của nhóm “Lực Lượng thứ ba”, nhưng tôi nghĩ chắc anh ta chỉ biết bí danh của tôi chứ chưa biết tên thật.
– “Tôi nghĩ chúng ta phải lựa chọn thôi bởi vì không thể nào trốn tránh mãi được. Sinh mạng chúng ta giờ đây giống như con cá nằm trên thớt, chúng ta không còn gì khác hơn là phải đánh cuộc với số mệnh.” Linh nói.
– “Chúng ta thì coi như đã chết rồi từ ngày hôm qua.” Tôi trả lời. “Tôi thì chẳng còn tha thiết đến điều gì nữa cả, tôi sẽ đi vào cơ quan ngày mai với anh để xem tình hình thế nào. Nhưng tôi cảm thấy không yên tâm về vợ tôi với cái bầu của cô ta.”
Chúng tôi nhìn nhau im lặng. Linh và tôi có cùng hoàn cảnh vì chị vợ tôi và vợ tôi đều cùng làm trong cơ quan. Tôi không biết có nên để vợ tôi đi trình diện hay không, nhưng rồi cô ấy không muốn ở nhà để chờ đợi tôi. Vợ tôi cũng muốn được cùng chấp nhận mọi điều xảy ra cho chúng tôi. Thêm vào đó, vợ tôi cũng không thể trốn đi đâu được vì hồ sơ giấy tờ vẫn còn lại trong văn phòng, và VC đã biết mọi điều về chúng tôi
-
Phần 2
Trại Cải Tạo Long Thành
Chương 8
Cải TạoHầu hết nhân viên của Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo không thể di tản được đều có mặt ở trụ sở trung ương sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975 nhưng lại ở ngoài sân thay vì trong văn phòng như mọi ngày. Chúng tôi phải trình diện cho cái gọi là “Uỷ ban Quân Quản” của “Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời”. Mọi người cố giử vẻ bình tỉnh, nhưng không ai có thể che dấu được sự lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt. Mặc dù rất đông người trong sân, một sự im lặng nặng nề bao phủ khắp nơi. Ai nấy đều thì thầm với nhau dường như sợ rằng lời nói của mình có thể bị người khác nghe được. Không như tôi đã dự đoán, Tuân, Banh, và hầu hết những người làm việc với tôi như Nhàn, Trung, Tâm, Trí, Lâm, Vinh, đều ở lại. Tôi nghĩ họ đều độc thân, hay gần như độc thân, việc leo lên một con tàu nào đó để đi là một việc rất dễ dàng đối với họ. Tuy nhiên, tôi đoán rằng có lẽ họ đều đã quá tin vào kế hoạch di tản chung của Phủ. Một kế hoạch không hoàn chỉnh đã tạo nên một tình trạng bi thảm như thế này đây! Giờ này thì mọi người chỉ còn biết giao tính mạng mình cho sự may rủi mà thôi.
Sau khi đã điền tên vào giấy để trên bàn đặt giữa sân, vợ tôi và tôi đến gặp Linh và Lan, chị vợ tôi cùng chồng chị ấy. Giấy tờ chúng tôi đã tiêu hủy vào tối hôm qua nên không thể nộp cho viên thư ký ngồi ở bàn theo lời yêu cầu của ông ta. Tôi không biết viên thư ký này, nhưng vài người cho chúng tôi biết đó là trung tá Khương, trước đã từng là Chánh sở An Ninh của Phủ. Tôi cũng không rõ ông ta là Việt Cộng hay chỉ là người Cơ Hội! Tôi đi ngang qua Tuân và Banh; cả hai chỉ nhìn tôi gật đầu không nói lời nào. Tôi không còn nghe tiếng cười của Tuân và Banh như thường ngày nữa. Chúng tôi chỉ trao nhau những nụ cười chua cay để thay vào đó.
Lần đầu tiên chúng tôi phải ngồi xổm xuống đất để đợi đến phiên mình làm giấy tờ. Long, cựu nhân viên của phòng tuyển mộ gọi tên từng người trong danh sách; chúng tôi tuần tự đến ký tên vào một tờ giấy đặt trên bàn ở gần cổng của phòng y tế, kế bên bãi đậu xe.
Những ngày từ 2 tháng năm đến 14 tháng sáu, tôi nhớ có hai lần tôi phải đến trình diện với những tên VC đã tiếp thu Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo. Lần đầu tiên -tôi không nhớ rõ ngày nào – họ cử hai người mặc thường phục đến nhà mẹ tôi chở tôi đến một trụ sở cũ của cơ quan ở đường Trần Bình Trọng. Chúng bảo tôi viết lại những gì tôi biết được về khoảng thời gian từ năm 1969 đến 1972 lúc tôi trà trộn trong sinh viên để tiếp cận với Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn do Huỳnh Tấn Mẫm làm chủ tịch. Họ giữ tôi từ sáng đến sáu giờ chiều mới đưa tôi về nhà. Tôi phải đưa tiền để mua phần ăn trưa. Lần thứ hai, họ gửi thư gọi tôi đến trình diện tại nhà an toàn cũ của ban A17 tại đường Phan Thanh Giản, nơi đây tôi gặp Nguyễn Tá, người đã làm việc chung với tôi khi tôi còn làm ở Ban Z, Ban Công Tác Nội Chính, và cũng là người đã tiếp thu Phủ. Tôi nghĩ lần đó chỉ vài ngày trước khi tôi phải đi trình diện cải tạo. Tôi không phải viết gì lần này. Nguyễn Tá khuyên tôi nên đi trình diện học tập cải tạo theo chỉ thị của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời để được sự khoan hồng của nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
Kể từ đó, danh từ “Cải Tạo” được nghe nói đến khắp nơi! Cải Tạo Tư Tưởng, Cải Tạo Nếp Sống, Cải Tạo Xã Hội, Cải Tạo Kinh Tế, vân vân và vân vân, được loan báo hàng ngày trên đài phát thanh và truyền hình. Binh sĩ Nam Việt Nam trình diện cải tạo và được thả về sau ba ngày. Hạ Sĩ Quan Nam Việt Nam được thả về sau bảy ngày cải tạo, và rồi sĩ quan từ cấp thiếu uý đến đại uý phải học tập trong 10 ngày. Sĩ quan từ Thiếu Tá trở lên, nhân viên chính quyền từ Trưởng Ty đến Tổng Thống cũng như nhân viên tình báo trung cấp và cao cấp phải trình diện học tập trong một tháng.
Theo thông cáo của Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời, lịch trình trình diện của chúng tôi là từ ngày 13 tháng sáu đến 15 tháng sáu và địa điểm là trường Trung Học Chu Văn An. Chúng tôi phải đóng tiền ăn trong một tháng là mười bốn ngàn đồng cho mỗi người và phải mang theo chăn màn quần áo. Mọi việc diễn tiến rất hợp lý. Cộng Sản chọn trường học để làm địa điểm trình diện cải tạo và quy định thời gian hợp lý cho từng cấp bậc. Mặc dù chúng tôi không tin vào lời nói của Cộng Sản, chúng tôi cũng phải tự trấn an bằng cách hy vọng điều đó là sự thật. Ngoài ra, chúng tôi làm được gì trong hoàn cảnh ấy, và chúng tôi có thể trốn đi đâu bây giờ? Chúng tôi coi như đã chết rồi từ ngày 30 tháng tư.
Ngày 13 tháng sáu nhằm ngày thứ sáu, ngày xui xẻo! Ngày 14 là Tết Đoan Ngọ, mồng 5 tháng năm, cũng là ngày xui đối với người Việt Nam! Chúng tôi quyết định chọn ngày 14 tháng sáu là ngày đầu tiên đi cải tạo với hy vọng rằng hai cái xui sẽ trở thành một cái hên! Tôi chẳng còn tiền để đóng nên đành phải cầm thế chiếc nhẩn cưới để có tiền đi cải tạo. Điều này giống như một chuyện đùa, nhưng đó chính là sự thật mà tôi đã trải qua một cách cay đắng.
Trên chuyến xe buýt từ nhà mẹ tôi đến trường Trung Học Chu Văn An, chúng tôi gặp một ông lão, ông ta hỏi chúng tôi đi đâu vậy. Tôi nghĩ rằng ông nhìn thấy đồ đạc cồng kềnh của chúng tôi. Tôi trả lời rằng chúng tôi đi “học tập cải tạo!”. Ông ta nhìn chúng tôi cười một cách khó hiểu và chúc chúng tôi may mắn. Lúc đó tôi không hiểu được ý nghĩa nụ cười của ông ta, tôi đoán chắc ông ấy tỏ vẻ thương hại chúng tôi. Không chỉ có hai chúng tôi đi cải tạo mà còn có cả đứa con còn trong bụng vợ tôi nữa!
Trường Trung Học Chu Văn An là trường mà tôi đã theo học vào lớp 12. Đó là năm 1963, năm mà Dương Văn Minh được Mỹ giúp sức để làm cuộc đảo chánh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bắt đầu xáo trộn miền Nam Việt Nam ngõ hầu Mỹ có cơ hội đưa quân vào Việt Nam. Mười hai năm sau, tôi lại trở lại trường xưa, và Dương Văn Minh, người đã vừa giúp đở VC chiếm miền Nam, đang ở trong Đại Học Xá Minh Mạng dành cho sĩ quan từ cấp đại tá đến cấp tướng ở kế bên.
Bạn bè và đồng nghiệp của tôi đang đứng phía trước trường. Lan và Linh, vợ chồng chị vợ tôi đã trình diện vào hôm qua sau khi giao hai đứa con trai bốn tuổi và một tuổi cho ông bà ngoại nuôi dùm. Nhìn cái bụng vợ tôi, tôi tự hỏi làm sao cô ấy có thể chịu đựng được một tháng cải tạo cho dù đó là một tháng như họ nói. Nhưng tôi lại nghĩ mỗi người đều có hoàn cảnh khó khăn riêng. Hơn nữa, tôi nghĩ rằng chúng tôi coi như đã chết từ cái ngày “giải phóng”. Phần còn lại chỉ là một cuộc sống vô vọng; ranh giới giữa cái sống và cái chết chỉ là một danh từ. Trong ý nghĩ đó, chúng tôi bước vào ngày cải tạo đầu tiên của chúng tôi sau khi nói đùa với bạn bè rằng “ai đi sớm sẽ được về sớm.”
Trường Trung Học Chu Văn An nằm đối diện với nhà thờ Ngã Sáu, trên đường Minh Mạng thuộc quận Năm Sài Gòn. Từ trường tôi có thể nhìn thấy trụ sở Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn trên đường Hồng Bàng nơi tôi thường đến hầu như hàng ngày từ năm 1969 đến năm 1975 trong công tác. Trường có hai dãy nhà hai tầng. Tôi được đưa vào nhà đầu tiên, vợ tôi cũng thế. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy quang cảnh trên đường phố bên ngoài. Vợ tôi vào phòng đầu tiên dành cho phụ nữ, nơi từng là lớp học của tôi mười hai năm trước. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là đời tôi đang diễn ra những sự trùng hợp kỳ lạ. Tôi đứng trên ban-công của trường nhìn về phía nhà thờ nơi tôi từng chơi đùa cùng bạn bè. Bạn tôi vẫn đang ở đấy, nhưng họ không phải là những người bạn học cũ của tôi. Một vài người lo lắng quay về nhà; một vài người khác vội vã băng qua đường để vào “trường” sau khi từ giã thân nhân.
Lớp học nơi tôi bước vào hoàn toàn trống rỗng. Mọi vật đã được dời đi nơi khác. Tôi trải chiếc chiếu cói lên sàn nhà nơi được đặt bục giảng của giáo sư trước kia. Chúng tôi chia nhau mỗi người một khoảng trống khoảng vừa một chiếc chiếu. Cái ba-lô biến thành gối nằm và nó đi theo cùng tôi đến lúc tôi trở về mười bảy năm sau. Trong ba-lô, tôi có 1 cái mùng nilon, một cái mền nilon nhà binh, hai quần Jean, hai áo sơ mi, cái bi-đông đựng nước uống, cái áo khoác, một pon-sô nhà binh, mười gói mì ăn liền, một gói cơm sấy, một gói thịt khô, và một gói đựng thuốc gồm Tylenol, Penicillin, thuốc tiêu chảy, Quinine, và một cuộn băng keo. Tôi chuẩn bị cho một cuộc sống trong rừng chứ không phải trong thành phố. Cái mà tôi quên là chiếc võng mà tôi nghĩ có lẽ sẽ rất cần thiết với tôi sau này. Lớp học gợi tôi nhớ đến những người bạn xưa, vài người đã chết trong cuộc chiến, vài người đang ở nơi nào đó bên ngoài kia, một vài người chắc đang ở trong hoàn cảnh giống như tôi bây giờ đây.
Tôi đi qua phòng vợ tôi. Mọi người trong phòng đã giúp vợ tôi có chổ nằm kế bên chị vợ tôi. Ngọc, Liễu, Ba, những người đàn bà làm chung với vợ tôi trước kia ở phòng tuyển mộ cố an ủi tôi bằng cách hứa sẽ chăm sóc vợ tôi khi cô ấy cần. Tôi rời vợ tôi sau một lúc và đi quanh tìm bạn bè.
Mọi người đang bàn tán về danh từ “cải tạo” của Cộng Sản, nhưng không ai dám nhìn nhận sự thật rằng cải tạo không gì khác hơn là trả thù. Danh từ “tẩy não” và quyển sách “Trại Đầm Đùm” được viết bởi một nhà văn ở miền Nam là những gì mà tôi được biết về sự cải tạo của Cộng Sản, nhưng sự thật về cái gọi là “Cải Tạo” vẫn còn là một điều bí mật đối với tôi. Chúng tôi đã được biết ít nhiều về việc cải tạo các “Cosack” ở Liên Sô sau khi Cộng Sản cầm quyền ở đây, các Cosack được đưa đi Siberia để cải tạo và chết ở đấy. Sau khi chiếm Trung Quốc, Cộng Sản đã đưa hàng trăm ngàn người Trung Hoa Quốc Gia đi Tân Cương để cải tạo và chết ở đó. Nhưng chúng tôi không biết gì về số phận các người Việt Nam sau khi Hồ Chí Minh chiếm miền Bắc. Họ đã bị giết chết hay vẫn còn trong các trại tập trung ở miền Bắc Việt Nam? Những người Cộng Sản Việt Nam đối xử thế nào với kẻ thù của họ?
Tôi không nghĩ Cộng Sản Việt Nam sẽ làm một cuộc thảm sát giống như Hitler đã làm ở các lò sát sinh vì chúng không muốn làm mục tiêu cho công luận, nhưng giết lần mòn là điều mà họ có thể thực hiện mà không sợ ai phản đối. Đi vào trại, chúng tôi phải chấp nhận mọi điều xãy ra ngay cả điều xấu nhất, đó là cái chết.
“Tẩy Não” và “Cải Tạo” có lẽ là hai từ rất tương đương nhau! Cộng Sản “tẩy não” kẻ thù của họ như thế nào? Cải tạo tư tưởng là từ mà Cộng Sản dùng rất nhiều trong những ngày đầu “giải phóng”. Chúng bảo rằng nhân dân miền Nam đã từng sống một thời gian dài với Đế Quốc Mỹ và Ngụy Quyền Nam Việt Nam cần phải được cải tạo tư tưởng để thích hợp với xã hội mới: Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa!
Nhưng cải tạo như thế nào vẫn là một điều khó hiểu. Mỗi nơi có một cách để cải tạo. Những thanh niên bị cắt quần ống loe, phụ nử không được mặc áo dài và không được trang điểm, cái gọi là “nhạc vàng” bị cấm triệt để, sách vở xuất bản ở miền Nam Việt Nam bị coi là “phản động và đồi trụy” và bị thiêu huỷ, dân chúng phải lao động và thu nhập tuỳ theo công sức mà họ đóng góp, vân vân và vân vân. Đó là những điều mà Cộng Sản gọi là cải tạo xã hội. Nhân viên của chế độ cũ phải được học tập những điều gọi là “tội ác” của Đế quốc Mỹ và Ngụy quyền cùng chiến thắng của cách mạng và của Xã Hội Chủ Nghĩa. Đó là những điều mà Cộng Sản gọi là cải tạo tư tưởng để thích hợp vơi xã hội mới. Mặc dù chúng tôi không tin đơn giản như vậy, nhưng chúng tôi lại hy vọng mọi việc sẽ không đến nỗi quá tồi tệ. Điều đó cũng rất tự nhiên đối với một con người khi lâm vào cảnh khốn cùng thì luôn mong mỏi một điều gì đó khá hơn để mà tự an ủi mình. Chúng tôi không thể đi đâu được, không thể trốn tránh được, chúng tôi đành phải đặt số phận mình vào tay kẻ thù, đi vào trại cải tạo và chờ đợi mọi điều có thể xảy ra với chúng tôi.
Chương 9
Điều Vô Lý
Vài chiếc xe van mang tên của những nhà hàng ăn ở Sài Gòn như “Bách Hỷ”, “Đại La Thiên”, “Đồng Khánh”, “Mandarin”, tiến vào trường. Nam nữ tiếp viên mặc đồng phục trắng xếp thức ăn lên bàn đặt trong sân trước trường gần cổng chính, và rồi từ chiếc loa phóng thanh treo ở dãy nhà đầu tiên vang lên lời mời “trại viên” đi ăn cơm chiều! Những “trại viên” vào ngày hôm qua đi đến bàn ăn một cách tự nhiên, nhưng những “trại viên” mới vào đi theo một cách lúng túng. Tôi cùng vài người trong đội đi đến bàn ăn của nhà hàng “Bách Hỷ”, lấy một ít thức ăn vào chén rồi đến ngồi ăn chung với vợ tôi. Chị vợ tôi nói rằng ngày hôm qua “họ” giải thích phần ăn ấy là tiền của chúng ta đóng góp. Họ chưa có nhà bếp nên phải mua từ những nhà hàng đến phục vụ chúng ta. Lời giải thích rất hợp lý, nhưng nhìn những bộ đội của họ đang canh gác quanh trường ăn cơm với rau muống và nước mắm trong những mâm nhôm, chúng tôi cảm thấy nghi ngờ! Chúng đang làm gì đây? Thật là một điều vô lý! Có phải đó là một cách để che mắt nhân dân Sài Gòn, và đối với những phóng viên ngoại quốc ngoài kia có lẽ đó là cơ hội tốt để loan truyền về chính sách nhân đạo của Cộng Sản!
Sau khi cuộc chiến Việt Nam chấm dứt, phóng viên ngoại quốc vẫn tiếp tục quan sát và săn tin về những gì đang xảy ra sau cái gọi là “giải phóng” của Cộng Sản Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến lớn nhất sau Thế Chiến thứ hai, do đó Cộng Sản luôn tạo cơ hội tuyên truyền khắp thế giới cũng như họ đã làm như thế trong chiến tranh. Phóng viên ngoại quốc luôn luôn là phương tiện cho họ thực hiện chiến lược này. Ai có thể biết được những gì xảy ra bên sau bức màn sắt? Tôi không tin họ đối xử với chúng tôi như vậy mà không có mục đích gì. Cộng Sản luôn luôn dùng một hành động này để che dấu một hành động khác. Điều gì sẽ xảy ra cho chúng tôi sau khi họ đạt được mục tiêu tuyên truyền về chính sách nhân đạo của họ đối với kẻ thù? Tất cả chúng tôi đang chờ đợi những điều sắp xảy ra.
